Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

skkn tổ chức dạy học chủ đề “các nước tư bản chủ nghĩa giai đoạn 1918 1945” nhằm phát triển năng lực và phẩm chất học sinh ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.74 MB, 92 trang )

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỘT – ĐẶT VẤN ĐỀ

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Điểm mới. đóng góp của sáng kiến

2

PHẦN HAI – NỘI DUNG

3

Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn trong dạy học lịch sử theo chủ đề 3
nhằm phát triển năng lực, phẩm chất học sinh ở trường THPT
1.1.Cơ sở lí luận

3

1.2. Cơ sở thực tiễn

4

1.3. Giải pháp



6

Chương 2: Xây dựng và tổ chức dạy học chủ đề “Các nước tư bản chủ 8
nghĩa giai đoạn 1918-1945” nhằm phát triển năng lực, phẩm chất học
sinh ở trường THPT
2.1. Nội dung chủ đề

8

2.2. Xác định mục tiêu chủ đề

20

2.3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh

22

2.4. Xây dựng bảng mô tả các mức độ nhận thức năng lực, phẩm chất...

22

2.5. Biên soạn câu hỏi / bài tập theo đinh hướng phát triển năng lực, phẩm 25
chất
2.6. Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm về việc xây dựng, tổ chức dạy học
chủ đề các nước tư bản chủ nghĩa giai đoạn 1918-1945 nhằm phát
triển năng lực, phẩm chất học sinh ở trường THPT

40

59

3.1. Đối tượng thực nghiệm

59

3.2. Phương pháp thực nghiệm

59

3.3. Kết quả thực nghiệm

59

PHẦN BA – KẾT LUẬN

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN
Nội dung

Viết tắt

Giáo viên

GV


Học sinh

HS

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Tư bản chủ nghĩa

TBCN

Chủ nghĩa phát xít

CNPX

Dạy học chủ đề

DHCĐ

Chiến tranh thế giới thứ nhất

CTTGI

Chiến tranh thế giới thứ hai

CTTGII

Phát triển năng lực, phẩm chất


PTNL, PC

Sách giáo khoa

SGK

Dạy học lịch sử

DHLS

Chủ đề



Trung học phổ thông

THPT

Phát triển năng lực, phẩm chất

PTNL, PC

Chương trình giáo dục phổ thông

CTGDPT



PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lí do chọn đề tài.
Dạy học lịch sử ở trường THPT không chỉ trang bị cho học sinh những kiến
thức cơ bản về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, mà còn phát triển năng lực và
phẩm chất cho các em. Trên cơ sở đó, các em sẽ được phát triển một cách toàn
diện. Song muốn thực hiện được chức năng, nhiệm vụ đó cần thiết phải đổi mới
phương pháp dạy học theo tinh thần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo tư duy của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng
thực hành và lịng say mê, ý chí vươn lên trong học tập.
Nhưng trên thực tế hiện nay, phần lớn các GV dạy lịch sử ở các trường
THPT chỉ chú ý truyền thụ kiến thức lịch sử, ít quan tâm đến nhu cầu tìm hiểu,
khám phá lịch sử của học sinh nên khơng tạo được hứng thú học tập lịch sử cho
các em. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh không quan tâm
học lịch sử, tâm lý nhàm chán, đối phó trong học lịch sử. Hậu quả là phần lớn
học sinh không nắm được kiến thức lịch sử cơ bản, mơ hồ về sự kiện, nhầm lẫn
kiến thức, điều này thể hiện rõ trong kết quả các kì thi THPT quốc gia những
năm gần đây.
Vậy, vấn đề đặt ra là làm sao khôi phục được bức tranh lịch sử sinh động
trước mắt các em, làm thế nào để học sinh có hứng thú, ấn tượng sâu sắc về bài
học lịch sử? Đây là một câu hỏi lớn cho nghành giáo dục, đặc biệt là đội ngũ
giáo viên dạy lịch sử. Bản thân tôi cũng rất trăn trở trong việc tìm ra những
phương pháp dạy học tích cực. Thơng qua thực tiễn dạy học, tôi nhận thấy dạy
học theo chủ đề ở các trường THPT có vai trị và ý nghĩa to lớn, là một trong
những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử, đồng thời góp phần phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. Bởi
vì, dạy học theo chủ đề là một mơ hình mới với sự kết hợp giữa mơ hình dạy học
truyền thống và hiện đại bằng việc chú trọng những nội dung học tập có tính
tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Giáo viên không dạy học chỉ bằng cách
truyền thụ kiến thức mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông
tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo

về định hướng đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông, Sở Giáo dục và Đào
tạo Nghệ An đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho giáo viên nhằm đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng
lực, phẩm chất học sinh thông qua việc xây dựng và dạy học theo chủ đề. Tuy
nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như đồng nghiệp, tôi thấy việc dạy
học chủ đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất chưa phổ biến.
Các chủ đề được xây dựng trong thời gian vừa qua chủ yếu là theo các
chương/bài được xây dựng trong SGK, nội dung kiến thức còn dàn trải mà chưa
đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể xuyên suốt một giai đoạn lịch sử hoặc một nhân
Trang 1


vật lịch sử nên về cơ bản khơng có cái “mới”, cái “khác” trong chủ đề so với nội
dung bài học sách giáo khoa nên chưa kích thích được sự tò mò, hấp dẫn và khả
năng tổng hợp của HS.
Mặt khác, chương trình giáo dục phổ thơng mới đã được xác định sẽ dạy
theo chủ đề và chuyên đề. Chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể và chương
trình giáo dục phổ thơng mơn Lịch sử đều hướng tới hình thành và phát triển
phẩm chất và năng lực cho người học. Vì vây, việc thiết kế và tổ chức dạy học
theo chủ đề là cần thiết, góp phần đổi mới đổi mới phương pháp dạy học theo
đinh hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, bản thân tơi nhận thấy nếu tổng hợp
được kiến thức của từng chương/bài lại và đi sâu vào một lĩnh vực của các
chương/bài, mổ xẻ nó thì HS sẽ hứng thú học hơn và phát triển được các năng
lực, phẩm chất chung cũng như NL, PC riêng của bộ mơn.
Với những lí do trên, tơi mạnh dạn chọn đề tài: Tổ chức dạy học chủ đề
“Các nước tư bản chủ nghĩa giai đoạn 1918-1945” nhằm phát triển năng lực
và phẩm chất học sinh ở trường Trung học phổ thơng làm đối tượng nghiên
cứu. Hi vọng cơng trình nghiên cứu này, sẽ góp phần giúp học sinh hứng thú và
hiểu biết sâu sắc về lịch sử các nước tư bản chủ nghĩa nói riêng, về lịch sử thế

giới nói chung. Qua đó phát triển các năng lực, phẩm chất cho HS.
2. Điểm mới, đóng góp của sáng kiến.
- Hệ thống hóa cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng và tổ chức dạy
học theo chủ đề trong môn Lịch sử ở trường THPT, đáp ứng yêu cầu của đổi mới
phương pháp dạy học chương trình hiện hành và chương trình giáo dục phổ
thơng môn Lịch sử năm 2018.
- Sắp xếp, xây dựng cấu trúc nội dung chủ đề bài giảng mới thông qua việc xâu
chuỗi những vấn đề theo chiều sâu các giai đoạn lịch sử của các nước TBCN từ
năm 1918 đến năm 1945
- Đề xuất các biện pháp tổ chức dạy học theo chủ đề nói chung và chủ đề “các
nước tư bản chủ nghĩa giai đoạn 1918-1945" nhằm phát triển năng lực và phẩm
chất học sinh ở trường THPT.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi/bài tập đi sâu vào chủ đề các nước tư bản chủ nghĩa
giai đoạn 1918-1945 theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh.
- Làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn dạy học bộ môn Lịch sử ở trường
THPT, đặc biệt là thiết kế và tổ chức dạy học theo chủ đề đáp ứng yêu cầu đổi
mới chương trình giáo dục hiện hành và CTGDPT môn Lịch sử năm 2018.
- Kết quả này giúp tôi và đồng nghiệp vận dụng trong quá trình dạy học thực
tiễn, đề tài cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho HS, GV trong q trình dạy và
học.
Trang 2


PHẦN II:NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ THEO CHỦ ĐỀ NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC, PHẨM
CHẤT HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN
Dạy học theo chủ đề là một xu hướng dạy học có tính khoa học và thực tiễn
nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp học sinh có đủ phẩm chất và năng

lực giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện tại. Nhận thức rõ điều này ở nước
ta, Bộ GD&ĐT đã tăng cường công tác chỉ đạo, xây dựng các chủ đề vào quá
trình giảng dạy. Cụ thể:
- Ngày 25/6/2013, Bộ GD&ĐT ban hành Công văn số 791/HD-BGDĐT về việc
Hướng dẫn thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thơng. Việc
xây dựng các chủ đề liên môn là một trong số các hoạt động theo yêu cầu của
công văn.
- Ngày 8/10/2014, Bộ GD&ĐT ban hành Công văn5555/BGDĐT-GDTrH về
việc hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung
học/trung tâm giáo dục thường xun qua mạng. Cơng văn chính là cơ sở quan
trọng nhất cho việc thiết kế và tổ chức các chủ đề và chuyên đề trong DHLS ở
trường phổ thông
-Ngày 03/10/2017, Bộ GD&ĐT ban hành Công văn số 4612/BGDĐT-GDTrH về
việc Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành theo định
hướng phát triển năng lực và phẩm chất HS từ năm 2017-2018.
-Ngày 26/12/2018, Bộ GD&ĐT tạo ban hành Thơng tư số 32/2018/TT-BGDĐT
về việc Ban hành Chương trình giáo dục phổ thông. Đối với môn Lịch sử, việc
dạy học theo các chủ đề và chuyên đề được chính thức xác nhận và sẽ triển khai
trong tương lai.
- Ngày 20/03/2019, Bộ GD&ĐTban hành Công văn số 1106/BGDĐT_GDTrH.
Công văn quy định rõ: căn cứ vào đặc điểm từng vùng miền, các địa phương
nghiên cứu, lựa chọn những nội dung phù hợp để biên soạn theo chủ đề và
hướng dẫn các nhà trường tổ chức thực hiện…
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mơ hình dạy học truyền thống và
hiện đại, ở đó giáo viên khơng dạy học chỉ bằng cách truyền thụ kiến thức mà
chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thơng tin, sử dụng kiến thức vào
giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Thơng qua những hoạt động trong q trình học tập chủ đề, giải quyết
những nhiệm vụ chuyên môn và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, HS sẽ hình

thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu và NL chung theo định hướng của
Trang 3


Chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể và năng lực chuyên biệt theo định
hướng của chương trình các bộ mơn.
Dạy học theo chủ đề có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, nội dung kiến thức của các CĐ dạy học liên quan đến một hay
nhiều lĩnh vực, chuyên ngành.
Thứ hai, dạy học theo CĐ ngoài những nội dung chun mơn cịn hướng
tới những vấn đề của cuộc sống, định hướng nghề nghiệp cho HS.
Thứ ba, dạy học theo CĐ, HS sẽ được tìm hiểu, khám phá, kiến thức mới
và kinh nghiệm của bản thân HS cũng sẽ được khai thác tối đa.
Thứ tư, dạy học theo CĐ phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, tự giác
và sáng tạo ở HS thông qua việc giải quyết chuỗi hoạt động mang tính thực
hành, gắn với thực tiễn
Thứ năm, GV cũng phải tích cực chủ động hơn để dạy học theo chủ đề đạt
hiệu quả cao nhất.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Đối với giáo viên
Để có kết luận xác đáng, tơi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học
sinh và phía giáo viên
Đối tượng điều tra khảo sát là GV, HS ở trường tôi đang công tác và các
trường THPT trên địa bàn huyện.
Phương pháp: gửi phiếu điều tra qua email/ facebook kết hợp với phỏng vấn.
* Nội dung: (Phiếu điều tra phụ lục 1)
Dựa trên kết quả khảo sát GVcác trường tôi công tác và GV THPT trên địa
bàn tôi nhận thấy:
- Các trường THPT đã và đang tiến hành dạy học theo CĐ.Tuy nhiên việc dạy
học theo CĐ chưa được tiến hành không thường xuyên. Trong hoạt động dạy

học, việc xây dựng các CĐ dạy học theo hướng PTNL, PC cịn nặng về hình
thức, chưa thực sự đầu tư nên hiệu quả chưa cao. Phần lớn GV chưa mạnh dạn
sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học theo định hướng PTNL, PC... Việc
vận dụng phương pháp dạy học theo định hướng PTNL, PC hiện nay của một số
GV còn chưa được thường xuyên, thiếu linh hoạt, mang tính rập khn, máy
móc nên chưa gây được hứng thú học tập cho HS.
- Việc xây dựng CĐ mới chỉ dừng lại chủ yếu là xây dựng theo CĐ tương ứng
với các chương/bài trong sách giáo khoa. Các CĐ lịch sử được xây dựng chưa
thật sự đi sâu vào một vấn đề hay một nhân vật lịch sử cịn ít, vì phần lớn giáo
viên cịn ngại đảo lộn, sắp xếp lại kiến thức chương trình trong sách giáo khoa.
Trang 4


- Căn cứ vào nội dung phần hai SGK lịch sử 11 học về lịch sử thế giới hiện đại
từ năm 1917 đến năm 1945, bản thân tôi và các đồng nghiệp đều khẳng định nội
dung các nước TBCN có vị trí quan trọng trong chương trình lịch sử 11 cũng
như tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.Trong giai đoạn lịch sử thế giới
hiện đại, tình hình các nước TBCN giai đoạn 1918-1945 có ảnh hưởng rất lớn
đến quan hệ quốc tế và có tác động khơng nhỏ đến tình hình nước ta.
- SGK lịch sử 11hiện hành chỉ trình bày riêng lẽ các nước tư bản trong chương
II: các nước TBCN giữa hai cuộc chiến tranh theo từng bài: Bài 11: Tình hình
các nước TBCN giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939), bài 12: Nước
Đức giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939); Bài 13: Nước Mĩ giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939). Cách bố cục, sắp xếp như vậy rời rạc,
thiếu tính hệ thống, khó so sánh, khó đánh giá, có những nội dung kiên thức
trùng lặp.
- Mặt khác, trong chương trình SGK hiện hành, sắp xếp, cấu trúc như sau:
chương II: các nước TBCN giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),
gồmcác bài 11, bài 12, bài 13, bài 14, rồi sau đó là chương III:các nước châu á
giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939); tiếp đến chương IV -bài 17:

chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945. Tổng thời lượng của chương II và
chương IV là 6 tiết. Như vậy sau khi dạy các nước CNTB giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới (1918-1939), sau hai bài nữa (bài 15, bài 16) mới dạy bài 17 mà
trong bài 17: cuộc chiến tranh thế giới thứ hai thể hiện rất rõ tình hình các nước
TBCN giai đoạn (1939-1945), các mối quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa,
cũng như mối quan hệ giữa các nước TBCN với Liên Xô, với các nước thuộc
địa, phụ thuộc. Như vậy, cách sắp xếp bố cục của chương trình SGK lịch sử 11
hiện hành khơng những sẽ ngắt quãng mạch kiến thức, mà còn dẫn đến dàn trải
kiến thức, rời rạc, thiếu tính hệ thống, có những nội dung kiến thức trùng lặp nên
giáo viên rất khó khăn trong việc tổ chức dạy học đạt hiệu quả cao.
1.2.2. Đối với học sinh
Dựa trên kết quả khảo sát phiếu điều tra HS (phụ lục 1) và trao đổi trực tiếp với
học sinh trường tôi công tác và các trườngTHPT trên địa bàn tôi nhận thấy:
- Hầu hết học sinh đều cho rằng chương trình SGK thì khơ cứng, khơng hấp dẫn,
nhiều mốc thời gian sự kiện khó nhớ, khó thuộc, một số giáo viên chưa có
phươngpháp dạy học tích cực, hiệu quả nên chưa truyền được niềm đam mê, sự
hứng thú cho các em.
- Đa số học sinh còn cảm thấy xa lạ, chưa quen với việc học tập theo CĐ. Các
emđã quen học theo chương/bài trong sách giáo khoa.
- Phần lớn các em còn lúng túng với phương pháp dạy học mới, dạng bài tập vận
dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn.

Trang 5


- Phần lớn HS chưa biết cách sử dụng các kiến thức thực tiễn và kiến thức liên
môn trong giải quyết các bài tập và làm bài kiểm tra.
- Khi học bài 11, bài 12, bài 13, bài 14, bài 17 theo chương trình SGK lịch sử 11
hiện hành, các em chỉ nắm được các sự kiện diễn ra trong các giai đoạn lịch sử
của từng nước TBCN riêng biệt, nhưng cũng có sẽ những đơn vị kiến thức trùng

lặp, thiếu tính liên hệ tổng thể, bao quát đầy đủ. Như vậy, các emkhó khăn trong
việc so sánh, đánh giá các nước TBCN trong cùng một giai đoạn lịch sử.
Theo chương trình SGK lịch sử 11, HS học các nước TBCN giữa hai cuộc
chiến tranh (1918-1939), sau hai bài nữa các em mới học bài 17 mà bài 17:
chiến tranh thế giới thứ hai thể hiện rõ tình hình chủ nghĩa tư bản giai đoạn
1939-1945, cách sắp xếp, bố cục như vậy sẽ ngắt quảng mạch kiến thức, ngắt
quảng mạch suy nghĩ, tu duy của HS.Các em khó so sánh đặc điểm của các nước
tư bản chủ nghĩa, khó đánh giá được những bước phát triển thăng trầm của các
nước tư bản chủ nghĩa , những tác động của các nước tư bản chủ nghĩa đến quan
hệ quốc tế cũng như tình hình Việt Nam.
- Trong SGK chủ yếu là kênh chữ cung cấp thơng tin, những nội dung tích hợp
của văn học, địa lí, âm nhạc ... vào bài dạy gần như khơng có, kênh hình ảnh để
HS khai thác cịn ít, vì vậy chưa tạo điều kiện cho HS tham gia các hoạt động
học tập và hình thành PTNL, PC trong học tập.
Với cơ sở lí luận và thực tiễn nói trên, tơi đã sắp xếp, cấu trúc lại một số
kiến thức quan trọng của Chương 2 và chương 4. Từ đó,xây dựng cấu trúc nội
dung bài giảng mới thông qua việc xâu chuỗi những vấn đềtheo chiều sâu các
giai đoạn lịch sử của các nước tư bản chủ nghĩa từ năm 1918 đến năm
1945nhằm làm nổi bật bức tranh của các nước tư bản chủ nghĩa từ 1918- 1945.
Làm rõ những bước phát triển thăng trầm của các nước tư bản chủ nghĩa tác
động đến quan hệ quốc tế cũng như tình hình Việt Nam. Đồng thời chủ đề cũng
khai thác những vấn đề trọng tâm về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai 19391945. Sau khi xây dựng, kết cấu chủ đề, tôi tiến hành tổ chức dạy học chủ đề
“Các nước TBCN giai đoạn 1918-1945” với các phương pháp dạy học tích cực
góp phần phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh.
1.3. Giải pháp
- Sắp xếp, xây dựng cấu trúc Chương II: bài 11, bài 12, bài 13, bài 14 và phần
nội dung chủ nghĩa tư bản trong chiến tranh thế giới thứ hai ở bài 17 - chương
IV - SGK lịch sử 11 hiện hành thông qua việc xâu chuỗi những vấn đề theo
chiều sâu các giai đoạn lịch sử của các nước TBCN từ năm 1918 đến năm 1945
thành một CĐ dạy học: “Các nước tư bản chủ nghĩa giai đoạn 1918-1945” trong

thời lượng 5tiết.
- Thiết kế và tổ chức dạy học CĐ với các phương pháp, kĩ thuật dạy học đa
dạng, phong phú phát huy tích cực, chủ động, hứng thú cho HS. Qua đó phát
triển NL, PC cho các em.
Trang 6


- Khi thiết kế chủ đề, GV cần lựa chọn nội dung nổi bật, cốt yếu và có tính vấn
đề của LS. Cần chú trọng các CĐ thể hiện mối quan hệ và sự tác động của lịch
sử thế giới với lịch sử dân tộc, hay LS địa phương.
- Để tổ chức dạy học theo CĐ lịch sử theo định hướng phát triển NL, PC học
sinh một cách hiệu quả theo tôi nên tiến hành các bước:
Bước 1: Nêu vấn đề, thu hút sự chú ý của HS vào nội dung trọng tâm của chủ
đề bằng cách GV đặt HS vào tình huống có vấn đề thơng qua các bài tập nhận
thức;sử dụng phim tư liệu; thơ ca; tổ chức trị chơi; sử dụng tranh ảnh, lược
đồ…tạo khơng khí thoải mái nhưng cũngtạo ra sự “trở ngại” trong tư duy định
hướng nhận thức của HS.Từ đó,gây sự tập trung chú ý, kích thích trì tị mị,
mong muốn tìm hiểu, khám phá kiến thức mới cho HS.
Bước 2: Cung cấp và hướng dẫn HS khai thác các nguồn sử liệu để tìm hiểu
nội dung chủ đề lịch sử.(Nguồn sử liệu do GV cung cấp qua bài giảng hoặc HS
có thể tự tìm hiểu SGK, tư liệu tham khảo, đồ dùng trực quan, mạng internet.
Thông qua nghiên cứu sử liệu giúp khôi phục lại sự kiện, hiện tượng, phản ánh
nội dung kiến thức CĐ một cách chính xác, sinh động. Đây là cách giúp HS
từng bước thực hiện nhiệm vụ học tập với các phương pháp dạy học tích cực của
GV. Qua đó, HS chủ động chiếm lĩnh các nội dung kiến thức của chủ đề để phát
triển các năng lực, phẩm chất cần thiết.
Bước 3: Tổ chức, hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận, đánh giá về các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử trong chủ đề.GV cần sử dụng linh hoat, đa
dạng, phong phú các phương pháp dạy học như ( thuyết trình, nêu vấn đề, dự án,
tích hợp liên môn, đồdùng trực quan, trao đổi, đàm thọai, tranh luận,).. kĩ thuật

dạy học : (đóng vai, khăn trải bàn, nhóm, tổ chức trị chơi,..)để khai thác và phát
triển các năng lực, phẩm chất HS
Bước 4: Cũng cố, đánh giá, kiểm tra hoạt động nhận thức, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ của HS. Trên cơ sở sản phẩm học tập của các em, GV cho
HS tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau, G V nhận xét, bổ sung, kết luận giúp HS hệ
thống những vấn đề cốt lõi của chủ đề, đồng thời hướng dẫn các em mở rộng
cũng cố kiến thức bằng việc tự học ở nhà, tự nghiên cứu; chuẩn bị nôi dung bài
mới.
-Tổ chức DHCĐ trong môn lịch sử được thực hiện qua một chuỗi hoạt động học
tập của HS. Trong mỗi hoạt động học tập, GV hướng dẫn HS thực hiện các
bước: chuyển giao nhiệm vụ học tập (yêu cầu rõ ràng, phù hợp với khả năng của
HS, hình thức sinh động, hấp dẫn, tạo động cơ và hứng thú để HS sẵn sàng thực
hiện nhiệm vụ ; thực hiện hiện vụ học tập HS,(GV là ngươi tư vấn, hỗ trợ, giúp
đỡ thực hiện nhiệm vụ) ; HSbáo cáo thảo luận trình bày sản phẩm học tập cụ
thể ; đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ (, HS đánh giá lẫn nhau; Gv nhận xét,
đánh giá kết quả của HS rút ra kết luận.
Trang 7


Cách tổ chức DHCĐ như thế này chính là cách GV dạy cho HS cách học và
cách tự học tuân theo quy luật chung của quá trình nhận thức trực quan sinh
động – tư duy trừu tượng-thực tiễn, vừa mang đặc trưng của bộ môn.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC CHỦ ĐỀ CÁC
NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA GIAI ĐOẠN 1918 – 1945 NHẰM PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
2.1.Nội dung chủ đề
Chủ đề gồm một số nội dung kiến thức
I. CÁC NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA TRONG NHỮNG NĂM 1918-1929
1. Sự thiết lập trật tự thế giới mới theo hệ thống Vécxai- Osinhtơn.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đã gây thảm họa hết sức nặng nề

đối với nhân loại. Kết cục của chiến tranh đã tác động rất lớn đến tình hình thế
giới, đặc biệt đối với các nước chủ nghĩa tư bản. Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất nền kinh tế châu Âu bị kiệt quệ. Từ chỗ là trung tâm của nền tài chính quốc
tế trong những năm 1870-1914, các nước châu Âu sau chiến tranh đếu trở thành
con nợ của Mĩ. Trong khi đó Mĩ và Nhật Bản là hai nước tư bản ngồi châu Âu
khơng bị chiến tranh tàn phá, lại được hưởng những lợi thế từ cuộc chiến tranh
nên vươn lên phát triển nhanh chóng. Trong quá trình chiến tranh, thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười Nga và việc thành lập Nhà nước Xô Viết đánh dấu bước
chuyển lớn trong cục diện chính trị thế giới. Với thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga, chủ nghĩa tư bản khơng cịn là hệ thống duy nhất trên thế giới nữa.
Điều này đã trở thành một thách thức to lớn đối với các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đề sau chiến tranh các nước tư
bản đã tổ chức Hội nghị hòa bình ở Vécxai (1919-1920) và Oa-sinh-tơn (19211922) để kí kết hòa ước và các hiệp ước phân chia quyền lợi. Một trật tự thế giới
mới được thiết lập thông qua các văn kiện được kí ở Vécxai và Oa-sinh-tơn,
thường được gọi là hệ thống Vécxai-Oasinhtơn.
Với hệ thống Vécxai-Oasinhtơn, một trật tự thế giới mới được thiết lập,
phản ánh tương quan lực lượng mới giữa các nước tư bản. Các nước thắng trận,
trước hết là Anh, Pháp, Mĩ, Nhật Bản, giành được nhiều quyền lợi về kinh tế và
xác lập sự áp đặt, nô dịch đối với các nước bại trận, đặc biệt là các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc. Đồng thời, ngay giữa các nước tư bản thắng trận cũng nảy sinh
những bất đồng do mâu thuẫn về quyền lợi. Chính vì thế, quan hệ hịa bình giữa
các nước tư bản trong thời gian này chỉ là tạm thời và mỏng manh. Nhằm duy trì
trật tự thế giới mới, Hội Quốc liên - một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu
tiên được thành lập với sự tham gia của 44 nước thành viên.
2. Tình hình các nước chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh thế giới thứ nhất
(1918-1929)
Trang 8


2.1. Giai đoạn 1918-1923

Về kinh tế: Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước châu Âu bị tàn phá
nặng nề, nền kinh tế kiệt quệ. Các nước tư bản châu Âu đã bỏ ra khoản lớn cho
chi phí của cuộc chiến tranh : Pháp là 24,2 tỉ USD, Anh: 35,3, tỉ USD, Đức: 37,7
tỉ USD... Những khoản chi phí khổng lồ cho chiến tranh đã biến phần lớn các
nước tư bản châu Âu, kể cả những nước thắng trận đều trở thành con nợ của Mĩ.
Thiệt hại về người trong chiến tranh đã làm mất đi nguồn nhân lực chủ yếu trong
các ngành sản xuất ở các nước tư bản châu Âu. Cùng với sự thiếu hụt về lực
lượng lao động là tình trạng lạm phát bao trùm phần lớn các nước châu Âu. Tỉ lệ
lạm phát ở Anh, Pháp tăng gấp đôi và ở Đức lên đến mức kỉ lục. Chiến tranh
cũng gây ra những thiệt hại về đầu tư nước ngồi. Trong đó, Đức là nước thiệt
hại lớn nhất, gần như mất toàn bộ tổng giá trị đầu tư nước ngồi.
Về chính trị - xã hội: Do hậu quả của chiến tranh thế giới và tác động của
cuộc Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi năm 1917, một cao trào cách mạng
đã bùng nổ ở hầu khắp các nước châu Âu năm 1918-1923.Cuộc khủng hoảng
kinh tế - chính trị sau chiến tranh đã dẫn tới sự xuất hiện tình thế cách mạng ở
một số nước châu Âu Trong cao trào cách mạng (1918-1923), các Đảng cộng
sản được thành lập ở nhiều châu Âu như ở Đức, Áo, Hung-ga-ri, Ba Lan, Phần
Lan…Trong bối cảnh đó, các nước tư bản châu Âu đều phải tìm cách đối phó
với phong trào cách mạng trong nước cũng như làn sóng đấu tranh của nhân dân
các nước thuộc địa và phụ thuộc.
2.2. Giai đoạn 1924-1929
Đến cuối năm 1923, về cơ bản các nước tư bản châu Âu đã vượt qua thời kì
khủng hoảng kinh tế - xã hội sau chiến tranh. Đến đầu năm 1924 các nước tư
bản châu Âu đã bước vào thời kì ổn định về kinh tế và chính trị.
Về kinh tế:Từ năm 1924, hầu hết các nước tư bản bước vào giai đoạn phát
triển phồn vinh kinh tế. Hai nước tư bản ngoài châu Âu là Mĩ và Nhật Bản hầu
như không bị thiệt hại lớn, mặt khác lại được hưởng những lợi thế từ chiến
tranh, đã vươn lên phát triển nhanh chóng.
Sự phồn vinh của Mĩ được thể hiện ở mức tăng trưởng cao của các ngành
kinh tế. Chỉ trong vịng 6 năm, sản lượng cơng nghiệp tăng 69%. Năm 1929, Mĩ

chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới, vượt qua sản lượng công nghiệp của
5 cường quốc là Anh, Pháp, Đức, Italia và Nhật Bản cộng lại. Mĩ đứng đầu thế
giới về các nghành công nghiệp sản xuất ơ tơ, thép, dầu mỏ…Về tài chính, từ
chổ phải vay nợ châu Âu 6 tỉ đô la trước chiến tranh. Mĩ đã trở thành chủ nợ của
thế giới (Anh và Pháp nợ Mĩ 10 tỉ đô la).Năm 1929, Mĩ nắm 60% số vàng dự trữ
của thế giới.
Nhật Bản là nước thứ hai sau Mĩ thu được nhiều lợi trong chiến tranh thế
giới thứ nhất. Lợi dụng sự suy giảm khả năng kinh tế của các nước tư bản châu
Âu trong chiến tranh, Nhật Bản đã tăng cường sản xuất hàng hóa và xuất khẩu.
Trang 9


Nhờ những đơn đặt hàng quân sự làm cho sản xuất công nghiệp của Nhật Bản
tăng trưởng với tốc độ cao. Chỉ trong vịng 6 năm (1914-1919), sản lượng cơng
nghiệp tăng gấp 5 lần, tổng giá trị xuất khẩu tăng gấp 4 lần, dự trữ vàng và ngoai
tệ tăng gấp 6 lần. Khác với các nước tư bản Tây âu và Mĩ, sự ổn định của Nhật
Bản chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, năm 1926, sản lượng công nghiệp mới
phục hồi trở lại và vượt mức trước chiến tranh. Nhưng chưa đầy một năm sau,
mùa xuân năm 1927, cuộc khủng hoảng tài chính lại bùng nổ ở thủ đô Tôkio làm
30 ngân hàng phá sản. Nền công nghiệp chủ yếu dựa vào xuất khẩu của Nhật
Bản ngày càng gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với Mĩ và các nước Tây Âu.
Cuối năm 1923, nước Đức, từng bước khắc phục tình trạng hỗn loạn về
tài chính, tạo đà cho nền kinh tế khôi phục và phát triển. Từ năm 1925, sản xuất
công nghiệp Đức phát triển mạnh. Năm 1929 đã vượt qua Anh, Pháp, đứng đầu
châu Âu. Qúa trình sản xuất diễn ra mạnh mẽ, các tập đồn tư bản độc quyền lớn
xuất hiện thâu tóm những ngành kinh tế chính của Đức.
Về chính trị - xã hội:
Giai đoạn tăng trưởng cao của kinh tế Mĩ trong thập niên 20 gắn liền với
sự cầm quyền của các tổng thống thuộc Đảng Cộng Hịa. Chính phủ của Đảng
Cộng Hịa một mặt đề cao sự phồn vinh của nền kinh tế, mặt khác thi hành chính

sách ngăn chặn cơng nhân đấu tranh, đàn áp những người có tư tưởng tiến bộ
trong phong trào công nhân. Những người lao động thường xuyên phải đối mặt
với nạn thất nghiệp, bất công xã hội và nạn phân biệt chủng tộc đối với người da
đen. Đời sống người lao động ngày càng giảm sút. Điều đó đã thúc đẩy phong
trào đấu tranh của họ.
Ở Đức, chế độ cộng hòa Vaima được củng cố, quyền lực của giới tư bản
độc quyền được tăng cường, chính phủ tư sản thi hành chính sách đàn áp phong
trào đấu tranh của công nhân. Các đảng tư sản công khai tuyên truyền tư tưởng
phục thù cho nước Đức. Về đối ngoại, địa vị quốc tế của nước Đức dần được
phục hồi với việc nước này tham gia hội Quốc Liên, kí kết một số hiệp ước với
các nước tư bản châu Âu và Liên Xô.
Trong những năm đầu thập niên 20 của thế kỉ XX, Chính phủ Nhật Bản đã
thi hành một số cải cách chính trị và giảm bớt căng thẳng trong quan hệ với các
cường quốc khác. Đến cuối thập niên 20, chính phủ của tướng Ta-na-ca – một
phân tử quân phiệt- đã thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại hiếu chiến.
II. CÁC NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA NHỮNG NĂM 1929-1939
1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thừa 1929-1933
Trong những năm 1924-1929, các nước tư bản chủ nghĩa bước vào giai
đoạn ổn định và phát triển đã đẩy mạnh sản xuất hàng hóa một cách ồ ạt. Sự
phát triển kinh tế chạy theo lợi nhuận, theo chủ nghĩa tự do thái q, khơng có
kế hoạch dài hạn cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng dẫn đến cuộc khủng
Trang 10


hoảng kinh tế thừa. Tháng 10-1929, khủng hoảng kinh tế thừa bùng nổ ở Mĩ, bắt
đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, sau đó lan ra tồn bộ thế giới tư bản.
Cuộc khủng hoảng kéo dài gần 4 năm, trầm trọng nhất là năm 1932.
Ngày 29/10/1929 là ngày hoảng loạn chưa từng có trong lịch sử thị trường
chứng khốn Niu Oóc. Giá một loại cổ phiếu được coi là đảm bảo nhất sụt
xuống 80%. Vịng xốy của cuộc khủng hoảng tiếp diễn khơng gì ngăn cản nổi,

phá hủy nghiêm trọng các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và thương
nghiệp nước Mĩ. Năm 1932, khủng hoảng kinh tế diễn ra trầm trọng nhất: sản
lượng cơng nghiệp chỉ cịn 53,8% (so với năm 1929), 11,5 vạn công ti thương
nghiệp, 58 công ti đường sắt bị phá sản, 10 vạn ngân hàng (chiếm 40% tổng số
ngân hàng) phải đóng cửa, 75% dân trại phá sản…
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã giáng đòn nặng nề vào nền kinh tế
Đức. Năm 1932, sản xuất công nghiệp giảm 47% so với những năm trước cuộc
khủng hoảng. Hàng năm nhà máy xí nghiệp đóng cửa.
Năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế thừa đã làm cho nền kinh tế Nhật
Bản giảm sút trầm trọng. Sản xuất cơng nghiệp đình đốn. Khủng hoảng xẩy ra
nghiêm trọng trong nông nghiệp, do lệ thuộc vào thị trường bên ngoài của ngành
này. So với năm 1929, sản lượng công nghiệp năm 1931 giảm 32,5%, nông
phẩm giảm 1,7 tỉ yên, ngoại thương giảm 80%. Đồng yên sụt giá nghiêm trọng
Cuộc khủng hoảng kinh tế thừa chẳng những tàn phá nặng nề nền kinh tế
các nươc tư bản chủ nghĩa mà cịn gây hậu quả nghiêm trọng về chính trị - xã
hội. Hàng triệu người thất nghiệp. Số người thất nghiệp lê ở Mĩ lên tới hàng
chục triệu, Nhật Bản số công nhân thất nghiệp 3 triệu, ở Đức hơn 5 triệu người.
Nông dân mất ruộng đất, sống trong cảnh nghèo đói, túng quẩn. Nhiều cuộc đấu
tranh, biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp diễn ra ở khắp các nước
2. Con đường các nước tư bản chủ nghĩa giải quyết hậu quả khủng hoảng
kinh tế (1929-1933)
Cuộc khủng hoảng kinh tế thừa (1929-1933) đe dọa nghiêm trọng sự tồn
tại của chủ nghĩa tư bản. Để cứu vãn tình thế, các nước tư bản buộc phải xem
xét lại con đường phát triển của mình. Hai xu hướng khác biệt nhau trong việc
giải quyết hậu quả cuộc khủng hoảng và tìm kiếm con đường phát triển đã được
các nước tư bản lựa chọn: Nhóm các nước tư bản gồm Mĩ, Anh, Pháp tiến hành
những những cải cách kinh tế - xã hội để khắc phục hậu quả của cuộc khủng
hoảng và đổi mới q trình quản lí, tổ chức sản xuất; Nhóm các nước tư bản
gồm các nước Đức, Italia, Nhật Bản thiết lập các chế độ độc tài phát xít- nền
chun chính khủng bố cơng khai của những thế lực phản động nhất, hiếu chiến

nhất.
Trong nhóm thứ nhất, Mĩ là nước đi đầu trong cuộc cải cách kinh tế - xã
hội nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Ở nước Mĩ,tổng thống Mĩ Rudơ-ven đã thực hiện một hệ thống chính sách, biện pháp của nhà nước trên các
Trang 11


lĩnh vực kinh tế- tài chính và chính trị-xã hội được gọi chung là chính sách mới.
Bằng sự can thiệp tích cực của nhà nước vào đời sống kinh tế, chính phủ Ru-dơven đã thực hiện các biện pháp giải quyết nạn thất nghiệp, phục hồi sự phát triển
kinh tế thông qua các đạo luật về ngân hàng, phục hưng cơng nghiệp, điều chỉnh
nơng nghiệp. Trong các đạo luật đó, đạo luật phục hưng cơng nghiệp là quan
trọng nhất. Nhìn chung, trong thập niên 30, với việc thực hiện chính sách mới đã
giải quyết được một số vấn đề cơ bản của nước Mĩ trong cơn khủng hoảng nguy
kịch. Nhà nước đã tăng cường vai trị của mình trong việc cứu trợ người thất
nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, khôi phục sản xuất, xoa dịu mâu thuẫn giai
cấp và góp phần làm cho nước Mĩ duy trì được chế độ dân chủ tư sản.
Về đối ngoại, chính phủ Ru-dơ-ven đề ra chính sách láng giềng thân thiện
nhằm cải thiện quan hệ với các nước Mĩ Latinh, vốn được Mĩ coi là “sân sau”
của mình và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đối với các vấn đề quốc
tế, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh bao trùm thế giới, quốc
hội Mĩ đã thông qua hàng loạt đạo luật để giữ vai trò trung lập trước các cuộc
xung đột quân sự với bên ngoài nước Mĩ. Chính sách đó đã góp phần khuyến
khích chủ nghĩa phát xít tự do hành động, gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ
hai.
Các nước Anh, Pháp cũng lần lượt thực hiện những biện pháp cải cách
kinh tế- xã hội nhằm giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng.
Trong nhóm thứ hai, các nước tư bản gồm Đức, Italia, Nhật Bản đi theo
con đường phát xít hóa chế độ chính trị, thiết lập nền chun chính khủng bố
cơng khai, thực hiện chính sách xâm lược thuộc địa để cứu vãn tình trạng khủng
hoảng. Ở Đức : Đảng Quốc xã ngày càng mở rộng ảnh hưởng trong quần chúng.
Đứng đầu là Hít-le ra sức tuyên truyền tư tưởng phục thù, chống cộng sản và

phân biệt chủng tộc, chủ trương phát xít hóa bộ máy nhà nước, thiết lập chế độ
độc tài khủng bố công khai. Giới đại tư bản ngày càng ủng hộ lực lượng phát
xít. Đảng Cộng sản Đức kiên quyết đấu tranh, song không ngăn cản được q
trình ấy. Đảng Xã Hội Dân Chủ - đảng có ảnh hưởng trong quần chúng lao động
đã từ chối hợp tác với những người cộng sản. Ngày 30/1/1933, tổng thống Hinđen-bua chỉ định Hit-le làm thủ tướng. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức.
Chính phủ Hít le thiết lập nền chun chính độc tài cơng khai khủng bố các
Đảng phái dân chủ tiến bộ, tuyên bố hủy bỏ hiến pháp Vaima, tự xưng là quốc
trưởng suốt đời. Về kinh tế: tổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung, mệnh
lệnh, phục vụ nhu cầu quân sự. Các ngành công nghiệp dần được phục hồi, đặc
biệt là công nghiệp quân sự, các ngành giao thông vận tải, xây dựng đường sá
được tăng cường để giải quyết nạn thất nghiệp và phục vụ nhu cầu quân sự.
Năm 1938, tổng sản lượng công nghiệp Đức tăng 28% so với giai đoạn trước
khủng hoảng và vượt một số nước tư bản Tây Âu.

Trang 12


Chính phủ Mutsolini ở Italia trong những năm 1933-1934 cũng tiến hành
tổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung đặt dưới sự chỉ huy của nhà nước và
mở rộng ngành sản xuất phục vụ nhu cầu quân sự giống như nước Đức phát xít.
Khác với Đức, q trình phát xít hóa diễn ra thơng qua sự chuyển đổi từ
chế độ dân chủ tư sản đại nghị sang chế độ chun chế độc tài phát xít, ở Nhật
Bản do có sẵn chế độ chun chế thiên hồng, q trình này diễn ra thơng qua
việc qn phiệt hóa bộ máy nhà nước và tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc
địa. Do những bất đồng trong nội bộ giới cầm quyền Nhật về cách thức tiến
hành chiến tranh xâm lược, quá trình quân phiệt hóa kéo dài trong suốt thập niên
30.Cùng với việc quân phiệt hóa bộ máy nhà nước, tăng cường chạy đua vũ
tranh, giới cầm quyền Nhật đẩy mạnh xâm lược Trung Quốc. Tháng 9/1931,
Nhật Bản đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc. Miền Bắc Trung Quốc trở
thành bàn đạp cho những cuộc phiêu lưu quân sự mới của Nhật Bản. Nước Nhật

trở thành lò lửa chiến tranh ở châu Á và trên thế giới.
Q trình qn phiệt hóa bộ máy nhà nước ở Nhật và phát xít hóa ở Đức,
Italia cùng với cuộc chạy đua vũ tranh ở các nước này dẫn tới sự hình thành ba
lị lửa chiến tranh thế giới. Như vậy với sự lựa chọn con đường giải quyết hậu
quả cuộc khủng hoảng kinh tế thừa đã làm cho quan hệ giữa các cường quốc tư
bản chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đế quốc đối lập:
một bên là Mĩ, Anh, Pháp vơi một bên là Đức, Italia, Nhật Bản và cuộc chạy đua
vũ trang ráo riết đã báo hiệu nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới.
III. CÁC NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA TRONG NHỮNG NĂM 1939-1945
1. Các nước tư bản và con đường dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai
Sự phát triển không đồng đều giữa các nước tư bản về kinh tế và chính trị
đã làm thay đổi sâu sắc so sánh lực lượng giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt .
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất một trật tự thế giới mới được hình thành
theo hệ thống Hịa ước Vécxai – Oasinhtơn. Chính sự phân chia và phát triển
không đều đã khiến cho mâu thuẫn giữa các nước TBCN ngày càng gay gắt, đe
dọa nền hịa bình mong manh của thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
(1929-1933) bùng nổ đã đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, sự xuất hiện của
CNPX cùng với việc tăng cường chạy đua vũ trang, đẩy mạnh xâm lược ở nhiều
khu vực trên thế giới. Trong những năm 30 chủ nghĩa phát xít hình thành ở Đức,
I-ta-li-a, Nhật Bản, các nước này đã liên kết với nhau thành liên minh phát xít –
được gọi là phe Trục. Khối này tăng cường và đẩy mạnh các hoạt động quân sự
gây chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.Sau khi chiếm
vùng Đông Bắc Trung Quốc (1931), từ năm 1937, Nhật Bản mở rộng xâm chiếm
trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Phát xít I-ta-li-a xâm lược Ê-ti-ơ-pi-a (1935). Sau
khi lên cầm quyền, Hít-le ngang nhiên xé bỏ Hịa ước Vécxai hướng tới thành
lập một nước “Đại Đức”.
Trang 13



Trong bối cảnh đó, Liên Xơ chủ trương hợp tác với các nước Anh, Pháp,
Mĩ để chống CNPX và nguy cơ chiến tranh. Chính phủ Anh, Pháp, Mĩ đều có
chung một mục đích là muốn giữa nguyên trật tự thế giới có lợi cho mình. Họ lo
sợ sự bành trướng của phát xít nhưng vẫn thù ghét cộng sản. Giới cầm quyền
Anh, Pháp không liên kết chặt chẽ với Liên Xơ để chống CNPX. Trái lại họ thực
hiện chính sách nhượng thực hiện chính sách nhượng bộ phe phát xít hịng đẩy
chiến tranh về phía Liên Xơ. Đỉnh cao là việc Anh, Pháp kí hiệp ước Muyních
(9/1938) trao vùng Xuyđét của Tiệp Khắc cho Đức, đổi lại Đức cam kết chấm
dứt mọi cuộc thơn tính ở Châu Âu. Với Đạo luật trung lập (8/1935), giới cầm
quyền Mĩ thực hiện chính sách khơng can thiệp vào các sự kiện bên ngồi châu
Mĩ. Chính sách đó của Mĩ đã góp phần khuyến khích CNPX tự do hành động,
gây cuộc CTTG II. Trên thực tế đã diễn ra một cuộc đấu tranh ngày càng căng
thẳng và chằng chéo giữa ba lực lượng : Khối Trục phát xít, khối Anh-Pháp-Mĩ
và Liên Xơ.
Chính quyền các nước phát xít đã lợi dụng chính sách thỏa hiệp, nhượng
bộ phát xít của các cường quốc phương Tây và chính sách đối ngoại của giới
cầm quyền Mĩ là khơng can thiệp vào các sự kiện xẩy ra ngoài châu Mĩ đó để
thực hiện mục tiêu gây chiến tranh. Trước khi khai chiến, Đức đã đàm phán với
Liên Xô. Liên Xơ chủ trương đàm phán với Đức vì đây là giải pháp tốt nhất để
tránh một cuộc chiến tranh và bảo vệ lợi ích quốc gia trong tình thế bị cô lập.
Ngày 23/8/1939, Bản hiệp ước Xô – Đức không xâm lược nhau được kí
kết.Rạng sáng 1/9/1939, Đức tấn cơng Ba Lan. Hai ngày sau đó, Anh, Pháp buộc
phải tuyên chiến với Đức. CTTG II bùng nổ.
Như vậy, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trước hết là do những mâu
thuẫn về quyền lợi, về thị trường thuộc địa gay gắt giữa các nước tư bản chủ
nghĩa với nhau. Sự phân chia quyền lợi giữa các nước tư bản theo hệ thống
Vecsxai- Osinhtơn chứa đựng những mâu thuẫn. Chính vì thế, quan hệ hịa bình
giữa các nước tư bản trong thời gian sau chiến tranh thế giới thứ nhất chỉ là tạm
thời và mỏng manh. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng kinh tế thừa 1929-1933 đã
làm cho những mâu thuẫn giữa các nước tư bản thêm sâu sắc. Sự xuất hiện của

CNPX cùng với việc tăng cường chạy đua vũ trang, đẩy mạnh xâm lược ở nhiều
khu vực trên thế giới. Các thế lực phát xít Đức – Italia- Nhật Bản là thủ phạm
gây ra chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên, chính sách dung dưỡng, nhượng
bộ phe phát xít của Anh, Pháp cùng với chính sách đối ngoại của giới cầm
quyền Mĩ là không can thiệp vào các sự kiện xẩy ra ngoài châu Mĩ đã tạo điều
kiện cho phe phát xít gây chiến. Chính phủ các nước tư bản mặc dù có mâu
thuẫn với nhau nhưng đều có chung mục tiêu chống Liên Xơ và chủ nghĩa cộng
sản nói chung. Do vậy, khác với chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến tranh thế
giới thứ hai còn gắn với mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội
và âm mưu tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
2. Các nước tư bản chủ nghĩa trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)
Trang 14


Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến tranh có quy mơ lớn nhất trong
lịch sử nhân loại. Kéo dài trong 6 năm, chiến tranh đã bao trùm gần như toàn bộ
các châu lục và diễn ra trên nhiều mặt trận, hầu hết các nước bị lơi cuốn vào
vịng chiến.
Giai đoạn từ tháng 9/1939 đến tháng 6/1941
Rạng sáng 1/9/ 1939, Đức bất ngờ tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và
Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tuy vậy, sau
khi tuyên chiến, Anh-Pháp khơng có hành động qn sự nào đáng kể nhằm vào
Đức, và quân Đức đã có thể rảnh tay để nhanh chóng đánh bại Ba Lan.
Hành động này của Anh, Pháp thể hiện chính sách nhượng bộ phát xít,
hịng đẩy chiến tranh về phía Liên Xơ. Trong lúc đó, giới cầm quyền Mĩ vẫn
thực hiện chính sách khơng can thiệp vào các sự kiện xẩy ra ngoài châu Mĩ. Mặc
dù tuyên bố là trung lập nhưng tổng thống Mĩ F. Roosevelt vẫn cố gắng tìm cách
thuyết phục Quốc hội bãi bỏ luật cấm bán vũ khí cho các bên tham chiến. Quốc
hội Mĩ đã chấp thuận việc bán vũ khí cho các nước tham chiến trong CTTGII
theo phương thức trả tiền mặt và tự chuyên chở. Chính sách này đem lại nguồn

lợi nhuận rất lớn cho nước Mĩ.
Với ưu thế về quân sự, quân Đức áp dụng chiến thuật “Chiến tranh chớp
nhoáng” và chiếm được Ba Lan sau gần 1 tháng. Sau khi chiếm được Ba Lan,
Tháng 4/1940, quân Đức chuyển hướng tấn cơng từ phía đơng sang phía tây,
chiếm hầu hết các nước tư bản châu Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan,
Lúc-xăm-bua và đánh thẳng vào Pháp.Chính phủ Pháp rời Pari chạy về Tua.
Nước Pháp nhanh chóng bại trận và kí Hiệp định đình chiến (22/ 6/1940). Tháng
7/1940, quân Đức thực hiện kế hoạch đổ bộ “Sư tử biển”, sau đó là chiến dịch
“tia điện không trung” của không quân tiến đánh nước Anh. Trước tình hình đó,
Mĩ và Anh kí kết một bản hiệp ước, theo đó Mĩ cung cấp cho Anh 50 tàu khu
trục, để đổi lấy việc quân Anh đặt các căn cứ không quân và hải quân ở
Newfoundland và Đại Tây Dương. Với ưu thế về không quân và hải quân của
Anh, đồng thời do sự viện trợ của Mĩ dành cho Anh bắt đầu từ tháng 9/1940, kế
hoạch đổ bộ lên nước Anh của Đức không thực hiện được.
Tháng 9/1940, nhằm cũng cố khối liên minh phát xít, tại Béclin ba nước
phát xít Đức-Italia - Nhật Bản kí Hiệp ước Tam cường, nhằm tăng cường trợ
giúp lẫn nhau về mọi mặt và công khai việc phân chia thế giới: Đức, Italia ở
châu Âu, Nhật Bản ở Viễn Đông.
Từ tháng 10/1940, Đức chuyển sang thơn tính các nước Đơng và Nam
châu Âu. Các nước Rumani, Hunggari, Bugari trở thành chư hầu của Đức và bị
Đức chiếm đóng. Bằng vũ lực quân sự, qn Đức thơn tính Nam Tư và Hi Lạp.
Như vậy, trong giai đoạn nhứ nhất của chiến tranh, do chính sách dung
dưỡng, thỏa hiệp của Anh, Pháp cùng với việc giới cầm quyền Mĩ thực hiện
chính sách khơng can thiệt vào các sự kiện xẩy ra bên ngoài châu Mĩ và ưu thế
áp đảo về quân sự của Đức phe phát xít giành quyền chủ động. Đến giữa năm
1941, Đức đã thống trị phần lớn châu Âu tư bản chủ nghĩa và ráo nết chuẩn bị
Trang 15


cho cuộc tấn công Liên Xô.

Giai đoạn từ tháng 6/ 1941đến 1/1942:
Từ cuối 1940, với ưu thế về quân sự, quân Đức đã thông qua kế hoạch tấn
công Liên Xô với chiến thuật “chiến tranh chớp nhoáng”, đánh nhanh thắng
nhanh. Rạng sáng 22/6/1941, với một lực lượng hùng hậu cùng với trang thiết bị
hiện đại cùng với yếu tố bất ngờ Đức tấn cơng và nhanh chóng tiến sâu vào lãnh
thổ của Liên Xô. Lần đầu tiên, quân Đức vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của
quân và dân Liên Xô. Đến 12/1941, Hồng quân Liên Xô phản công quyết liệt
đẩy lùi quân Đức ra khỏi cửa ngõ thủ đô Mát-xcơ-va. Chiến thắng Mátxcơva đã
làm phá sản Chiến lược "Chiến tranh chớp nhoáng" của Đức.
Sau thất bại ở Mátxcơva, quân Đức chuyển mũi nhọn tấn cơng xuống phía
nam nhằm chiếm vùng lương thực và dầu mỏ quan trọng nhất của Liên Xô. Mục
tiêu chủ yếu là đánh chiếm Xtalingrat, thành phố được mệnh danh là “nút sống”
của Liên Xô. Cuộc chiến đấu kéo dài hơn hai tháng, nhưng quân Đức không thể
chiếm được thành phố này.
Ở Bắc Phi, tháng 9/1940, quân đội Italia tấn công Ai Cập. Cuộc chiến này
diễn ra trong thế giằng co, không phân biệt thắng bại giữa liên quân Đức-Italia
với liên quân Anh – Mĩ..
Tháng 6/1940, trong khi chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở châu Âu, Nhật
Bản cơng bố chính sách xây đựng khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông Á và
từng bước triển khai chính sách xâm lược Đơng Nam Á. Tháng 9/1940,qn đội
Nhật kéo vào Đông Dương, nhưng vấp phải sự phản đối của Mĩ, quan hệ Mĩ –
Nhật trở nên căng thẳng. Ngày 7/12/1941, quân Nhật bất ngờ tấn công Trân
Châu Cảng – căn cứ hải quân chủ yếu của Mĩ ở Thái Bình Dương. Hạm đội Mĩ
bị thiệt hại nặng nề. Sự kiện này đã chấm dứt sự tồn tại của chủ nghĩa biệt lập
Mĩ , Tổng thống Mĩ F. Roosevelt chính thức tun chiến với Nhật Bản mới sau
đó là Đức và Italia. Như vậy chiến tranh đã lan rộng tồn thế giới và lơi cuốn tất
cả các cường quốc tư bản tham chiến.
Trong thời gian chiến tranh, các nước tham chiến đều đẩy mạnh nền kinh
tế theo hướng tập trung cao độ. Các ngành công nghiệp luyện kim, hóa chất
được mở rộng và tăng cường sản xuất đến mức tối đa nhằm phục vụ cho công

nghiệp quân sự. Các nước tư bản đẩy mạnh khai thác nguồn tài nguyên khoáng
sản, ở các nước thuộc địa để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh.
Hành động xâm lược của CNPX thúc đẩy các quốc gia liên minh chống
kẻ thù chung. Sự tham chiến của Liên Xô đã làm thay đổi cục diện chính trị và
quân sự của cuộc chiến. Cuộc chiến tranh vĩ đại của nhân dân Liên Xô đã cổ vũ
mạnh mẽ phong trào kháng chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng.
Việc thành lập một liên minh quốc tế chống phát xít đã trở thành một đòi hỏi bức
thiết của các lực lượng dân chủ và u chuộng hịa bình. Các chính phủ Anh, Mĩ
đã dần thay đổi thái độ, bắt tay với Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống CNPX.
Trang 16


Ngày 1/1/1942, tại Oa-sinh-tơn, đại diện 26 nước (đứng dầu là Liên Xô, Mĩ,
Anh) đã ra một tuyên bố chung gọi là Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc. Các nước
tham gia tuyên ngôn cam kết cùng nhau tiến hành cuộc chiến đấu chống phát xít
với tồn bộ lực lượng của mình.
Giai đoạn này với việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi tính chất của
cuộc chiến tranh thế giới thứ hai từ cuộc chiến tranh từ phi nghĩa giữa các nước
đế quốc tranh giành thuộc địa sang cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hịa bình. Sự kiện Mĩ tham chiến đã làm
cho chiến tranh lan rộng toàn thế giới và lôi cuốn tất cả các cường quốc tư bản
tham chiến. Sự hình thành của khối Đồng minh chống CNPX đánh dấu CNTB và
CN XH đã cùng đứng trên một chiến tuyến chống lại kẻ thù chung là chủ nghĩa
phát xít.
Giai đoạn từ tháng 1/1942 đến tháng 8/1945
Sau cuộc tập kích vào Trân Châu cảng, Nhật Bản mở một loạt các cuộc tấn
công vào các nước Đông Nam Á và bành trướng ở khu vực Thái Bình Dương.
Đến năm 1942, quân phiệt Nhật đã thống trị khoảng 8 triệu đất đai với 500 triệu
dân ở Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương.
Ở mặt trận Xơ - Đức, từ tháng 11/1942 đến 2/1943, Hồng quân Liên Xô

phản công và giành thắng lợi lớn ở Xta-lin-grat, tạo ra bước ngoặt, làm xoay
chuyển của cuộc chiến tranh thế giới, kể từ đây Liên Xô và phe Đồng minh
chuyển sang tấn công đồng loạt trên các mặt trận.
Ở mặt trận Bắc Phi, Tháng 10/1942, liên quân Anh – Mĩ giành thắng lợi
trong trận En A-la-men (Ai Cập), giành lại ưu thế ở Bắc Phi và chuyển sang
phản cơng trên tồn mặt trận. Từ tháng 3/1945 đến tháng 5/1945, liên quân Anh
– Mĩ quét sạch quân Đức ra khỏi lục địa châu Phi.
Ở Italia, sau khi quân Đồng minh đánh chiếm đảo Xixilia (7/1943) và bắt
giam Mútxơlini, một chính phủ mới đã được thành lập, đầu hàng đồng minh.
Phát xít Italia sụp đổ. Nhưng qn Đức đã đối phó kịch liệt, giải thốt cho Mútxơ-li-ni và lập lại chính phủ phát xít ở miền Bắc I-ta-li-a. Hơn 30 sư đoàn quân
Đức được điều sang Italia, kéo dài sự kháng cự tới tháng 5 – 1945 mới chịu
khuất phục.
Ở Thái Bình Dương, sau khi hồn thành kế hoạch xâm chiếm Đông Nam
Á, Nhật Bản sử dung chính sách “châu Á của người châu Á” nhằm mục tiêu gạt
bỏ ảnh hưởng của các nước thực ân phương tây ở khu vực này. Về kinh tế, từ
tháng 7/1942, qn đội Nhật chiếm đóng ở các nước Đơng Nam Á kiểm sốt
tồn bộ các ngành kinh tế then chốt của các quốc gia trong khu vực. Chính sách
vơ vét bóc lột của quân đội Nhật đã gây ra một thảm họa chưa từng có đối với
các nước trong khu vực, làm tan biến ảo tưởng về sứ mệnh xây dựng Khu vực
thịnh vượng chung Đại Đông Ácủa Nhật. Tuy nhiên sau khi mở rộng xâm lược
châu Á- Thái Bình Dương, Nhât Bản đã gặp những khó khăn trong việc chiếm
đóng và kiểm sốt những khu vực rộng lớn. Từ mùa hè năm 1942, quân đội
Nhật mất dần ưu thế ban đầu. Từ tháng 8 - 1942 đến tháng 1 - 1943quân đội
Trang 17


Mĩ đánh bại Nhật trong trận Guađancanan đã tạo ra được bước ngoặt quan
trọng và chuyển sang phản công, lần lượt đánh chiếm các đảo ở Thái Bình
Dương.
Ở mặt trận Xô – Đức, đầu năm 1944, cuộc tổng phản công của Hồng quân

Liên Xô diễn ra với 10 chiến dịch lớn nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi
lãnh thổ của mình. Tiếp đó, Hồng qn tiến vào giải phóng các nước Đông
Âu và tiến sát tới biên giới nước Đức.
Mùa hè năm 1944, Mĩ – Anh và quân đồng minh mở mặt trận thứ hai
ở Tây Âu đổ bộ tại Noóc-măng-đi (miền Bắc nước Pháp). Sự chuẩn bị đầy
đủ và ưu thế tuyệt đối về quân sự đã đưa tới thắng lợi của quân đồng
minh tại Noóc -măng-đi. Phong trào khởi nghĩa vũ trang diễn ra khắp nơi,
giải phóng nhiều vùng rộng lớn và nước Pháp cũng được giải phóng.
Quân Đồng minh tiến vào giải phóng các nước Bĩ, Hà Lan, Lúcxămbua,
chuẩn bị tấn cồng nước Đức.
Đầu tháng 2/ 1945, trong bối cảnh thất bại của CNPX đang đến gần,
Hội nghị nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh họp tại Ianta từ
ngày 4 đến 11/2/1945. Hội nghị đạt được những thỏa thuận quan trọng
trong việc thống nhất mục tiêu tiêu diệt tận gốc CNPX Đức, quân phiệt
Nhật, Liên Xô cam kết sẽ tham chiến chống Nhật sau khi nước Đức đầu
hàng.; thống nhất thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc nhằm duy trì hịa
bình, an ninh thế giới; phân chia các khu vực chiếm đóng nước Đức và
châu Âu; đề ra việc tổ chức lại thế giới sau chiến tranh. Theo đó, châu âu
được chia thành hai phần: các nước Trung và Đông Âu thuộc phạm vi
ảnh hưởng của Liên Xô, các nước Tây và Nam Âu thuộc phạm vi ảnh
hưởng của Mĩ, Anh, Pháp.
Ở Viễn Đông, các nước thỏa thuận việc Liên Xô tham gia chiến
tranh chống Nhật và các điều kiện kèm theo, việc quân đội Mĩ chiếm
đóng ở Nhật Bản. Các khu vực cịn lại của châu Á (Đông Nam Á, Nam Á,
Tây Á)… vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của các nước tư bản châu Âu
như trước. Những quyết định của các cường quốc tại hội nghị Ianta cũng
như những thỏa thuận sau đó trở thành khn khổ của rật tự thế giới mới
sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Tháng 2/1945, quân Đồng minh tấn cơng qn Đức từ mặt trận phía
Tây. Tháng 4/1945, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tấn công vào Béclin- sào

huyệt cuối cùng của phát xít Đức, đập tan sự kháng cự của hơn 1 triệu
quân Đức. Ngày 30/ 4/1945, Hồng qn cắm cờ thắng lợi trên nóc tồ nhà
Quốc hội Đức. Hítle tự sát dưới hầm chỉ huy. Ngày 9/ 5 /1945, nước Đức kí
văn bản đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh chấm dứt ở châu Âu.
Ở mặt trận Thái Bình Dương, từ tháng 10/ 1944 đến tháng 8/1945,
liên quân Mĩ - Anh triển khai cuộc tấn công đánh chiếm Miến Điện và quần
đảo Philippin. Từ cuối năm 1944, Mĩ tăng cường uy hiếp, đánh phá các
thành phố lớn của Nhật Bản bằng không quân.
Trong bối cảnh chiến tranh đã kết thúc ở châu Âu và đang đi vào hồi
kết ở châu Á- Thái Bình Dương, tháng 7/1945 tại Pốtxđam (Đức) nguyên
Trang 18


thủ ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh đã gặp nhau để giải quyết các vấn đề
ở châu Âu sau chiến tranh và việc đánh bại hồn tồn phát xít Nhật.
Ngày 6/8/1945, Mĩ ném bom nguyên tử xuống Hirôsima làm 8 vạn người
chết. Ngày 8/8/1945 Liên Xô tấn công đạo quân Quan Đông Nhật gồm 70 vạn
quân ở Mãn Châu. Ngày 9/8/1945, Mĩ ném tiếp quả bom nguyên tử thứ hai hủy
diệt thành phố Nagaxaki giết hại 2 vạn người. Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng
không điều kiện. CTTG II kết thúc.
Như vậy, với sự hình thành khối đồng minh chống phát xít, các nước
TBCN đã phối hợp cùng Liên Xơ đẩy nhanh q trình tiêu diệt chủ nghĩa phát
xít. Phe Đồng minh liên tiếp giành thế chủ động trên chiến trường, phản công
tiêu diệt CNPX, giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh.
Thảm họa chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) đã tác động rất lớn đến
nhiều nước trên thế giới. Với việc thực hiện chiến lược động viên các nguồn lực
để phục vụ cho guồng máy của chiến tranh của các nước đế quốc tư bản tham
chiến đã gây ra sự mất cân bằng trong sự phát triển kinh tế cũng như những
khủng hoảng rất lớn trong đời sống chính trị, xã hơi, văn hóa của nhiều nước đế
quốc tư bản cũng như hệ thống thuộc địa và phụ thuộc.

IV. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁC NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA GIAI
ĐOẠN 1918-1945
Giai đoạn 1918-1945, các nước tư bản chủ nghĩa đã trải qua những bước
phát triển thăng trầm đầy biến động gắn với những cuộc khủng hoảng mang
tính chất chu kì, trong đó nặng nề nhất là cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới
(1929-1933). Cuộc khủng hoảng này đã tác động đến tình hình kinh tế, chính trị
của các nước tư bản chủ nghĩa, dẫn đến các nước đế quốc bị phân hóa thành hai
khối đối lập: một bên là các nước Mĩ, Anh, Pháp với một bên là các nước Phát
xít Đức, Italia, Nhật Bản. Điều này đã làm cho quan hệ giữa các cường quốc tư
bản chuyển biến ngày càng phức tạp. Cả hai khối đế quốcđẩy mạnh chạy đua vũ
trang chưa từng có trong lịch sử phát triển mà hệ lụy của nó là sự bùng nổ cuộc
Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong giai đoạn 1918 –1945, những biến động của CNTB đã làm cho
những mâu thuẫn vốn có (mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với đế quốc; mâu
thuẫn giữa các nước thuộc địa, phụ thuộc với các nước đế quốc; giữa công nhân
và nhân dân lao động với giai cấp tư sản trong các nước tư bản) ngày càng gay
gắt, đồng thời làm nảy sinh những mâu thuẫn mới (mâu thuẫn giữa các nước
Mĩ, Anh, Pháp và khối phát xít – Đức, Itali, Nhật Bản; mâu thuẫn giữa các nước
tư bản chủ nghĩa với Liên Xô).
Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa về vấn đề thuộc địa ngày càng
trở càng sâu sắc, đặc biệt khi hệ thống Vecsxai – Oasinhtơn được thiết lập. Mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc tư bản còn được đẩy lên đỉnh điểm với sự xuất
hiện của chủ nghĩa phát xít cùng với việc đẩy mạnh chạy đua vũ tranh để tiến
hành cuộc chiến tranh thế giới chia lại thị trường thuộc địa.
Trang 19


Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước tư bản chủ nghĩa tăng
cường đẩy mạnh bóc lột các nước thuộc địa và phụ thuộc cũng như giai vô sản
trong nước để bù đắp những tổn thất của CTTG I, những cuộc khủng hoảng

mang tính chất chu kì và dốc vào chiến tranh CTTG II . Chính sách khai thác,
bóc lột của các nước đế quốc tư bản đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc với các nước thuộc địa, phụ thuộc, giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
ở chính quốc thêm gay gắt. Vì thế sau CTTG I, phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa, phụ thuộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản phát
triển mạnh mẽ.
Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga (1917), Nhà nước Xô Viết
thành lập, đã làm cho CNTB bị phá vở một mảng lớn, chủ nghĩa tư bản khơng
cịn là 1 hệ thống duy nhất trên thế giới. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của
Liên Xô là một thách thức to lớn đối với chủ nghĩa tư bản nói chung, buộc các
nước tư bản phải điều chỉnh trong chính sách đối ngoại. Hệ thống các nước tư
bản vừa mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau, vừa hợp tác để cùng hạn chế sức mạnh
của nhà nước XHCN Liên Xô .
2.2. Xác định mục tiêu chủ đề
- Về kiến thức: Học xong chủ đề, học sinh cần đạt:
+ Trình bày được các giai đoạn phát triển của các nước TBCN (1918 – 1945)
+ Hiểu được hồn cảnh, nội dung, tính chất của trật tự thế giới mới theo hệ
thống hòa ước Véc-xai-Oa-sinh-tơn và hệ quả của nó
+ Nguyên nhân, diễn biến, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933
+ Biết được tình hình nước Đức, Mĩ, Nhật Bản giai đoạn 1918-1945
+ So sánh đặc điểm của các nước tư bản giai đoạn 1918-1945
+Trình bày về các nước tư bản chủ nghĩa và con đường dẫn đến chiến tranh thế
giới thứ hai.
+ Biết được thái độ, trách nhiệm của các nước tư bản chủ nghĩa đối với cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai.
+ Hiểu được vai trò của các nước tư bản chủ nghĩa trong việc tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít. Qua đó, giúp học sinh nhận thức, đánh giá một cách khách quan và
khoa học về vai trị của Liên Xơ, các nước đồng minh, của nhân dân chống phát
xít, chống chiến tranh bảo vệ hịa bình.
+ So sánh nguyên nhân, kết cục cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh

thế giới thứ hai
+ Học sinh sử dụng kiến thức liên mơn: Địa lí, văn học, âm nhạc, tin học, hội họa,
giáo dục công dân ...để giải quyết các vấn đề đặt ra trong tiết dạy học
+ Kiến thức liên mơn địa lí : để xác định các vị trí diễn ra hội nghị VecsxaiOsinhtơn; sự thay đổi bản đồ chính trị châu Âu trước và sau khi trật tự thế giới
Trang 20


mới được thiết lập; diễn biến chiến tranh thế giới thứ hai để đánh giá thái độ, trách
nhiệm của các nước tư bản trong việc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ; đánh
giá vai trò các nước trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít…
+Kiến thức Âm nhạc: trong việc tìm hiểu các bài hát trong chiến tranh thế giới thứ
hai
+ Kiến thức về văn hóa du lịch trong việc giải quyết các vấn đề sau:
Tìm hiểu các địa danh lịch sử có gắn với cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
+ Kiến thức văn học trong việc giải quyết các vấn đề sau:
Tìm hiểu các sách, báo, nhận địnhviết về hòa ước Vecxai- Osinhtơn; cuộc khủng
hoảng kinh tế thừa và cuộc chiến thế giới thứ hai.
+ Kiến thức giáo dục công dân trong việc giải quyết các vấn đề sau: Quy luật
phát triển kinh tế , đặc biệt là mối quan hệ giữa cung và cầu. Trách nhiệm cơng
dân cơng cuộc bảo vệ tổ quốc, đối với hịa bình thế giới, …
+ Kiến thức mơn Tin học: Kĩ năng tìm kiếm thơng tin trên mạng, Kĩ năng chụp
ảnh và quay video, kĩ năng tạo lập bài thuyết trình bằng Power Point., Kĩ năng
vẽ bản đồ tư duy bằng phần mềm iMindMap.
+ Cảm thụ hội họa: khai thác các bức tranh biếm họa
- Về thái độ
+ Nhìn nhận khách quan về quá trình phát triển và bản chất của CNTB.
+ Nhận thức được hậu quả của các cuộc chiến tranh phi nghĩa, sẵn sàng đấu
tranh chống lại những tư tưởng phản động đi ngược với lợi ích nhân loại.
+ Bồi dưỡng lịng u mến hịa bình và ý thức xây dựng một thế giới hịa bình,.
+ Ủng hộ cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ và giải phóng của nhân dân thế giới.

- Về kĩ năng:
+Rèn luyện kĩ năng phân tích, liên hệ, rút ra kết luận về các sự kiện lịch sử.
+ Rèn luyện kĩ năng khai thác,sử dụng tài liệu, tranh ảnh lịch sử,
+ Kĩ năng so sánh, liên hệ lịch sử dân tộc với lịch sử khu vực và thế giới…….
- Năng lực
+ Năng lực chung: giải quyết vấn đề, tự học, giao tiếp, hợp tác, sử dụng ngôn
ngữ, sử dụng công nghệ thông tin...
+ Năng lực chuyên biệt môn Lịch sử:Tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch
sử; Thực hành lịch sử: khai thác kênh hình có liên quan đến chủ đề; Xác định và
giải quyết mối liên hệ, ảnh hưởng và tác động giữa các sự kiện lịch sử với nhau;
So sánh các sự kiện lịch sử: q trình phát xít hóa chính quyền để thoát khỏi
khủng hoảng của nước Đức và Nhật Bản; so sánh thái độ, trách nhiệm của các
Trang 21


nước tư bản trong việc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ; so sánh vai trò của
các nước trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít;Nhận xét, đánh giá rút ra bài học
lịch sử; Thông qua sử dụng ngôn ngữ lịch sử thể hiện chính kiến của mình; liên
hệ kiến thức lịch sử để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.
- Phẩm chất
+ Yêu nước:Yêu dân tộc, u nhân dân, phát huy lịng tự hào, tự tơn dân tộc, gìn
giữ phát triển văn hóa, truyền thống dân tộc..
+ Trách nhiệm : bảo vệ hịa bình; bảo vệ chủ quyền quốc gia; lên án chiến tranh
+ Trung thực: thật thà, ngay thẳng trong học tập; đánh giá mọi vấn đề, thẳng
thắn, trung thực, khách quan; Tôn trọng sự thật lịch sử
+ Chăm chỉ: chăm chỉ học tập, tinh thần tự học, tham gia tích cực các hoạt động
học tập cá nhân, tập thể, nhóm mà GV yêu cầu
+ Nhân ái: yêu con người, yêu cái đẹp, sẵn sàng cảm thông chia sẽ, lên án việc
xâm chiếm thuộc địa, bóc lột con người, lên án chiến tranh
2.3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh.

- Giáo viên: Kế hoạch dạy học, phiếu học tập, bảng biểu, tranh ảnh, máy tính
kết nối máy chiếu...
- Học sinh: Sách vở, bút màu, bút viết, giấy Ao, tìm hiểu các tư liệu về các nước
tư bản chủ nghĩa giai đoạn 1918-1945; tìm hiểu lịch sử Việt Nam giai đoạn
1918-1945.
- Sưu tầm các tranh ảnh tư liệu về kết cục chiến tranh thế giới thứ nhất, thứ hai;
Lược đồ diễn biến chiến tranh thế giới thứ hai, hậu quả cuộc khủng hoảng kinh
tế thừa,về Hít-le, Rudoven..
- Đọc kĩ nội dung chủ đề trước khi học trên lớp.
2.4. Xây dựng bảng mô tả các mức độ nhận thức NL, PC cần hình thành
Tiết

Mức độ

Nội dung

Tiết 1

- Biết được sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết
Nhận biết thúc, một trật tự thế giới mới được hình thành theo hệ
Các
thống Hịa ước Véc-xai- Oa-sinh-tơn.
nước tư
bản chủ
Thông
- Lý giải được sau Chiến tranh thế giới thứ nhất một trật
nghĩa
hiểu
tự thế giới mới được thiết lập - hệ thống Vécxai –
trong

Oasinhtơn.
những
- Lí giải được những mâu thuẫn của các nước tư bản
năm
chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
1918- Giải thích được vì sao người Đức lại căm ghét hệ
1929.
thống Véc xai – Oasinhtơn.
Trang 22


×