Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

skkn con người cá nhân trong văn học việt nam thế kỉ XVIII XIX qua một số tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 77 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. LỜI GIỚI THIỆU
Có ý kiến cho rằng, mọi sự thay đổi trong văn học đều bắt nguồn từ sự thay
đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Do vậy, đi sâu khám phá quan niệm
nghệ thuật về con người trong văn học trung đại Việt Nam là bước đi ngắn nhất để
chúng ta đến gần với cái bản chất nội tại của tác phẩm, nắm được sự thay đổi, cách
tân và vận động của cả một giai đoạn, một thời kì văn học trung đại, đồng thời nêu
bật được sức hấp dẫn của thời kì văn học này cũng như khẳng định những giá trị
khơng lỗi thời của nó về sau.
Nghiên cứu quan niệm con người trong văn học không giống với việc tìm
hiểu quan niệm con người trong các học thuyết triết học. Con người trong văn học
là sự ý thức về con người, là cách hiểu về con người và cuộc đời làm cơ sở cho
việc sáng tạo ra các hình tượng nghệ thuật, hịa tan trong sự miêu tả các hình tượng
sống động. Nhiệm vụ của người nghiên cứu là vạch ra quan niệm ấy như là cái lý
bên trong của hình tượng. Quan niệm con người trong văn học phong phú và sinh
động hơn nhiều so với quan niệm triết học. Tùy theo cách cảm nhận, đồng cảm của
nhà văn đối với các số phận, tính cách cá nhân mà quan niệm về con người cá nhân
được mở ra, mỗi tác giả, mỗi thời đại đều có thêm những đường nét mới. Xem xét
văn học Việt Nam từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX qua một số hiện tượng chủ yếu,
tiêu biểu ta có thể hình dung được một quá trình phát triển của quan niệm cá nhân
trong văn học. Đó tuy khơng phải là vấn đề hoàn toàn mới đối với cảm thụ văn
học, nhưng là nhiệm vụ mới của lý luận văn học và lịch sử văn học.
Suốt mười thế kỉ trung đại, văn học Việt Nam đã kết tinh nhiều giá trị thâm
sâu, trở thành niềm tự hào cho hậu thế. Văn học trung đại Việt Nam đến nay vẫn là
một sức hút mãnh liệt đối những nhà nghiên cứu học thuật trong và ngoài nước, là
nơi thể nghiệm và đạt được nhiều thành tựu của nhiều hệ thống lí thuyết nghiên
cứu văn học. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu di sản này, chúng ta càng thêm gắn bó
1



với truyền thống cao đẹp của dân tộc. Bởi lẽ “Mỗi tác giả với thiên tài của mình và
giới hạn của thời đại, phản ánh một thời kì lịch sử, đánh dấu một bước tiến của
văn học, làm giàu thêm cho tư tưởng, tình cảm và tiếng nói Việt Nam”(Phạm Văn
Đồng). Chúng ta có thể tìm thấy trong di sản này những điều giúp tìm lại quá khứ
vinh quang nhưng khơng ít phần gian khó của dân tộc, để rồi từ đó có thể nhìn lại
hiện tại một cách thấu đáo hơn và hướng về tương lai một cách tin tưởng hơn. Đối
với nhà trường THPT, di sản này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giáo
dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, quan điểm, lí tưởng thẩm mĩ... cho học
sinh, thông qua những thành quả nổi bật của người xưa trong lĩnh vực sáng tạo
nghệ thuật ngôn từ, kết tinh trong các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu.
Chương trình Ngữ văn THPT có một số lượng tương đối lớn các văn bản
thuộc thể loại thơ trữ tình trung đại. Đó là các văn bản nghệ thuật được các nhà
thơ Việt Nam sáng tác trong thời kì phong kiến. Các tác giả thơ trữ tình trung đại
phần nhiều là những thi nhân nổi tiếng, tâm hồn nặng những nỗi đời. Làm thơ với
họ là mượn cảnh, mượn việc để kí thác tâm sự, bày tỏ nỗi lịng nhân thế theo quan
điểm thời đại “thi dĩ ngơn chí, văn dĩ tải đạo”.
Qua thực tế giảng dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở trường THPT có thể
nhận thấy: Đây là thể loại văn học tương đối khó, hơn nữa các tác phẩm văn học
trung đại được tính từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX đã cách chúng ta hơn mười thế kỉ,
đến với thế hệ trẻ dưới mái trường phổ thông thế kỉ XXI đã có khoảng cách rất xa
về thời gian. Vì thế, người giảng dạy gặp khó khăn trong soạn giảng, nhiều học
sinh ít hứng thú, không tích cực trong giờ học những bài văn học cổ. Vấn đề đặt ra
là phải có những biện pháp tối ưu nhằm giúp giáo viên và học sinh đạt hiệu quả
cao trong giảng dạy và học tập thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
Đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc xây dựng,
áp dụng những hướng tiếp cận, phương pháp mới trong dạy học bộ môn để nâng
cao hiệu quả dạy và học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu hướng
học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập
trong việc lựa chọn môn học. Các môn xã hội có xu hướng bị coi nhẹ. Mơn Ngữ

văn cũng khơng nằm ngồi xu hướng ấy. Nhiều học sinh cho rằng Ngữ văn là môn
2


khoa học xã hội, tính ứng dụng khơng cao, khơng thiết thực với cuộc sống, cơng
việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng chán học văn, hoặc học mang tính đối phó.
Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới phương
pháp, tìm hướng tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao
năng lực học tập cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết
cảm thông, yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang
sách, thông qua từng tác phẩm là điều rất cần thiết. “Văn học là nhân học” học văn
là để hình thành nhân cách con người. Và Ngữ văn là mơn học quan trọng giúp học
sinh có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Tìm hướng tiếp cận, đổi mới
phương pháp, từ đó tạo hứng thú trong học tập cho học sinh, khơi gợi, đánh thức
niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm hồn của con người là vấn
đề được đặt ra và cần phải giải quyết.
Luận ngữ có câu: “Biết mà học khơng bằng thích mà học, thích mà học
khơng bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy,
ni dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta.
Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của
học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp cận mới, phương pháp
mới để phát huy tính tích cực sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn,
khơi dậy đam mê học tập ở học sinh.
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho
học sinh trong học tập bộ mơn nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng là đổi mới
phương pháp dạy học, dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh làm
trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy
đóng vai trị là người tổ chức, chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng
tiếp cận bài học linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh
trong dạy học Ngữ văn là rất cần thiết.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy thực
tiễn của bản thân, với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy và học, mong muốn học
sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích những tác phẩm văn học trung đại tơi chọn
3


đề tài: “Con người cá nhân trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII-XIX qua một số
tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn 11(Tự tình – Hồ Xuân Hương;
Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ; Bài ca ngắn đi tên bãi cát – Cao Bá
Quát; Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến; Thương vợ - Trần Tế Xương) ”.
2. TÊN SÁNG KIẾN
“Con người cá nhân trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII-XIX qua một số
tác phẩm tiêu biểu trong chương trình Ngữ văn 11(Tự tình – Hồ Xuân Hương; Bài
ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ; Bài ca ngắn đi tên bãi cát – Cao Bá Quát;
Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến; Thương vợ - Trần Tế Xương) ”.
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN:
- Họ và tên: Đàm Thị Phượng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên trường THPT Yên Lạc 2
- Số điện thoại: 0978373509. E_mail:
4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN:
- Đàm Thị Phượng – Trường THPT Yên Lạc 2 – Vĩnh Phúc
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Áp dụng trong giảng dạy học sinh lớp 11 môn Ngữ văn, đặc biệt là các lớp
chuyên văn và bồi dưỡng học sinh tham gia kì thi chọn học sinh giỏi các cấp môn
Ngữ văn.
6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU.
Từ ngày 03/09/2018
7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
7.1.


Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
7.1.1. Mục đích nghiên cứu

4


Mục đích của tơi khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những hướng tiếp
cận mới, phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Ngữ
văn của học sinh khi học môn Ngữ văn nói chung và Văn học trung đại Việt Nam
nói riêng. Đồng thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh
hưởng tới việc học văn của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú
học tập mơn Ngữ văn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn
cho học sinh THPT. Cụ thể:
* Kiến thức
- Giúp học sinh: Nắm được những biểu hiện của con người cá nhân trong
Văn học trung đại thế kỉ XVIII – XIX thông qua một số tác phẩm thơ được học
trong chương trình Ngữ văn 11.
* Năng lực
- Giúp hình thành ở các em các năng lực: Năng lực tự học. Năng lực tự giải
quyết vấn đề, thu thập thông tin liên quan đến văn bản. Năng lực sáng tạo. Năng
lực giao tiếp, trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản.
Năng lực hợp tác, trao đổi, thảo luận. Năng lực sử dụng ngôn ngữ bày tỏ quan
điểm, cảm nhận sau khi đọc văn bản. Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm
mĩ. Năng lực vận dụng kiến thức liên mơn: lịch sử, địa lý…; Tích hợp kiến thức
sách vở và đời sống; Tích hợp tự thân: Đọc văn - Tiếng việt - Làm văn.
* Kĩ năng
- Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm thơ trữ tình trung đại.
- Biết vận dụng những hiểu biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn học.
* Thái độ
- Biết trân quý những giá trị văn học truyền thống.

- Có ý thức tìm tịi về thể loại, từ ngữ, hình ảnh trong thơ trung đại Việt
Nam.
- Tình yêu và cảm xúc trước vẻ đẹp của các đối tượng thẩm mĩ.
5


Hơn nữa, qua đề tài này tơi mong rằng có thể góp phần nào đó trong việc
bồi dưỡng tâm hồn người học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Học
văn là làm cho tâm hồn mỗi con người phong phú thanh cao và yêu đời hơn, người
học văn sẽ có ý thức được và khơng bao giờ là người thô lỗ, cục cằn”.
7.1.2. Bản chất của đối tượng nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, cần hồn thành những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu bối cảnh lịch sử của Văn học Việt Nam thời kì trung đại, các khái
niệm: Văn học trung đại là gì, con người cá nhân là gì… để từ đó giúp học sinh có
cái nhìn bao quát về vấn đề.
- Biểu hiện của con người cá nhân trong Văn học trung đại thế kỉ XVIII –
XIX trong sự so sánh với con người cá nhân trong văn học những thế kỉ trước.
- Biểu hiện của con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương.
- Cung cấp một số đề để học sinh luyện tập.
7.1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Con người cá nhân trong Văn học trung đại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề tập trung vào làm rõ những biểu hiện của
con người cá nhân trong Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII – XIX qua năm
tác phẩm thơ tiêu biểu được học trong chương trình Ngữ văn lớp 11: Tự tình (Hồ
Xuân Hương), Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ), Bài ca ngắn đi trên bãi
cát (Cao Bá Quát), Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến), Thương vợ (Trần Tế
Xương).
7.1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau đây:

- Phương pháp nghiên cứu lí luận: nghiên cứu lí luận về văn học trung đại,
con người cá nhân trong văn học và phương pháp cảm nhận thơ trữ tình trung đại
để nắm được đặc trưng và cách thức dạy học.
6


- Phương pháp điều tra và khảo sát: Khảo sát sách giáo khoa, sách giáo
viên, sách tham khảo; các bài viết, bài phân tích của một số nhà giáo, nhà nghiên
cứu về văn học trung đại Việt Nam, về các tác phẩm được học trong chương trình
ngữ văn ở trường phổ thông. Dự giờ lên lớp của thầy giáo, cô giáo ở trường để
nắm bắt tình hình dạy học văn nói chung cũng như dạy học các bài thơ trung đại
nói riêng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dùng để xử lý các tư liệu và ý kiến
nghiên cứu của các nhà giáo, nhà phê bình, nghiên cứu nhằm làm rõ các quan điểm
trong việc giảng dạy tác phẩm thơ trung đại.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thiết kế giáo án thực nghiệm, hướng
dẫn học sinh chữa các dạng đề nhằm tìm ra phương pháp tốt nhất cho việc giảng
dạy thơ trung đại trong nhà trường phổ thông…
7.1.5. Giới hạn về không gian của phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề được đề cập với đồng nghiệp và thực nghiệm sư phạm qua các
em học sinh lớp 11C, 11D và các em học sinh tham gia dự kì thi chọn học sinh
giỏi mơn Ngữ văn lớp 11 năm học 2018-2019.
7.2.

MƠ TẢ NỘI DUNG SÁNG KIẾN

7.2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
7.2.1.1. Giới thuyết về Văn học trung đại
Trung đại là một thời đại văn hoá lớn trong lịch sử nhân loại. Đó là thời đại
ra đời những quốc gia châu Âu, những nhà nước hiện đại. Những ngôn ngữ hiện

đại mà các nước châu Âu đang sử dụng cũng hình thành vào thời trung đại. Có thể
nói, nhiều giá trị văn hoá làm nền tảng cho văn minh hiện đại cũng bắt nguồn từ
thời trung đại. Với nhiều đặc điểm loại hình, khái niệm thời trung đại cũng được
vận dụng vào lịch sử phương Đơng, có tính đến những nét đặc thù ở từng quốc gia
cũng như trong toàn khu vực.
Thời trung đại Việt Nam không phải là “đêm trường trung cổ” như quan
niệm của sử gia châu Âu, mà là thời đại phát triển rực rỡ của dân tộc. Đây là thời
7


kỳ mà hầu hết các truyền thống quý báu của dân tộc đều hình thành. Văn học, ngơn
ngữ đã phát triển và đạt tới đỉnh cao. Tâm hồn Việt Nam, nhân cách
Việt Nam được khẳng định và được biểu hiện thành văn. Khơng thể hiểu được văn
hố, văn học, con người Việt Nam hiện đại mà không nghiên cứu kỹ lưỡng thời kỳ
văn học này.
Về mặt văn hoá, thời trung đại khơng đơn giản là một bước lùi trong tiến
trình văn minh mà là một bước tiến. Đó là thời đại văn hoá lớn trong lịch sử nhân
loại. Đối với các quốc gia phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, …
thời trung đại là thời kỳ hình thành toàn bộ những di sản văn háo thành văn của
minh.
Về mặt thời gian, các sử gia chia thời trung đại Châu Âu ra làm ba:
- Sơ kỳ: Từ TK V - TK XI
- Trung kỳ: Từ TK XII – TK XV.
- Mạt kỳ: Từ TK XVI – TK XVII.
Cần chú ý độ dài cụ thể của thời trung đại ở từng khu vực, từng quốc gia có
những điểm xê dịch đánh kể.
Văn học trung đại được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau: văn học cổ; văn
học cổ điển; văn học thời phong kiến,… Nhưng năm 1980, Nicôlin, đề nghị dùng
khái niệm văn học trung đại, sau đó nhiều người dùng nên trở thành quen thuộc.
Văn học trung đại Việt Nam là một thời kỳ văn học, một quá trình của văn

học dân tộc, trải dài suốt mười thế kỷ. Dùng khái niệm văn học trung đại để chỉ
thời kỳ này của văn học Việt Nam là có cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn, đấy là
văn học chịu sự chi phối của tư tưởng, quan điểm, thẩm mỹ thời trung đại. Hết TK
XIX, văn học trung đại cũng hết vai trị lịch sử và nó được thay thế bằng văn học
thuộc loại hình khác – loại hình văn học hiện đại mang đậm tính hiện đại của văn
học thế giới từ đầu TK XX.
Văn học trung đại Việt Nam rất khó xác định cụ thể năm bắt đầu và năm kết
thúc mà chỉ nên nói bắt đầu vào TK X và kết thúc vào những năm cuối TK XIX.
8


Đây là quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu văn học hiện nay quy ước và đang chờ
đợi sự bàn bạc sâu thêm.
7.2.1.2. Con người cá nhân và con người cá nhân trong Văn học trung đại Việt
Nam
7.2.1.2.1. Những tiền đề xã hội ảnh hưởng đến việc xây dựng hình tượng con
người cá trong Văn học Việt Nam trung đại.
a. Cơ sở lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hoá
Năm 1497 (cuối TK XV), vị minh quân Lê Thánh Tông băng hà, nhà Lê bắt
đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng. Bước vào TK XVI, những mâu thuẫn trong
lòng chế độ phong kiến đã bộc lộ một cách dữ dội, dẫn đến sự bùng nổ phong trào
nông dân khởi nghĩa và những cuộc xung đột triền miên giữa các tập đoàn phong
kiến nhà Lê. Quốc gia phong kiến bước vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
và kéo dài.
Ba mươi năm (1497 - 1527), có đến sáu hồng đế nhà Lê thay nhau ở ngơi.
Khơng có ai để lại dấu ấn gì trên vũ đài chính trị, có chăng là một Lê Uy Mục
nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra oai, người đương thời gọi đó là Vua
Quỷ [Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ thực lục, kỉ nhà Lê, quyển 14, tờ 39-a], hay
Lê Tương Dực chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo mất cơ nghiệp, trộm
cướp nổi lên, nguy cơ bị diệt vong bắt đầu ở đây [Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ

thực lục, kỉ nhà Lê, quyển 15, tờ 1-a], sự khủng hoảng trầm trọng trong cung đình
và hiện tượng xung đột diễn ra gay gắt (nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân do Lê
Hy, Trịnh Hưng và Lê Minh Triệt lãnh đạo ở Nghệ An, năm 1512; khởi nghĩa của
Trần Công Ninh ở Yên Lãng - Vĩnh Phúc, năm 1516, …) đã đẩy nhà Lê lao nhanh
xuống vực thẳm của sự diệt vong.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, lập nên nhà Mạc. Nhưng rồi nhà
Mạc cũng có những hạn chế nhất định trong công cuộc chấn hưng lại đất nước.
Từ đây bắt đầu cuộc tranh giành Lê - Mạc (Đàng Trong và Đàng Ngồi).
Sau khi lên ngơi, Mạc Đăng Dung khơng thu phục được lịng người, nhiều bậc nho
sĩ tài năng hoặc bỏ đi ở ẩn, hoặc lẩn tránh tìm phị nhà Lê. Năm 1533, Nguyễn Kim
9


tôn Lê Ninh xưng là Lê Chiêu Tông ở Thanh Hóa (Namtriều). Cuộc chiến tranh Lê
- Mạc diễn ra [sử cũ còn gọi đây là cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều]. 60 năm
(1533 - 1592), hai bên huy động mọi lực lượng đánh nhau cả thảy 38 trận, kết quả
cuối cùng Nam triều đè bẹp được Bắc triều. Kể từ năm 1592, nhà Lê lại đóng đơ
tại kinh thành Thăng Long (sử cũ gọi đây là triều đại Lê Trung Hưng).
Chiến tranh Lê - Mạc vừa dứt, lại bắt đầu cuộc chiến Trịnh - Nguyễn. Phò
nhà Lê chưa đạt thành sở nguyện, năm 1545 Nguyễn Kim bị một hàng tướng của
nhà Mạc đầu độc chết. Con rể của Kim là Trịnh Kiểm thâu tóm quyền bính. Con
trai của Nguyễn Kim là Nguyễn Hồng nhanh trí tìm đường vào Nam mưu nghiệp
dài lâu. Cuộc đối đầu lâu dài và quyết liệt giữa họ Nguyễn và nhà Trịnh thực sự bắt
đầu từ năm 1627. Liên tiếp trong 45 năm trời (1627 - 1672) hai bên đánh nhau cả
thảy 7 trận lớn nhỏ nhưng bất phân thắng bại. Cuối cùng hai bên lấy sông Gianh
làm giới tuyến.
Nhà Nguyễn sau khi định đô ở Thuận Hóa, các chúa Nguyễn bằng nhiều
cách thức khác nhau không ngừng mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam. Đến cuối
TK XVII, đất Đàng Trong đã mở tới vùng Sài Gịn - Gia Định (nay là thành phố
Hồ Chí Minh). Đất Thuận Hố (Huế) trở thành kinh đơ mới kể từ thời gian này.

Sang TK XVIII, lịch sử, xã hội Việt Nam có những biến động lớn.
Dưới sự thống trị của triều đình phong kiến chuyên chế, cùng với sự áp bức
bóc lột của bọn quan lại, cường hào địa phương, đời sống của người nông dân ngày
càng bần cùng khổ sở. Mất mùa, thiên tai xảy ra liên tiếp trong những năm đầu TK
XVI, làm cho đời sống của nơng dân lại càng thêm điêu đứng. Tình hình đó đã tất
yếu dẫn tới sự bùng nổ hàng loạt các cuộc nông dân khởi nghĩa nhằm lật đổ bộ
máy thống trị chuyên chế. Nguyễn Danh Phương (1741 - 1751) lập căn cứ ở Tam
Đảo rồi làm chủ được một vùng đất rộng lớn ở Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Cạn, Phú
Thọ, …; Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751) nối chí lớn của lãnh tụ Nguyễn Cừ gây
chấn động dữ dội khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngồi ra cịn có các cuộc khởi
nghĩa lớn khác của Hồng Cơng Chất (1739 - 1769), Lê Duy Mật (1738 - 1770).
Đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của ba anh em nhà Tây Sơn (1771 - 1802). Hơn một
10


thế kỷ thanh gươm yên ngựa, anh em nhà Nguyễn Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh
hùng áo vải Nguyễn Huệ đã ghi những dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc. Năm
1785, Nguyễn Huệ chỉ huy đội chiến thuyền phá tan tành hơn 5 vạn quân Xiêm tại
Rạch Gầm - Xoài Mút. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh phị Lê, cưới
cơng chúa Ngọc Hân (con vua Lê Hiển Tơng). Năm 1789, Nguyễn Huệ xưng
hồng đế rồi kéo quân ra Bắc phá tan tành 29 vạn quân Thanh xâm lược bằng trận
Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử.
Phong trào nông dân đã liên tục nổ ra như bão táp. Một mặt nó làm lay động
đến tận gốc rễ nền thống trị vốn đã mục nát của triều đình nhà Lê, góp phần đẩy
nhanh triều đại này tới chỗ diệt vong. Nhưng mặt khác, nó cũng góp phần làm thức
tỉnh ở người dân ý thức, dân chủ, tự do, tinh thần đấu tranh vì cơng bằng xã hội,
đồng thời cũng làm cho họ ngày càng hiểu rõ hơn về vai trị và sứ mạng của mình
trước lịch sử.
Sau khi Quang Trung Nguyễn Huệ đột ngột qua đời, triều đình Tây Sơn lại
lục đục mâu thuẫn. Điều kiện đó đã tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh nhanh chóng giành

lại quyền cai trị đất nước. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt quốc hiệu
Việt Nam, lãnh thổ nước ta thống nhất hồn tồn và có hình dạng cơ bản giống như
ngày nay. Do sự bảo thủ, bế quan toả cảng nghiêm ngặt, năm 1858 bằng nhiều lý
do khác nhau, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Lịch sử dân tộc bước sang trang
mới.
Về kinh tế và văn hoá cũng có nhiều biến động.
Với tiềm lực lao động mạnh mẽ của nhân dân lao động cùng với chính sách
khuyến khích thương nghiệp của các chúa Trịnh, nền kinh tế hàng hóa nước ta
ở TK XVII đã có nhiều chuyển biến; thành thị trở nên phồn thịnh, sầm uất.
Thủ công nghiệp với tính chất là nghề phụ gia đình của nơng dân ngày càng
phát triển rộng khắp. Trong những nghề thủ công đương thời, nghề làm giấy và
nghề khắc ván in phát triển. Đây là tiền đề hết sức quan trọng cho việc truyền bá và
lưu hành văn chương.

11


Sự mục ruỗng của guồng máy nhà nước phong kiến thống trị đương thời đã
trực tiếp tạo những ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc đến tồn bộ q trình suy vi của
Nho giáo. Chế độ thi cử thời vua Lê, chúa Trịnh không ổn định. Theo Phan Huy
Chú chỉ trong vòng chưa đầy trăm năm 1678 - 1765, các đời vua Lê, chúa Trịnh
nối nhau đã có đến 12 lần thay đổi phép thi Hương. Chính sự mất ổn định trầm
trọng này đã góp phần khơng nhỏ vào việc tạo ra sự chán chường trong tâm lý
chung của các thế hệ học trị đương thời. Triều đình lại cho bán học vị công khai
với giá cả rõ ràng, sinh đồ ba quan là một ví dụ điển hình.
Sau sự kiện 1527, tầng lớp Nho sĩ xuất hiện hai xu hướng:
Xu hướng thứ nhất chịu ra làm quan (tức xuất sĩ) tuy thu hút được nhiều
Nho sĩ, nhưng lực lượng của xu hướng này có hai vấn đề rất đáng lưu ý: một là họ
bị phân chia thành hai khối, hai phe đối nghịch nhau, hoặc là theo Nam triều (triều
Lê) hoặc là theo Bắc triều (triều Mạc). Họ cùng học chung sách vở, nghe giảng

chung một đạo lý, nhưng lại hiển đạt ở hai nơi và đứng trên hai chiến tuyến. Họ
thường cơng kích nhau. Nhưng dù theo Lê hay Mạc thì Nho gia vẫn cứ là Nho gia,
họ cũng có nhiều điểm tương đồng trong nhận thức. Hai là: đối với lực lượng Nho
sĩ lập danh chốn quan trường này là bản thân sự liên giữa họ với nhau cũng rất
lỏng lẻo. Sống giữa thời loạn, việc thiếu niềm tin cậy lẫn nhau cũng là điều bình
thường. Và chính điều bình thường này đã góp phần làm cho thời loạn càng thêm
loạn.
Xu hướng thứ hai của lực lượng Nho sĩ sau sự kiện năm 1527 là lánh mình
ẩn dật (tức là xử sĩ). Thực ra, rất ít ai vừa đỗ đạt xong lại chịu xa lánh quan trường.
Lực lượng xử sĩ trong giai đoạn này gồm hai bộ phận chính: một là những người
thật sự uyên thâm, đa văn quảng kiến nhưng không chịu đi thi. Số này không nhiều
và trong thực tế, ảnh hưởng xã hội của họ cũng không rộng lắm. Hai là những
người từng đỗ đạt, từng được bổ nhiệm làm quan nhưng chỉ trong một thời gian
ngắn thì buồn nản, trao trả chức tước cho triều đình rồi trở về. Số này đơng hơn và
ảnh hưởng của họ đối với xã hội cũng rộng lớn hơn.

12


Nho giáo suy thối, Phật giáo lại có cơ hội phát triển. Từ đầu TK XV, ngay
sau khi rút khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng (nhường chỗ cho Nho giáo), Phật giáo
đã tìm cách phát triển và củng cố vị trí của mình trong lịng xã hội. Từ TK XVI trở
đi, ở Đàng Ngoài, chùa chiền được trùng tu và xây dựng liên tiếp, người xuất gia tu
hành ngày một đơng. Trong số họ nhiều khi có cả những người đã từng là môn đồ
của cửa Khổng sân Trình trước đây (Phạm Thái là một ví dụ điển hình; Nguyễn
Du; Nguyễn Gia Thiều ảnh hưởng từ Phật giáo cũng khơng ít).
Một số dịng Thiền tơng cũ hồi sinh, nổi bật nhất là dịng Lâm Tế, dịng
Thiền tơng mới là Lân Giác ra đời; trong đời sống tư tưởng của đơng đảo xã hội
Đàng Ngồi, những quy phạm có nguồn gốc đạo đức từ Phật giáo ngày càng được
đề cao và chùa chiền thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt văn hố có sức cuốn hút

mạnh mẽ đối với mọi tầng lớp.
Ở Đàng Trong, ngay từ đầu Phật giáo rất được đề cao. Và từ đó đến mãi các
thế kỷ sau, Phật giáo chiếm vai trò quan trong về mặt tư tưởng của cư dân xứ
hoang hoá này.
Cũng có thể nói, ở thời kỳ này có cuộc hội nhập giữa Đạo giáo với văn hoá
dân tộc. Ở Đàng Ngoài, vua Lê - chúa Trịnh nhiều lần đến viếng hoặc cầu đảo ở
các đền, miếu và Đạo quán. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn cũng rất cởi mở với Phật
giáo và Đạo giáo. Tóm lại, lúc bấy giờ nhiều người lên tiếng quảng bá cho quan
điểm Tam giáo đồng nguyên hoặc Tam giáo đồng quy nhưng đời sống tư tưởng
cũng chẳng phải vì thế mà có được cuộc hội nhập thực sự hài hoà giữa Nho, Phật
và Đạo.
b. Cơ sở văn học
Trước hết cần nói đến lực lượng sáng tác.
Trong văn học Việt Nam trung đại, nhà Nho vẫn là lực lượng sáng tác cơ
bản. Đối với nhà Nho đỗ đạt, vấn đề xuất - xử tương ứng với hai thái độ ứng xử;
hành - tàng luôn luôn đặt ra (phần lớn là ngay trong bản thân từng nhà Nho)... Đây
chính là chỗ khó khăn cho nhà nghiên cứu khi phân thành hai loại hình tác giả. Tuy
nhiên có thể thấy, cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, bối cảnh không gian, thời gian tồn
13


tại cho từng loại, kéo theo đó là cái nhìn, quan niệm của họ về con người và thế
giới có những điểm khác nhau... Từ đây, trên một mức độ nhất định cũng có thể
khái quát thành hai loại nhà Nho hành đạo và ẩn dật hai loại hình được coi là
chính thống trong văn học trung đại Việt Nam. Nhà Nho hành đạo muốn thực hành
những nguyên tắc của đạo lý Nho gia, sẵn sàng dấn thân nhập cuộc thực hiện lí
tưởng trí quân trạch dân, mong ước một xã hội phong kiến mẫu mực theo mơ hình
Nghiêu Thuấn. Hình tượng tác giả hiện lên trong sáng tác của họ luôn với tư cách
là con người hành động, thực tiễn, ưu thời mẫn thế, sẵn sàng xả thân vì Nghĩa.
Sáng tác của nhà Nho hành đạo mang đậm màu sắc đạo lý, mang tính quy phạm

cao; quy phạm trên cả hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình thức, thể loại,
ngơn ngữ.
Nhà Nho ẩn dật, vẻ ngồi lại như là một biểu hiện đối cực của loại nhà Nho
hành đạo. Họ phủ nhận việc hành đạo nhưng là loại hành đạo ngu trung, thiếu tỉnh
táo. Tác giả ẩn dật (khơng chỉ có riêng nhà Nho) trong văn học Việt Nam có thể kể
từ Huyền Quang Lý Đạo Tái, Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng,
Nguyễn Dữ đến Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến. Đề cao và bảo
toàn Danh - Tiết là đặc điểm cơ bản, chủ đạo trong ý thức, tư tưởng của tác giả ẩn
dật. Để thực hiện điều này trước hết họ tìm đến một môi trường, một không gian
vô trần, cô tịch, tránh mọi mối liên hệ xã hội (Thực ra cũng khó tránh được những
dăng mắc của lưới đời, khơng ít trường hợp phải chấp nhận bi kịch. Câu chuyện Sư
Huyền Quang và nàng Điểm Bích; giấc mơ làm một Đào Tiềm của Yên Đổ là
những bằng chứng sinh động cho bi kịch vừa nêu). Họ coi thường danh lợi, quên
cả dòng thời gian thế sự vì trong núi khơng có lịch, tự nhận về mình bao nhiêu thứ
dại dột, ngu hèn, tăm tối (chỉ là một cách nói phản ngữ). Hình tượng nhà Nho giữ
Tiết là hình tượng đẹp nhất trong sáng tác của tác giả ẩn dật.
Khác với hai loại trên, nhà Nho tài tử ra đời muộn (từ TK XVIII), khi trong
xã hội đã xuất hiện những yếu tố mới: đô thị, tư tưởng thị dân. Con người phát
hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với những nhu cầu, khát vọng sống cá
nhân. Nhà Nho tài tử, gốc, dĩ nhiên vẫn là Nho nhưng càng ngày càng xa rời những
quy phạm, chuẩn mực khắt khe, giáo điều của đạo lý Nho giáo. Giá trị cao nhất
14


trong quan niệm về con người, về nhân sinh đối với họ là Tài (nhất là tài văn
chương nghệ thuật cầm, kỳ, thi, hoạ) và Tình (đặc biệt là tình đối và giai nhân). Tài
gắn liền với Tình, với Sắc, với hưởng thụ. Chính họ là lớp nhà Nho tạo nên trào
lưu nhân đạo chủ nghĩa độc đáo trong văn học nửa sau TK XVIII - nửa đầu TK
XIX. Kiểu tác gia này rất nhạy cảm với các vấn đề mới nảy sinh, trong đó tự ý thức
về bản thân mình, khẳng định cái tài hoa, độc đáo, sự sáng tạo trong nghệ thuật là

khát vọng vươn tâm thời đại lúc bấy giờ.
Thứ hai, truyền thống trữ tình của văn học dân tộc và sự trỗi dậy của những
tư tưởng, tình cảm mới, văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học trung đại, đậm tính
trữ tình. Đây là cơ sở tốt nhất để các tác giả tự bộc lộ tư tưởng, tình cảm cá nhân
của riêng mình.
Từ TK XVI, đặc biệt là từ TK XVIII, con người luôn sống trong tâm trạng lo
âu, phấp phỏng, sầu buồn, họ chìm trong triền miên đau khổ bởi nhiều nguyên
nhân, mà nguyên nhân sâu xa gây nên là các thế lực thống trị Chính vì thế chưa
bao giờ hình tượng con người cá nhân xuất hiện trong văn học nhiều như thế.
Thời kỳ này, con người phát hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với
tất cả những nhu cầu khát vọng cao nhất của nó.
Như vậy cơ sở để xây dựng hình tượng con người cá nhân trong văn học
trung đại có thể hiểu ngắn gọn là:
Thứ nhất, ở thời kỳ ổn định và phát triển của nhà nước phong kiến, mối
quan tâm hàng đầu của văn học chính là hình tượng con người cơng dân gắn bó với
những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc và công cuộc xây dựng đất
nước. Ý thức trách nhiệm, những tình cảm cơng dân lớn lao, cao cả được đặc biệt
đề cao.
Thứ hai, trong giai đoạn nhà nước phong kiến trượt dài trên cái dốc suy
thoái, con người cá nhân với ý thức cá tính, tài năng với nhu cầu tự khẳng định và
khát vọng mãnh liệt về tự do, tình yêu, hạnh phúc lại là hình tượng trung tâm của
các tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả. Sự chuyển biến từ chỗ đặc biệt

15


quan tâm đến hình tượng con người cơng dân đến chỗ đặc biệt quan tâm đến hình
tượng con người cá nhân thể hiện rõ nét đặc trưng của văn học Việt Nam trung đại.
Thứ ba, con người cá nhân hình thành và phát triển mạnh mẽ ở văn Việt
Nam trung đại giai đoạn hậu kỳ đã trở thành một động lực nội sinh quan trong góp

phần hình thành phong trào Thơ Mới xuất sắc 1932 - 1945.
7.2.1.2.2. Con người cá nhân và con người cá nhân trong Văn học trung đại
Việt Nam
a. Con người cá nhân trong văn học
Vậy con người cá nhân trong văn học là gì? Con người cá nhân trong văn
học là sự phản ánh cái tôi của tác giả, là sự giãi bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình
cảm riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con người cá nhân trong văn học chính là
sự tự khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của tác giả được thể hiện thông qua những
tác phẩm mà họ sáng tác. Tùy theo từng giai đoạn văn học, từng thời kỳ văn học
mà con người cá nhân có những đặc điểm khác nhau.
b. Con người cá nhân trong Văn học trung đại
Trong thời kỳ ổn định và phát triển của nhà nước phong kiến, mối quan tâm
hàng đầu của văn học chính là hình tượng con người cơng dân gắn bó với những
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước. Ý
thức trách nhiệm, những tình cảm cơng dân lớn lao, cao cả được đặc biệt đề cao.
Bên cạnh đó, con người cá nhân với ý thức cá tính, tài năng với nhu cầu tự khẳng
định và khát vọng mãnh liệt về tự do, tình yêu, hạnh phúc lại là hình tượng trung
tâm của các tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả. Sự chuyển biến từ chỗ
đặc biệt quan tâm đến hình tượng con người cơng dân đến chỗ đặc biệt quan tâm
đến hình tượng con người cá nhân thể hiện rõ nét đặc trưng của văn học Việt Nam
trung đại.
- Nói đến văn học Việt Nam thời trung đại, một trong những vấn đề quan
trọng cần được đặc biệt lưu tâm là vấn đề thể hiện con người. Giáo sư Trần Đình
Sử cho rằng, “Con người trong văn học chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng triết
học, thần học mỗi thời”
16


Văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của ba hệ tư tưởng
Nho - Phật – Lão; con người trong văn học trung đại, do đó cũng mang đậm dấu ấn

của ba triết thuyết này ở chủ trương phi ngã của Nho giáo, vong ngã của Lão Trang và vô ngã của Phật giáo...
Tuy nhiên “cả Đạo, Phật, Nho, tam giáo đều chủ trương lý thuyết phá ngã,
vô ngã, vô kỷ, nhưng không hề là một sự diệt ngã tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều dựa
vào phẩm chất cá nhân để giải phóng cho cái ngã nội tại khao khát tự do được
bước sang một thế giới khác, khơng gị bó, tạm bợ”.
Điều này khiến văn học trung đại, tuy chịu sự quy định chặt chẽ của tính quy
phạm nhưng con người cá nhân vẫn được thể hiện một cách phong phú, sinh động.
Văn học trung đại Việt Nam tồn tại trong thế lưỡng phân thành hai thành phần
chính: Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Sự song hành của hai thành phần
văn học này tạo nên hiện tượng song ngữ khiến văn học trung đại phát triển với
những biểu hiện vừa đối lập, vừa bổ sung cho nhau, tạo nên một thế giới nghệ
thuật phong phú, đa dạng: vừa mang tính qui phạm, vừa phá vỡ qui phạm; vừa cao
nhã, quý phái vừa bình dị, đơn sơ; vừa tiếp thu lại vừa từ bỏ dần các yếu tố văn hóa
Hán, văn học Hán.
Chịu sự chi phối của hệ thống thi pháp trung đại, đồng thời không ngừng
sáng tạo theo tiếng gọi của cảm xúc bản ngã, nhà sáng tác thời trung đại giống như
“người nghệ sĩ múa một tay còn tay kia bị cột vào truyền thống”.
Con người trong văn học trung đại theo đó cũng có sự thay đổi theo nhiều
chiều kích khác nhau, lúc nghiêm trang trong vịng khn thước kinh điển, lúc bứt
phá dữ dội để tâm hồn rung động và thăng hoa bằng những cảm xúc chân thật và
mãnh liệt vốn có của con người.
Cần thấy rằng, đã là văn học viết thì dù là văn học trung đại hay văn học
hiện đại cũng đều tồn tại bản ngã, tồn tại con người cá nhân, cá thể.
Chỉ có điều nếu xã hội hiện đại tự do, cởi mở khiến các nhà văn, nhà thơ có
một cõi riêng để tự do sáng tạo, để cái tơi trữ tình tha hồ vùng vẫy, thể hiện hết
những cung bậc cảm xúc của mình thì xã hội trung đại với những quy định nghiêm
17


nhặt khiến nhà sáng tác dù muốn dù không cũng phải chịu sự ràng buộc của khuôn

phép, của lề lối kinh điển.
Con người cá nhân, cá thể do đó cũng khơng được thể hiện một cách phóng
khống, cởi mở như trong văn học hiện đại. Song điều đáng quý là mặc dù chịu sự
chi phối của tính quy phạm, người ta vẫn nhìn thấy trong văn học trung đại những
tâm hồn nghệ sĩ phá cách; biết yêu, say, rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên,
cuộc sống và con người; biết sống bằng những cảm xúc riêng tư từ trong thẳm sâu
con tim mình.
Các nhà văn, nhà thơ ngồi những lúc hướng về “khn vàng thước ngọc”
vẫn tự tìm cho mình một con đường sáng tạo riêng để cái tơi cá nhân, cá thể lên
tiếng.
Lịch sử văn học chứng minh rằng, chỉ khi nào văn học ly tâm thì mới xuất
hiện những tiếng nói nghệ thuật đích thực, mới xuất hiện những tác giả văn học
lớn. Những kiệt tác để đời của những đấng tài hoa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương… phần lớn được sáng tạo trong những giây phút ly tâm của tâm
hồn họ.
Nói như Nguyễn Hữu Sơn: “Trong những trạng huống bức xúc, những cảnh
ngộ dễ khơi gợi niềm trắc ẩn trong tâm hồn nhà nghệ sĩ… sẽ là lúc bột khởi những
rung động nghệ thuật đích thực, từ đó khởi động những suy cảm cá nhân”
Lúc này văn học nói lên tiếng nói của mình để bênh vực, ngợi ca, yêu
thương, trân trọng con người. Chính vì thế văn học chuyển từ cảm hứng u nước
sang cảm hứng nhân văn, nhân đạo. Con người được đề cao trong văn học là con
người cá nhân.
Những con người có sự cựa quậy về cái tơi bản ngã, phản ứng lại lễ giáo
phong kiến; những con người mất dần niềm tin vào những giá trị của đạo đức nhà
Nho, cảm nhận được sự cô độc, lạc lõng đồng thời khơng ngừng khát khao về tình
u và hạnh phúc.
Có thể kể ra một số hình ảnh con người nổi bật như: con người bi kịch, con
người khát vọng trong “Truyện Kiều, “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm”, thơ
18



Nôm Hồ Xuân Hương…; con người khủng hoảng niềm tin trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát; con người tự phản tỉnh trong “Cung ốn ngâm”, thơ
Nguyễn Cơng Trứ….
Lúc này văn học nói lên tiếng nói của mình để bênh vực, ngợi ca, yêu
thương, trân trọng con người. Chính vì thế văn học chuyển từ cảm hứng u nước
sang cảm hứng nhân văn, nhân đạo. Con người được đề cao trong văn học là con
người cá nhân.
Những con người có sự cựa quậy về cái tơi bản ngã, phản ứng lại lễ giáo
phong kiến; những con người mất dần niềm tin vào những giá trị của đạo đức nhà
Nho, cảm nhận được sự cô độc, lạc lõng đồng thời khơng ngừng khát khao về tình
u và hạnh phúc.
Có thể kể ra một số hình ảnh con người nổi bật như: con người bi kịch, con
người khát vọng trong “Truyện Kiều, “Chinh phụ ngâm”, “Cung ốn ngâm”, thơ
Nơm Hồ Xuân Hương…; con người khủng hoảng niềm tin trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát; con người tự phản tỉnh trong “Cung ốn ngâm”, thơ
Nguyễn Cơng Trứ….
Riêng đối với văn học trung đại con người cá nhân cũng được thể hiện ở
mức độ đậm nhạt và qua nhiều bình diện khác nhau. Cụ thể, ý thức về con người
cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam trải qua hai giai đoạn với những hình
thái khác nhau. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII về cơ bản con người cá nhân được
“khẳng định trên bình diện tinh thần, như một thực thể tinh thần, siêu nghiệm dưới
các hình thức tu dưỡng, lựa chọn xuất xử, hồn thiện nhân cách, tự hạn chế nhu
cầu vật chất, tự đối lập với thói tục. Con người cá nhân tự khẳng định mình bằng
cách gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp chung của của
cộng đồng. Yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý. Còn từ thế kỉ XVIII đến hết
thế kỉ XIX, “con người trong văn học đã kêu to lên nhu cầu về quyền sống cá nhân,
quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên”.
Qua quá trình khảo sát ta có thể khẳng định rằng, con người cá nhân trong
văn học trung đại Việt Nam có một q trình tự ý thức chậm chạp, lâu dài nhưng

19


mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của ý thức hệ thống trị
đương thời nhưng khơng bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó, mà phản ánh q
trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời sống.

7.2.2. Nội dung cụ thể:
Con người cá nhân trong Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII-XIX
qua một số tác giả và tác phẩm thơ tiêu biểu trong chương trình Ngữ văn 11.
7.2.2.1. Con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương.
a. Khái quát về tác giả Hồ Xuân Hương

20


Hồ Xuân Hương (1772 – 1822)

* Tiểu sử
- Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh, năm mất.
- Theo các tài liệu lưu truyền quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long.
- Cuộc đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái: hai lần lấy
chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô độc.
- Hồ Xuân Hương xinh đẹp, thông minh đi niều nơi, giao thiệp với rộng
(quen biết nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Du).
- Con người bà phóng túng, tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo.
* Sự nghiệp văn học
Tác phẩm chính
- Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả chữ Nôm và chữ Hán.

- Theo giới nghiên cứu hiện có khoảng trên dưới 40 bài thơ tương truyền là
của Hồ Xn Hương.
- Nữ sĩ cịn có tập thơ Lưu hương kí (phát hiện năm 1964) gồm 24 bài chữ
Hán và 26 bài chữ nôm.
Phong cách nghệ thuật

21


- Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc
đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học
dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngơn ngữ, hình tượng.
- Nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối
với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ
=> Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nơm”.
* Vị trí và tầm ảnh hưởng của tác giả
- Nét phóng túng và tiềm ẩn trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn gây nguồn
cảm hứng vô tận cho hậu thế.
b. Con người cá nhân bản năng trong thơ Hồ Xuân Hương.
Con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương được thể hiện một cách toàn
diện và sâu sắc.
- Con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương là con người có cái “tơi” ý
thức về mình, cá tính và đầy bản lĩnh.
- Con người cá nhân bản năng đã trở thành hình tượng điển hình, xuất hiện
xuyên suốt trong các tác phẩm thơ Nôm của bà. Một con người hội tụ đầy đủ vẻ
đẹp từ hình thể đến tâm hồn, và nhu cầu trần tục rất con người:
“Đơi gị Bồng Đảo hương cịn ngậm,
Một lạch Đào Ngun suối chửa thơng.”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Vẻ đẹp thanh tân của người con gái thơ mộng như Bồng Đảo, nguyên sơ như

Đào Nguyên đã dần hé lộ, người “qn tử” đứng trước “tịa thiên nhiên” khơng
tránh khỏi động lịng, “dùng dằng” giữa bản năng và lí trí. Bà chúa thơ Nơm khơng
chỉ mạnh dạn đề cao vẻ đẹp đường nét, mà còn đề cập đến nhu cầu tự nhiên của
con người. Xuân Hương đã vận dụng khéo léo nghệ thuật nói lái để nhấn mạnh
quan hệ tình dục của con người là một nhu cầu bản năng trần thế:
“Thú vui quên cả niềm lo cũ,
22


Kìa cái diều ai nó lộn lèo.”
(Qn Khánh)
Mỗi câu thơ là cách nói ví von, so sánh hay ước lệ hình tượng để miêu tả bộ
phận trên cơ thể và quan hệ nam nữ. Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ hiếm hoi dám
nói thẳng, nói đúng với suy nghĩ của mình, nói hộ những ai chưa dám thổ lộ vì
quan niệm đạo đức nho gia cho đó là điều cấm kị. Thơ Hồ Xuân Hương tục mà
thanh, nhu cầu ân ái của thế gian khơng thể thiếu, đó là địi hỏi bình thường để đạt
đến sự hịa hợp tình yêu và sắc dục, cốt lõi là sự mong mỏi tình u chung thủy:
“Thân em như quả mít trên cây,
Vỏ nó sù sì, múi nó dày.
Qn tử có u thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.”
(Quả mít)
- Hình tượng nổi bật trong con người cá nhân là hình tượng người phụ nữ cá
tính và nữ tính của tác giả:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hơi,
Này
Xn

của


Hương mới

quệt rồi.

dun nhau

phải

thì thắm lại,
Đừng xanh

như lá, bạc

như vôi.”
(Mời trầu)

Cách

mời trầu độc

đáo với “cau

nho

“trầu hôi” là

lời mời chân
23

nhỏ”,



thành, trân trọng xuất phát từ một trái tim khao khát hạnh phúc lứa đôi. Xuân
Hương không chỉ là người phụ nữ tài năng, mà còn là người chân thực ln sống
thật với cảm xúc của mình. Trước những bất cơng xã hội dành riêng cho người phụ
nữ thì Xn Hương đã ý thức được nỗi đau và khát vọng thầm kín của chung một
tầng lớp người. Bà lên tiếng kêu gọi tìm tiếng nói chung và sự đồng cảm cho số
phận, tiếng nói đó trong chùm thơ Tự tình, Khơng chồng mà chửa, Dỗ người đàn
bà khóc chồng, Làm lẽ,… Một tấm lòng bao la, người Cổ Nguyệt đau nỗi đau cùng
người, ln mở lịng chia sẻ với chị, với em:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cơ mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
… Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vơ tình.”
(Tranh tố nữ)
Mỗi câu mỗi chữ đều thể hiện bản lĩnh và cá tính của người phụ nữ trong thơ
lẫn ngoài đời thực. Hồ Xuân Hương tự xưng tên mình khi mời trầu, gọi “cơ mình”,
“chị - em” (Tranh tố nữ), nhận là “chị” để Mắng học trò dốt. Nữ sĩ tự tin khẳng
định vị trí, tài năng của mình khơng thua kém gì nam giới: “Ví đây đổi phận làm
trai được - Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”(Đề đền Sầm Nghi Đống).
=> Con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương là con người ý thức tài
năng bản thân và luôn khát khao hạnh phúc tình u, là con người giàu lịng nhân
ái, cảm thông với những cảnh đời bất hạnh trong xã hội bất cơng. Những dịng thơ
Nơm của bà là lời tâm tình, thổ lộ cảm xúc trần tục, mạnh mẽ hơn là tiếng nói đả
kích quan niệm cố hữu để địi quyền tự do cho con người trong đó có người phụ
nữ.
c. Con người cá nhân trong bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
* Giới thiệu bài thơ
- Bài thơ Tự tình 2 nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài của Hồ Xuân


24


Hương Chùm thơ “làm nên tiếng lòng chân thật của người đàn bà tự nói về tình
cảm bản thân của đời mình trong văn học cổ điển Việt Nam” (Xuân Diệu).
* Con người cá nhân thể hiện ở nội dung.
Một Xuân Hương cô đơn, tủi hổ, bẽ bàng trước cuộc đời (trong hai câu đề):
– Đêm khuya: là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình trong
những suy tư, trăn trở về cuộc đời, số phận. Đồng thời nó cũng gợi lên khơng gian
vắng vẻ, n tĩnh.
- Từ láy “ văng vẳng”: càng làm cho không gian thêm quạnh hiu, gợi cảm
giác cô đơn, lẻ loi của nhân vật trữ tình.
- Tiếng “trống canh dồn”: báo hiệu bước đi dồn dập, gấp gáp của thời gian.
Bước đi ấy kéo theo tuổi trẻ, nhan sắc tàn phai mà tình duyên lỡ dở, khiến cho
nhân vật trữ tình rơi vào tâm trạng lo âu, rối bời.
- “Trơ”: cô đơn, trơ trọi, tủi hổ, trơ lì, như thách thức cùng tạo hóa.
- Cách dùng từ “cái hồng nhan”: cụ thể hóa, đồ vật hóa, rẻ rúng hóa cuộc đời
của chính mình.
- Nghệ thuật đối lập (cái hồng nhan >< nước non) và đảo ngữ (đặt từ “trơ”
lên đầu câu): nhấn mạnh sự bẽ bàng, phẫn uất và sự bền gan thách đố cùng số phận
của người nữ sĩ.
=> Hai câu thơ đầu là cảm giác cô đơn trống vắng trước vũ trụ, tủi hổ bẽ
bàng trước cuộc đời, đồng thời thể hiện ý thức cá nhân cao độ của nhân vật trữ
tình.
Một Xn Hương xót xa cho dun phận dở dang,lỡ làng (trong hai câu
thực):
- “ say lại tỉnh “ -> vịng quẩn quanh: Nhân vật trữ tình mượn rượu để giải
sầu nhưng càng uống nỗi buồn càng thấm đẫm, càng uống càng thấm thía hơn
nghịch cảnh mà mình đang phải gánh chịu.


25


×