Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.91 KB, 36 trang )

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
Lãi suất là một trong những công cụ rất quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia.
Tuỳ theo nhịp độ phát triển của nền kinh tế, mức độ ổn định của tiền tệ mỗi nước
để có nội dung, phương pháp điều hành và quản lý lãi suất ở mức độ khác nhau.
Đối với nước ta, đến nay đã tiến một bước dài quan trọng trong cơ chế điều hành
và quản lý lãi suất. Bước tiến của việc điều hành công cụ lãi suất như hiện nay đã
thể hiện một bước tiến của nền kinh tế trong việc chuyển mình từ cách quản lý theo
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản
lý vĩ mô của nhà nước.
Sự kiện này được bắt đầu từ khi có nghị định 53/ HĐBT ngày 26/ 03/ 1988 và
tiếp đến là hai pháp lệnh về ngân hàng 10/ 1989 từ đó ngành ngân hàng đã trải qua
hơn 10 năm đổi mới, trong thời gian đó cũng là hơn 10 năm không ngừng đổi mới
chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước, theo từng bước tiến dần đến
lãi suất thị trường khi điều kiện kinh tế và tiền tệ cho phép. Sau đây xin điểm qua
các bước đổi mới chính sách lãi suất theo giai đoạn để chúng ta có thể hình dung
một cách rõ nét nhất các bước đi trong lộ trình đổi mới cơ chế lãi suất của chúng ta
trong thời gian qua và từ đó có thể định hướng một chính sách lãi suất mới phù hợp
hơn trong giai đoạn mới
Quá trình chuyển biến cơ chế lãi suất trong thời gian qua
I . Cơ chế lãi suất âm .
Trước năm 1988, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam là một hệ thống ngân hàng một
cấp, về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Hoạt động chủ yếu
của hệ thống ngân hàng này là nhận vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp quan hệ
của ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng hết sức hạn chế. Khi
ngân sách nhà nước thâm hụt thì cách làm dễ nhất, và cũng thường thấy nhất, là
ngân hàng phát hành thêm tiền để bù đắp. Khi các doanh nghiệp nhà nước thiếu
vốn thì ngân hàng nhà nước phát hành thêm tiền để cho vay tín dụng. Lãi suất
không được coi trọng trong giai đoạn này. Các nhà quản lý coi tín dụng như một
hình thức bao cấp qua giá. Hậu quả là lạm phát gia tăng với tốc độ cao và không gì
kiểm soát được. Lạm phát ngày càng tăng với tốc độ phi mã, nền kinh tế ngày càng
trì trệ báo hiệu những cuộc khủng hoảng kéo dài .


Vì vậy, trong giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1992 chính sách tiền tệ ở nước ta
đã có nhiều biến chuyển quan trọng nhằm mục tiêu cao nhất là trong một thời gian
ngắn nhất đẩy lùi được lạm phát, ổn định lại nền kinh tế. Tháng 3năm 1988, đánh
dấu bước ngoặt cơ bản trong chính sách tiền tệ ở Việt Nam bằng nghị định 53 và
tháng 5 năm 1990 là việc ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng: ngân hàng Nhà
nước và ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính hình thành hệ thống ngân
hàng hai cấp thay cho hệ thống ngân hàng một cấp trước đây. Các văn bản quy
định về lãi suất trong giai đoạn này hình thành cơ chế lãi suất âm, có nhiều thang
nấc, nhiều giá, lãi huy động cao hơn lãi cho vay, lãi cho vay với các đối tượng khác
nhau với mục đích trợ giúp rất khác nhau.
Quyết định số 25 NH- QĐ ban hành ngày 12 tháng 5 năm 1988 quy định
biểu lãi suất tiền gửi và cho vay như sau: lãi suất tiền gửi được chia thành ba loại:
không kỳ hạn, có kỳ hạn,và của hợp tác xã tín dụng gửi ngân hàng. Lãi suất tiền
vay được chia thành bốn loại: cho vay vốn lưu động kinh tế quốc doanh và tập thể;
cho vay cố định; cho vay ngắn hạn; cho vay đối với hợp tác xã tín dụng. Trong mỗi
mục lại chia nhỏ thành nhiều đối tượng cho vay khác nhau với các mức lãi suất
khác nhau. Ví dụ như vay vốn lưu động đối với kinh tế quốc doanh và tập thể được
chia ra thành 8 đối tượng cho vay khác nhau:
- Sản xuất nông- lâm nghiệp- xây lắp.
- Phát hành sách.
- Xí nghiệp đóng tàu biển, cơ khí công nghiệp.
- Kinh doanh lương thực.
- Sản xuất công nghiệp vận tải, bưu điện, bốc xếp.
- Kinh doanh vật tư dược phẩm.
- Kinh doanh hàng xuất khẩu.
- Kinh doanh thưong nghiệp, du lịch, dịch vụ, HTX mua bán, kinh doanh
nhập khẩu, ngoại thương.
Các loại cho vay khác cũng được chia nhỏ thành nhiều đối tượng cho vay tương tự.
Tiếp sau đó, quyết định số 42/NH-QĐ của tổng giám đốc ngân hàng nhà nước
Việt Nam về lãi suất tiền gửi và cho vay thay thế quyết định số 29 tuy có sự thay

đổi đáng kể trong việc quy định tỷ mỷ các mức lãi suất khác nhau cho từng đối
tượng khác nhau nhưng vẫn chưa giải quyết thật triệt để nhược điểm trên.
Có thể thấy, các thành phần kinh tế vẫn còn chịu sự phân biệt đối xử rất lớn,
hoàn toàn không có sự bình đẳng, chịu sự thiệt thòi do tư duy bao cấp còn quá
nặng nề, mang tính áp đặt và không sát với thực tế. Việc phân chia các mức lãi suất
một cách qúa cụ thể như trên thể hiện sự bao cấp qua giá, ưu đãi một cách không
cần thiết đối với các tổ chức kinh tế là doanh nghiệp nhà nước.
Lãi suất là một lĩnh vực nhậy cảm có tác động sâu rộng tới nền kinh tế, nhưng
trong giai đoạn này vẫn đươc xem như một biện pháp mang tính hành chính. Vốn
được coi là một loại hàng hoá và lãi suất là giá cả của vốn, vì vậy, nó cũng cần phải
tuân thủ theo quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Nhưng những gì thể hiện trong
giai đoạn này hoàn toàn không tuân thủ những quy luật trên. Cơ chế lãi suất âm tồn
tại trong suốt giai đoạn này như một giải pháp tình thế kéo đất nước ra khỏi cuộc
khủng hoảng. Các quyết số 29/NH-QĐ ngày16 tháng 3 năm 1989 và quyết định số
71/NH-QĐ đều đưa ra một mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm rất cao. Điều một của
quyết định số 29 quy định như sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: 9%/tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng: 12%/tháng.
Sau đó lãi suất tiền gửi tiết kiệm có giảm nhưng vẫn giữ ở mức cao ( QĐ số
71/NH-QĐ):
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: 7%/tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: 9%/tháng.
Căn cứ vào lãi suất cho vay theo các biểu lãi suất tiền gửi và cho vay ban hành
kèm theo quyết định số25/NH-QĐ ngày 12 tháng 5 năm 1988 và quyết định số
42/NH-QĐ ngày 15 tháng 4 năm 1989 thì các mức lãi suất tiền gửi đều cao hơn lãi
suất cho vay. Tuy nhiên với mức siêu lạm phát trong giai đoạn này thì lãi suất tiền
gửi vẫn thấp hơn mức lạm phát.
Như vậy, trong giai đoạn này đã hình thành một cơ chế lãi suất âm với
những đặc điểm như sau :
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.

- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động.
Cơ chế lãi suất âm đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc lấy lại ổn định nền
kinh tế và sự vận hành của nó đã mang lại những kết quả đáng lhích lệ :
Thứ nhất, nó giúp khôi phục và bảo đảm lòng tin của nhân dân vào giá trị
ổn định của đồng tiền mình gửi trong ngân hàng. Động viên thu hút đựoc một số
vốn và tiền mặt vào ngân hàng lớn gấp nhiều lần so với mấy chục năm trước đã
tích luỹ lại, thể hiện :số dư tiền gửi tiết kiệm cuối tháng 6 năm 1990 so với
31/12/1988 bằng 15,61 lần, số dư tiền gửi của các tổ chức kinh tế bàng 1,5 lần.
Tổng các khoản tiền gửi tăng nhanh và đến đầu năm 1991 đạt gần 2.300 tỷ đồng.
Nhờ đó các nhu cầu tiêu dùng của xã hội tiết chế giúp cải thiện cơ cấu cân đối cung
cầu trên thị trường và bổ sung lượng tiền mặt cho chi ngân sách, giảm khối lượng
tiền in bù đắp thâm hụt ngân sách , giúp chính phủ tăng lhả năng mua và nhập khẩu
các hàng hoá cần thiết để điều hoà cung cầu trên thị trường, củng cố sức mua đồng
tiền, kiềm chế tăng giá cả...
Thứ hai, giúp thủ tiêu tình trạng đầu cơ và tích trữ hàng hoá, nguyên vật
liệu, lương thực... ( bằng tiền của mình hoặc tiền đi vay với lãi suất thấp hơn mức
lạm phát ) đã tồn tại nhiều năm trước đó, mà đã gây ra tình trạng thiếu hụt, khan
hiếm giả tạo do cầu lớn hơn cung. Điều này được giải thích bởi lợi ích mà lãi suất
cao đem lại cho khoản tiết kiệm khi đó sẽ cao hơn nếu đem số tiền này dùng vào
để đầu cơ tích trữ hàng hoá.
Thứ ba, lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát còn giúp giảm bớt các nhu
cầu tín dụng giả được kích thích bởi mức lãi suất thấp hoặc chênh lệch lãi suất tạo
ra, cũng như giúp cải thiện và làm lành mạnh hoá tình trạng nợ đọng trong đời
sống kinh tế - xã hội.
Thứ tư, lãi suất tiền gửi tuy rất cao nhưng lãi suất cho vay cũng không ở
mức thấp. Lãi suất cho vay cao khiến người vay phải cân nhắc cẩn thận hơn các
khoản vay mới, đồng thời tìm cách trả nợ cũ nhanh để tránh “lãi mẹ đẻ lãi con”
( bằng cách bán hàng ra để trả nợ, dùng tiền vay cho các vụ đầu tư với tốc độ thu
hồi vốn nhanh hơn, có hiệu quả hơn )... Nghĩa là lãi suất cao sẽ giúp giảm tổng cầu,
nhất là cầu giả và tăng tổng cung của nền kinh tế, nhất là từ nguồn hàng hoá vật tư

có sẵn trong nền kinh tế.
Lãi suất cao đã làm cho nhiều tổ chức sản xuất kinh donah lâu nay dựa
vào các khoản bao cấp của nhà nước vềgiá vật tư, lãi suất tín dụng, bao tiêu sản
phẩm, cứ tưởng là mình làm ăn giỏi, nay bộc lộ tình trạng thật về hiệu quả kinh
doanh của xí nghiệp, buộc phải cải thiện tình hình tài chính kỹ thuật nếu muốn tiếp
tục tồn tại.
Lãi suất cao đã góp phần thủ tiêu tình trạng trợ cấp của nhà nước cho các
doanh nghiệp thông qua hệ thống lãi suất tín dụng thấp trước đó. Từ đó cho phép
giảm đáng kể nhu cầu vay tín dụng của các doanh nghiệp nhà nứớc cho các mục
đích trục lợi nhờ những khoản trợ cấp tín dụng trước đây của nhà nước. Nhà nước
bớt phải chi những khoản tiền không nhỏ mà hiệu quả không tương thích, thậm chí
hại nhiều hơn lợi.
Bên cạnh những mặt tích cực do cơ chế lãi suất âm đạt được, vẫn tồn tạ
nhiều bất cập:
Lãi suất phân chia nhiều mức, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất
cho vay nên đã nẩy sinh tiêu cực, có đơn vị kinh tế vay ngân hàng với lãi suất ưu
đãi, đem vốn về cho các đơn vị khác vay lại hoặc phân tán cho cán bộ, công nhân
viên đem gửi vào tiết kiệm để hưởng chênh lệch lãi. Trong lãi suất mang phần nào
chính sách xã hội nên khó xử lý. Nhu cầu vay vốn phát triển lên không thực chất ,
tạo lợi nhuận giả tạo cho ngân hàng .Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách
hàng tạo lỗ không không đáng có cho ngân hàng, làm cho ngân hàng không thể
kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
Khả năng huy đọng vốn đi đôi với yêu cầu rút bớt tiền trong lưu thông đã
gây áp lực lên giá cả hàng hoá. Lãi suất tín dụng cao được các doanh nghiệp đi vay
tự động chuyển vào giá thành sản xuất, đẩy mức giá bán lên cao, khiến giá cả thị
trường của sản phẩm do doanh nghiệp đó sản suất, cũng như mặt bằng giá chung
tăng, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp
đến mức lạm phất xã hội và khả năng
thanh toán nợ của doanh nghiệp. Nền kinh tế bị đình trệ, thất nghiệp tăng, tệ nạn xã
hội phát triển theo chiều hướng xấu.

Nhà nước vẫn tiếp tục phaỉ chi bù lỗ cho các kênh tín dụng vì sự chênh
lệch mức lãi suất tiết kiệm huy động và mức lãi suất cho các doanh nghiệp nhà
nước vay. Hơn nữa, tiền huy động được để chất đống trong kho vì
không cho vay được ( chiếm 50% tổng số tiền huy động được).Nếu kéo dài
thời gian áp dụng biện pháp tình thế tiếp tục thu hút vốn bằng lãi suất cao, thì tại
một thời điểm nào đó, tạm thời có đủ tiền mặt chi tiêu, nhân dân tạm thời chưa
mua một số mặt hàng hoặc lựong hàng hoá chưa cần dùng ngay,dành tiền vào gửi
tiết kiệm, giá cả tạm thời không tăng hoặc giảm đi chút ít, nên có người tưởng rằng
ta đã chống lạm phát xong, không phải in thêm tiền mặt đua vào lưu thông, giá cả
thị trường sẽ xuống và ổn định. Đó chỉ là ảo tưởng bởi sau một thời gian khi nhân
dân rút tiền ra để chi tiêu thì ngoài số tiền gốc còn phải trả thêm một số tiền lãi
khổng lồ, đây là khoản ngân hàng phải bù đắp và toàn dân phải chịu , và ngân sách
đang ở tình trạng thu không đủ chi, do đó lạm phát càng trầm trọng hơn.
Nhận thức được những khó khăn trên Hội đồng chính phủ đã có những nỗ
lực trong việc thay đổi về chính sách lãi suất. Ngày 10 tháng 4 năm 1989 Hội đồng
Bộ Trưởng ra quyết định về chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng
nhà nước, theo những nguyên tác và nội dung cơ bản sau đây:
* Điều 1- Lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng được quy định theo
nguyên tắc sau đây:
a) Bảo tồn được vốn và có lãi:
- Lãi suất tiền gửi phải bù đắp được tỷ lệ trượt giá và có lãi, khuyến khích các
tổ chức và đơn vị kinh tế gửi tiền vào ngân hàn.
- Lãi suất cho vay phải bù đắp được tỷ lệ trượt giá, có lãi (trong trường hợp cần
thiết có thể không lấy lãi) và có sự ưu đãi với những mặt hàng, nghành kinh tế và
vùng kinh tế cần khuyến khích.
b) Lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, và được điều chỉnh
theo sự biến động của chỉ số giá cả thi trường xã hội ( tháng hoặc quý ).
c) Mọi nguồn vốn Ngân hàng huy động để cho vay đều phải trả lãi. Mọi khoản
ngân hàng cho vay đều phải thu lãi. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
tiền gửi bình quân là 0,5%.

d) Lãi suất tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ áp dụng theo mức lãi suất thị trường
quốc tế.
* Điều 2- Cấu thành mức lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng bao
gồm:
- Mức lãi suất cơ bản.
- Chỉ số giá cả thị trường xã hội.
Những quy định trong văn bản đã thể hiện sự đổi mới lớn về tư duy của các nhà
hoạch định chính sách. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách trên thực tế gặp nhiều
khó khăn, đặc biệt khi lạm phát đang ở mức cao. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng
chủ yếu là những nguên nhan sau :
Một là : Thực tế lạm phát ở Việt Nam, biến động hết sức thất thường và hệ số
thông tin, số liệu chưa chính xác, do đó, nếu lấy tỷ lệ lạm phát làm cơ sở điều
chỉnh lãi suất sẽ tạo ra nguy cơ sai lệch lớn hơn so với thực tiễn. Điều đó đã xảy ra
vào tháng 3 năm 1989 khi mức lạm phát là 5,1%/tháng thì lãi suất tiền gửi tiết
kiệm được nâng lân mức 12%/tháng, đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ han 3tháng.
Dưới tác động mạnh của lãi suất cao, tỷ lệ lạm phát giảm đột ngột, và 3 tháng sau
trở thành thiểu phát.
Trong khi đó chúng ta tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng nói chung và sửa
đổi cơ chế lãi suất nói riêng khi chưa có một chính sách tài chính quốc gia thống
nhất, chính sách về vốn, thuế .. chưa đồng bộ, cơ chế hạch toán kinh doanh của các
tổ chức, đơn vị kinh tế còn rất nhiều bất hợp lý.
Hai là : Ngân hàng đã có những cố gắng cải tiến cơ chế lãi suất theo hướng thị
trường nhưng lại ở trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa đồng nhất, còn bị chia
cắt, ngay cả thi trường vốn giữa các ngân hàng chuyên doanh chưa thông suốt,
thiếu sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, trình độ sản xuất, năng suất lao động giữa
các khu vực kinh tế, giữa sản suất với lưu thông, giữa miền Nam và miền Bắc
chênh lệch quá lớn cũng là một khó khăn cho việc thực hiện một cơ chế mới. Bên
cạnh đó là nền kinh tế vẫn đang trong quá trình thay đổi cơ cấu và đổi mới, chưa có
đủ yếu tố cần thiết để thích ứng được với tác động ngặt nghèo của thị trường.
Ba là: Luật lệ, thể chế, các văn bản pháp luật điều chỉnh vừa thiếu vừa

không đồng bộ và không theo kịp với diễn biến năng động của đời sống kinh tế xã
hội.
Bốn là: Việc thực hiện cơ chế lãi suất âm với nhiều mục đích trợ giúp khác
nhau thực ra là nhiệm vụ của chính sách tài chính nhưng chưa được phân tách một
cách rõ ràng nên nhiều cơ ché mang tính chất hành chính nhiều hơn thị
trường,đồng thời tạo ra nhiều kẽ hở, rất dễ bị lợi dụng, gây bất lợi cho việc tiến tới
một cơ chế lãi suất mới hoàn thiện hơn.
Năm là: Mặc dù nhà nứơc cho phép mở ra nhiều hình thức gọi vốn khác
nhau, nhưng thực tế về cơ bản vốn của ngân hàng vẫn là chủ đạo, cộng với việc
chia cắt thị trường đã tạo ra khe hở bóp méo kết quả của cơ chế lãi suất mới.
Sáu là: Nhà nước nói chung, NHNN nói riêng chưa làm tốt vai trò điều
hành vĩ mô nền kinh tế, chính xách tài chính không được xây dựng thông qua các
công cụ quản lý và kinh tế hướng vốn vào các mục tiêu mang tính định hướng
chiến lược, vốn tín dụng dàn đều theo chiều rộng. Quá trình chuyển đổi từ cơ chế
cũ sang cơ chế mới được hình thành trong điều kiện tư duy mới về ngân hàng còn
hạn hẹp, chưa theo kịp và thích ứng với các khái niệm mới, tư tưởng bao cấp còn
nặng nề, phương tiện phục vụ cho việc thực hiện cơ chế mới lạc hậu cũ kỹ không
đáp ứng được yêu cầu.
Nói tóm lại, cơ chế lãi suất âm tồn tại là một tất yếu khách quan khó có thể phủ
nhận trong tình trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ còn hạn chế và nền kinh tế như
vậy. Khi nền kinh tế ổn định hơn điều tất yếu xảy ra là cơ chế cũ sẽ phải thay đổi,
mở đầu cho một cơ chế mới hoàn thiện hơn, phù hợp với quy luật kinh tế hơn. Lãi
suất sẽ trở lại đúng nghĩa là giá cả của hàng hoá chứ không phải là một công cụ
mang tính hành chính đơn thuần.
II. Cơ chế lãi suất dương.
Trong điều kiện nền kinh tế vẫn tiếp tục lạm phát ở mức độ cao,đầu năm 92 tỷ lệ
trượt giá dự kiến là 2,7%/tháng nhưng thực tế là 4,6%/tháng, giá vàng đô la tăng
cao, hậu quả cũ trong lĩnh vực vốn ( nợ khê đọng , lỗ huy động vốn tiết kiệm ...)
chưa được giải quyết, nguồn vốn huy động của các tổ chức quốc tế và ngân hàng
nước ngoài chưa khai thông được. Ban lãnh đạo ngân hàng nhà nước đã kiên trì

phương châm vay để cho vay, vốn tín dụng chủ yếu tập trung cho các nhu cầu thiết
yếu của nền kinh tế, kiên quyết đổi mới cơ cấu tín dụng, dần dần thoát khỏi cơ chế
lãi suất âm tiến dần tới cơ chế lãi suất dương.
Việc chuyển đổi cơ chế lãi suất mới đặt nhà các nhà quản lý trước một mâu
thuẫn: nếu không bảo tồn giá trị tiền gửi tiết kiệm thì người gửi tiền sẽ bị thiệt thòi
hoặc sẽ rút ra, gây sóng gió trên thị trường vàng và đô la và tác động tiêu cực đến
sản xuất và đời sống.Nhưng nếu nâng lãi suất lên bằng mức lãi suất cơ bản cộng
trượt giá với điều kiện lãi suất cho vay phải lớn hơn lãi suất huy động thì người
vay vốn không chịu đựng được. Duy trì mãi lãi suất âm thì điều đó không thể được
vì cơ chế này tồn tại quá nhiều mâu thuẫn như trên đã phân tích. Vì vậy, nhà nước
ta đã thực hiện một biện pháp có thể coi như một bước đệm trước khi chuyển hẳn
sang cơ chế lãi suất dương là: huy động vốn và cho vay bảo đảm giá trị theo vàng.
Quyết địng số 42/QĐ-NH1 ngày 21/2/1992 và quyết định số 57/QĐ-NH1 ngày
31/3/1992 đưa ra những nguyên tắc cơ bản :
- Vốn huy động huy động và cho vay bảo đảm giá trị theo giá vàng và có lãi.
- Lãi suất huy động áp dụng theo lãi suất quốc tế , vận dụng thích hợp vào
điều kiện trong nước. Lãi suất cho vay bằng lãi suất huy động cộng thêm tỷ lệ chi
phí của ngân hàng.
- Ngân hàng chỉ huy động vốn khi có nhu cầu vay vốn loại này và bảo đảm
quyền lợi cho cả ba bên : người gửi người vay và ngân hàng.
Việc huy động và cho vay và bảo đảm giá trị theo vàng vừa bảo đảm được lợi
ích của người gửi tiền, vừa không gây thêm khó khăn gì cho người sản xuất. Nó
tương tự như các doanh nghiệp vay ngoại tệ từ nước ngoài để kinh doanh và chịu
lãi theo thông lệ quốc tế. Có điều khác trước là, trong làm ăn họ phải tính toán chặt
chẽ hơn để kinh doanh sinh lời cho mình và trả được vốn vay. Nó ràng buộc trách
nhiệm của người vay tiền chẳng khác gì vay ngoại tệ của các tổ chức tín dụng quốc
tế.
Như vậy người cần vốn có thể vay vốn, lãi suất được đảm bảo theo giá vàng và
áp dụng theo lãi suất quốc tế vừa đảm bảo khỏi nguy cơ đồng tiền trượt giá vừa
phải chăng.Đồng thời, ngăn chặn được việc người dân rút tiền gửi tiết kiệm để

chuyển sang loại kỳ phiếu có mục đích bảo đảm bằng vàng vì mỗi người có thể gửi
tiết kiệm bất kỳ lúc nào, nhưng kỳ phiếu có mục đích đảm bảo bằng vàng chỉ phát
hành từng đợt theo yêu cầu đầu tư từng dự án. Ngoài ra tiền tiết kiệm thường là
ngắn hạn, rút ra lúc nào cũng được, trong khi kỳ phiếu huy động vốn dài hạn như
một khoản đầu tư dài ngày của bản thân người gửi, chỉ có thể rút ra trước hạn do
cơ chế chuyển nhượng. Tiền tiết kiệm nhằm thu hút những món nhỏ, kể cả những
khoản tiền nhật dụng chưa tiêu đến. Còn kỳ phiếu là dành cho những người trường
vốn, có của ăn của để. Lãi suất tiết kiệm có tính đến trượt giá và tất nhiên có tính
đến quan hệ cung cầu vốn, nhưng không được dảm bảo bằng vàng, thích hợp với ai
có nhu cầu tìm kiếm một ít tiền lãi hàng tháng để bù đắp thêm cho sinh hoạt.
Tuy chỉ là một biện pháp tình thế nhưng đã góp phần chống lạm phát hết sức
tích cực. Nó cho phép không chỉ thu hút và giảm bớt một một lượng đáng kể tiền
mặt trong lưu thông mà còn giảm bớt áp lực đối với thị trường vàng và đô la. Thị
trường vàng và đô la do vậy có khả năng ổn định vững chắc hơn. Từ đó nhà nước
đỡ phải bỏ ra ngoại tệ nhập vàng để can thiệp thị trường và đã sẵn có trong tay một
lực kượng vàng và đô la huy động được để làm việc đó . Lạm phát giảm có nghĩa
là tỷ lệ trượt giá giảm. Lúc này lãi suất tiền gửi theo công thức: lãi suất cơ bản
cộng tỷ lệ trượt giá, có điều kiện giảm xuống mà không gây quá nhiều chấn động.
Ngày17 tháng 10 năm 1992 thống đốc NHNN Việt Nam đã ra quyết định số
222/QĐ-NH1 về điều chỉnh lãi suất tiền gửi và tiền vay.
Theo quyết định nói trên thì kể từ ngày 20/10/1992 các mức lãi suất với tiền
gửi tiết kiệm của dân chúng được điều chỉnh như sau :
- Loại không kỳ hạn 1,0%/tháng.
- Loại kỳ hạn ba tháng 2,0%/tháng.
Riêng đối với ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và HTX tín dụng được
phép hoạt động trước mắt áp dụng mức lãi suất cho vay tối đa 3,5%/tháng. Theo
quyết định số 222/QĐ-NH1 này thì mức lãi suất 3,5%/tháng thay thế cho mức lãi
suất 4,5%/tháng theo quyết định số 129/QĐ-NH1ngày 28/7/1989 của thống đốc
NHNN Việt Nam .
Như vậy bằng nhiều nỗ lực ngân hàng nhà nuớc đã thực hiện một cơ chế lãi sất

mới theo hưóng :
Một là : đảm bảo lãi suất dương ( lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất huy
động bình quân ; lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát ).
Hai là :NHNN chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền gửi
tối thiểu, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các ngân hàng thương mại (NHTM) quyết
định.
Cơ chế lãi suất dương đã khắc phục rất nhiều nhược điểm của cơ chế lãi suất
âm trước đây.Tác động của nó cũng mạnh mẽ và triệt để hơn trước. Cụ thể:
- Giảm chi ngân sách nhờ lợi bỏ được khoản bù lỗ tìn dụng cấp cho khu vực
doanh nghiệp nhà nước vì lãi suất cho vay thấp hơn pãi suất huy động( tới 500 tỷ
đồng năm 1989 ).
- Giảm các nhu cầu cho vay giả tạo về tín dụng nhà nước nhằm kiếm lời do
chênh lệch lãi suất Các doanh nghiệp nhà nước đã mất “cơ hội” vay tiền Nhà nước
với lãi suất thấp để cho nhau vay lại hoặc cho các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh
vay lại, hoặc gửi vào quầy tiết kiệm với lãi suất cao để ăn chênh lệch lãi suất như
trước nữa. Điều này giảm được cầu tín dụng, cải thiện được cân đối cung cầu về
vốn tư trên thị trường.
- Tạo lập và cải thiện môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực nhà nước
và khu vực phi nhà nước. Tạo sự thanh lọc khách quan và khắt khe hơn các cơ sở
kinh doanh tốt, loại bỏ các cơ sở yếu kém thông qua mối đe doạ phá sản vì lãi suất
tín dụng cao hơn.
- Buộc người vay vốn phải tính toán sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Giảm bớt
đầu cơ tích trữ, giảm tình trạng khan hiếm giả tạo, tăng cung thị trường.
- Tạo điều kiện thúc đẩy hệ thống ngân hàng thực sự hoạt động kinh doanh tiền
tệ theo cơ chế thị trường “ vay để cho vay”, thu được lãi thực nộp ngân sách tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước ( năm 1994 sau khi đã nộp thuế cho nhà nước,
thu lãi tới 603,1 tỷ đồng , bằng 10% thu lãi về cho vay.
Điểm mới tiến bộ trong cơ chế lãi suất từ năm 1992 không chỉ ở tính “thực
dương” của lãi suất mà còn ở chỗ nhà nước thưòng xuyên điều chỉnh linh hoạt mức
lãi suất sao cho vẫn đảm bảo thực dương , song luôn bám sát thị trường. Ngày

01/10/1993 NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi và tiền vay cụ thể. Theo đó
NHNNcho phé các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt
mức cho vay cụ thể. ( Quyết đinh 184 / QĐ- NH1 ngày 28/09/1993):
* Điều 1:
- Lãi suất cho vay
+ Cho vay ngắn hạn tối đa: 2,1%/tháng ( 25,2%/ năm)
+ Cho vay trung và dài hạn: 1,2%/tháng ( 14,4%/năm)

+ Cho vay xây dựng cơ bản theo kế hoạch nhà nước giữ nguyên 0,7% (8,4%năm)
+ Cho vay các tổ chức kinh tế thuộc khu vực miền núi cao hải đảo , vùng đồng
bào Khơ Me tập trung được giảm 15%so với lãi suất bình thường cùng loại cho
vay.
- Lãi suất tiền gửi
+ Tiền tiết kiệm của dân cư
‘ Loại không kỳ hạn: 0,7%/tháng
‘ Loại kỳ hạn 3 tháng: 1,4%/tháng
‘ Loại kỳ hạn 6 tháng : 1,7%/tháng
‘ Loại kỳ hạn 1năm : 2,0%/tháng
* Điều 2: Tổng giám đốc NHTM ( quốc doanh, cổ phần thành thị, ngân hàng
liên doanh và chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam ), ngân hàng đầu tư và
phát triển căn cứ khung lãi suất điều 1 trên đây để quy định mức lãi suất cụ thể
từng loại tiền gửi và tiền vay cho phù hợp với đặc điểm sản xuất và kinh doanh của
từng ngân hàng.
Riêng đối với NHTM cổ phần và hợp tác xã tín dụng được hoạt động tại địa
bàn nông thôn, cho vay từ nguồn vốn huy động thoả thuận được áp dụng mức lãi
suất cho vay tối đa 2,7%/tháng.
Tiếp theo là chỉ thị số 10/CT-NH1 ngày 18/07/1994 của NHNN triển khai một
bước đề án cải cách lãi suất tín dụng. Căn cứ vào khung lãi suất cho vay cao nhất
hiện hành của nhà nước đã công bố theo quyết định trên điều chỉnh một số mức lãi
suất tiền gửi vay cho vay theo nguyên tắc :

a) Về lãi suất huy động vốn :
- Đối với tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế tuỳ theo nhu cầu có thể điều
chỉnh lãi suất gần sát với lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư cùng kỳ hạn.
- Trường hợp cần huy động vốn để đầu tư cho những dự án cụ thể theo yêu cầu
của đơn vị vay, các TCTD được huy động vốn dưới hình thức kỳ phiếu có mục
đích theo cơ chế thoả thuận, được người vay chấp nhận và ngân hàng kinh doanh
được.
b) Về lãi suất cho vay: nâng một bước mức lãi suất cho vay trung hạn từ
1,2%/tháng hiện nay lên 1,7%/tháng.
Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay khác được giữ nguyên như quyết định
184/QĐ-NH1 ngày 28/09/1992. Tổng giám đốc , giám đốc các tổ chức tín
dụng(TCTD) quy định từng mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động được vốn ,
được người vay chấp nhận và bảo đảm được hoạt động kinh doanh của TCTD.
Quyết định 184 /QĐ-NH1 và chỉ thị số 10/ CT-NH1 là một bước tiến so với
quyết định số 222/QĐ-NH1 một lần nữa khẳng đinh sự cố gắng hoàn thiện cơ chế
lãi suất cho phù hợp hơn với diễn biến của thị trường . Tuy nhiên, do tư duy vẫn
còn chưa thoát hẳn khỏi tư tưởng bao cấp đã ăn sâu bén rễ trong nhiều năm, nền
kinh tế tuy đã có dấu hiệu của sự phục hồi nhưng còn gặp rất nhiều khó khăn.Đặc
biệt , chúng ta chưa có một thị trường tài chính thực sự để giúp cho lãi suất hình
thành một cách khách quan thông qua quan hệ cung cầu mà ngân hàng trung ương
có thể căn cứ vào đó để quyết định sự điêù chỉnh cần thiết nên còn rất nhiều mâu
thuẫn nảy sinh. Cụ thể là :
- Nhìn vào quy định trên điều có thể dễ dàng nhận thấy là lãi suất không kỳ hạn
thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn. Thời hạn gửi tiền dài hơn, tỷ lệ lãi suất được
hưởng cao hơn. Ngược lại, khi cho vay : lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất
cho vay dài hạn, thời hạn vay càng dài, lãi suất vay càng thấp. Trong khi đó, tiền
gửi trung và dài hạn vào ngân hàng được hưởng lãi suất cao trong khi tiền lãi cho
vay dài hạn lại thấp. Nguyên nhân là trong những năm trước chúng ta phát triển
nền kinh tế theo quy luật cân đối, có kế hoạch một cách cứng nhắc. Giai đoạn này
nền kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo,chiếm tỷ trọng lớn, thì việc thực hiên

chế độ cho vay dài hạn với lãi suất thấp hơn cho vay dài hạn là phù hợp, việc bao
cấp qua giá là lẽ dĩ nhiên trong thời kỳ này. Một lý do nữa,là nhà nước trong giai
đoạn này chú trọng phát triển nền kinh tế theo chiều sâu, phát triển công nghiệp
nặng là nghành kinh tế cần có sự đầu tư dài hạn nên cho vay các dự án dài hạn là
rất thấp, nếu lỗ sẽ được nhà nước cấp bù. Nhưng kể từ khi nhà nước chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, ngoài kinh tế
quốc doanh đóng vai trò chủ đạo còn rất nhiều thành phần kinh tế khác cùng tồn
tại, cùng tuân theo những quy luật của thi trường thì việc vẫn giữ nguyên những sự
ưu đãi trên là bất hợp lý.
- Việc vừa quy định cụ thể các mức lãi suất vừa cho thực hiện cơ chế lãi suất
thoả thuận đã tạo ra những cong vênh trên thực tế mà có người gọi đó là “tự do hoá
lãi suất một nửa”. Trước hết là những bất cập trong việc quy định giảm 15% mức
lãi suất cho vay đối với vùng cao và hải đảo trên thực tế đã không đến được với
ngươì cản xuất ở những vùng này.Số vốn cho vay với lãi suất giảm nói trên cho
người dân vùng cap chiếm tỷ trọng rất nhỏ nếu như muốn nói là hầu như không có.
Mà nếu có thì tỷ lệ giảm đó không phải là theo khung lãi suất quy định mà theo lãi
suất thoả thuận. Mặt khác vì tồn tại trên cơ sở thoả thuận nên cho dù không có sự
phân biệt lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế nhưng thực tế lãi suất lãi
suất cho nông dân vay luôn cao hơn từ 10 đến 30% mức lãi suất cho vay các doanh
nghiệp nhà nước. Nguyên nhân chính bởi vì các khoản vay của người sản xuất ở
nông thôn thường nhỏ lẻ, việc thẩm định các dự án vay vốn thường khó khăn, mức
độ mạo hiểm cao.
Dựa vào sự khuyến khích của nhà nước bằng cách cho phép phát hành kỳ phiếu
có mục đích nếu vốn huy động tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất
quy định mà không đủ để cho vay với mức lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng
thời hạn tói đa là 0,2%/tháng và cho vay với mức 2,1%/tháng trên cơ sở thoả thuận
với khách hàng theo phương châm : ngân hàng kinh doanh được và người vay chấp
nhận được. Trên thục tế huy động tiền gửi của nhân dân bằng kỳ phiếu có mục đích
đã trở thành phương tiện chủ yếu của NHTM, chiếm khoảng 80% tổng số tiền huy
động vốn của nhân dân. Gọi là kỳ phiếu có mục đích nhưng không có thời gian

chấm dứt. Để không vi phạm văn bản pháp quy, một số chi nhánh NHTM đã làm
tờ trình xin Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh hoặc thành phố cho phép chi nhánh NHTM
phát hành kỳ phiếu có mục đích với lãi suất cao, do chưa có toà án hành chính
trong giai đoạn này nên việc xử lý những vi phạm trên trở nên khó thực hiện được
trên thực tế...

×