Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường học viện hành chính quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.3 KB, 110 trang )

.....

Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học bách khoa hà nội

---------------

Nguyễn Trung Thành

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường
Học viện hành chính quốc gia.

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

Luận Văn Thạc sỹ
Người hướng dẫn khoa học

TS. LÃ Văn Bạt

Hà Néi - 2007


1

Lời mở đầu
Lý do chọn đề tài
Ngay từ Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII, Nghị quyết đà định hướng mục
tiêu chiến lược là: Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm
2020. Để thực hiện chiến lược đó cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực
khác nhau, trong đó phải kể đến nguồn lực con ng­êi. Nguån lùc con ng­êi


cã vai trß hÕt søc quyÕt định đối với sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại
hoá đất nước. Nguồn lực đó là những người lao động có trí tuệ, có phẩm chất
tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát huy một nền giáo dục tiên tiến gắn
liền với nền khoa học hiện đại.
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục đào tạo,
coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, lấy giáo dục là nền tảng để
phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ X đà khẳng định: [Giáo
dục và đào tạo góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước] và xác định [Để đáp ứng yêu cầu về con người và
nguồn lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo giục
và đào tạo].
Trong những năm qua đội ngũ giảng viên của trường Học viện Hành
chính Quốc gia đà bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho nhiều sinh viên
và các cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, góp phần đáng kể nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức hành chính và công cuộc
cải cách hành chính ®Ĩ héi nhËp kinh tÕ thÕ giíi, ®Ỉc biƯt khi Việt Nam gia
nhập WTO và đảm bảo thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng X đòi hỏi Học
viện Hành chính Quốc gia cần nâng cao chất lượng đào tạo, do đó Học viện
phải nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
Mục đích nghiên cứu của luận văn

1


2
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận cơ bản về chất lượng đội ngũ giảng
viên của trường Học viện hành chính quốc gia; nghiên cứu phân tích và đánh
giá thực trạng cũng như các nhân tố của chất lượng đội ngũ giảng viên
trường Học viện Hành chính Quốc gia, luận văn tập trung vào việc xác định

những tồn tại chưa hợp lý, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên trường Học viện Hành chính Quốc gia.
Đặc biệt khi Việt Nam võa gia nhËp WTO, trong khi hƯ thèng ph¸p lý và
nền hành chính chúng ta còn hạn chế. Do đó nó đòi hỏi chúng ta phải cải cách
hành chính, hiện nay chúng ta làm rất quyết liệt và đi đầu là Văn phòng Chính
phủ.
Từ những thực trạng trên đà thôi thúc em, thôi thúc thế hệ trẻ, đồng thời
lại là giảng viên trẻ của trường nên em rất muốn nghiên cứu thực trạng và
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên góp phần
cải thiện nỊn hµnh chÝnh n­íc nhµ gióp ViƯt Nam hoµ nhËp với nền kinh tế
thế giới nhanh hơn.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Trên cơ sở tham khảo các tài liệu lý
luận khoa học, tạp chí, hội thảo,, tác giả sử dụng phương pháp điều tra,
khảo sát; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp chuyên gia.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Đội ngũ giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác tuyển
dụng, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên Học
viện Hành chính Quốc gia.
Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại Học
viện.
Dự kiến những đóng góp của luận văn

2


3
Phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên và những yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng.

Qua phân tích sẽ đưa ra một số các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên.

3


4

Chương I
Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên học viện hành chính
quốc gia
1.1 Những lý luận chung về chất lượng sản phẩm và quản lý
chất lượng sản phẩm:

Thuật ngữ "chất lượng" có nhiều quan điểm khác nhau trong cách tiếp
cận và đà đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau:
Theo đạo từ điển Tiếng Việt do nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ban
hành năm 1999 xác định: Chất lượng là phạm trù tiết học, biểu thị những
thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của
sự vật, phân biệt nó với các sự vật khác; chất lượng là đặc tính khách quan
của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái
liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng
thể, bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Sự vật khi vẫn còn là
bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo
theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật luôn gắn liền
với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định
ấy. Mỗi sự bật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng.
Như vậy, định nghĩa nêu trong từ điển trên chưa nói đến "Khả năng
thỏa mÃn nhu cầu"; một điều cực kỳ quan trọng mà các nhà quản lý rất quan

tâm. Theo J.M.Juran (Mỹ): Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công
dụng. Để đạt chất lượng cần thiết phải quan tâm đến ba vấn đề: Tổ chức,
truyền thông và điều phối. Cả ba vấn đề này đều liên quan đến nhân tố con
người. Để đảm bảo chất lượng hệ thống kiểm tra, kiểm soát chất lượng phải
được mở rộng tới các nhà cung øng.

4


5
Theo PhiLip B.Grosby: Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu
hay đặc tính nhất định.
Theo BillConWay (Mỹ): [Chất lượng phụ thuộc vào cách thức quản lý
đúng đắn. Muốn đạt được chất lượng cần phải cải tiến chất lượng ở tất cả các
khâu của quy trình]. Để cải tiến chất lượng quy trình phụ thuộc rất nhiều yếu
tố: con người.
Theo W. Edwards Deming (Mỹ): [Chất lượng là mức độ dự báo được
về đồ đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường].
Chất lượng đạt được cần thiết phải có sự tham gia của toàn thể nhân viên, tuy
nhiên lÃnh đạo chịu trách nhiệm 90% các vấn đề về chất lượng.
Theo KaoruIshikawa (Nhật Bản): [Chất lượng là sự thỏa mÃn nhu cầu
với chi phí thấp nhất]. Chất lượng cơ bản phải dự trên cơ sở là được đào tạo,
huấn luyện và giáo dục thường xuyên. Chính vậy trách nhiệm về chất lượng
phụ thuộc 80%-85% vào ban lÃnh đạo.
Tóm lại: Khi bàn về chất lượng chúng ta đứng trước một vấn đề thực tế
về con người. Toàn bộ khái niệm về chất lượng nêu trên đều dựa trên quan
niệm về con người - Con người là nhân tố quyết định. Theo chúng tôi, các tổ
chức tiêu chuẩn quốc tế ISO đưa ra định nghĩa trong ISO 9000: 2000 khá
hợp lý: "Chất lượng là một tập hợp các tính chất và đặc trưng của một thực
thể, tạo cho nó có khả năng thỏa mÃn những nhu cầu đà được nêu rõ hoặc

còn tiềm ẩn"
Định nghĩa này đà bác bỏ những quan niệm muốn đưa ra sự phân cấp
chát lượng (mức chất lượng) vào định nghĩa chất lượng, đồng thời cũng bác
bỏ những nhận thức cho rằng, nói đến chất lượng có nghĩa là nói đến cái tốt
đẹp, cái cao nhất, cái tốt nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất hoặc mua sản
phẩm là để bán cho người tiêu dùng. Chính vì vậy cần thiết phải nhìn nhận
chất lượng sản phẩm dưới quan điểm của người tiêu dùng.

5


6
Đứng trên góc độ người tiêu dùng, chất lượng sản phâm phải thể hiện
các khía cạnh sau:
- Chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, những đặc trung thể
hiện tính năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó.
- Chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng với chi phí. Người tiêu
dùng không dễ gì mua một sản phẩm với bất kỳ giá nào.
- Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện tiêu dùng cụ
thể của từng người, từng địa phương Phong tục tập quán của một cộng
đồng có thể phủ định hoàn toàn những thứ mà thông thường cho là "có chất
lượng".
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một định nghĩa chất lượng sản
phẩm như sau: "Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những chỉ tiêu, những
đặc trưng của sản phẩm thể hiện mức thỏa mÃn những nhu cầu trong
những điều kiện tiêu dùng xác định".
Về mặt định lượng, chất lượng sản phẩm cũng có thể được biểu thị,
tính toán bằng công thức (số 1.1)
Q= Lnc Kkh


(1.1)

Trong đó:
Lnc: Lượng nhu cầu mà sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mÃn cho người
tiêu dùng ( là sự hoàn thiện của sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả thu được từ
các hoạt động, các quá trình).
Kkh: Kỳ vọng của khách hàng (các yêu cầu cụ thể, các thỏa thuận
trong đơn đặt hàng, các tiêu chuẩn được áp dụng hoặc điểm cao nhất trong
các thang đánh giá)
Khi Q=1, có nghĩa là các kỳ vọng, mong muốn của khách hàng được
đáp ứng và thỏa mÃn hoàn toàn. Đây là tình huống lý tưởng nhất và lúc đó
sản phẩm mới được coi là chất lượng cao.

6


7
Từ những quan niệm trên, có thể thấy rằng "Chất lượng sản phẩm" không
chỉ là việc thỏa mÃn một quy cách kỹ thuật hay một yêu cầu cụ thể nào đó, mà có
nghĩa rộng hơn rất nhiều, đó là sự thỏa mÃn những mong muốn của khách hàng.
Chất lượng không phải là một hiện tượng hoặc tình trạng của sản xuất
do một người, một bộ phận tạo ra, mà kết quả của một chuỗi những hoạt
động có liên quan đến nhau trong toàn bộ quá trình, từ khâu nghiên cứu thiết
kế, cung ứng, sản xuất đến các dịch vụ bán hàng để thỏa mÃn khách
hàng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Vì vậy cần phải có biện pháp
quản lý cã tÝnh hƯ thèng ®ång bé trong mét tỉ chøc.
Theo TCVN ISO - 9000:2000: "Quản lý chất lượng là tập hợp những
hoạt động có chức năng quản lý chung nhằm xác định chính sách chất
lượng, mục tiêu và trách nhiệm, thực hiện chúng thông qua các biện pháp

như lập kế hoạch kiểm soát chất lượng, bảo đảm chất lượng và cải tiến
chất lượng trong khuôn khổ hệ thống chất lượng"
Trong tiêu chuẩn này cần nhấn mạnh rằng:
- Quản lý chất lượng là quản lý toàn diện, đồng bộ các yếu tố và các
hoạt động thành phần tạo ra sản phẩm.
- Quản lý chất lượng là trách nhiệm của tất cả các cấp quản lý nhưng
phải được lÃnh đạo cao nhất chỉ đạo. Việc thực hiện công tác quản lý chất
lượng liên quan đến mọi thành viên trong tổ chức.
- Trong quản lý chất lượng cần phải xem xét đến khía cạnh kinh tế.
Để đạt được mục tiêu trên, doanh nghiệp cần tổ chức sao cho các nhân
tố kỹ thuật, quản trị và con người có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và
dịch vụ đều đặt dưới sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
Quản trị chất lượng được nhìn nhận một cách toàn diện trên cơ sở
quản trị chất lượng công việc ở từng giai đoạn, từng người từ maketting, thiết
kế, sản xuất, phân phối, đến những dịch vụ sau bán hàng Quá trình đó
được mô phỏng trong vòng tròn chất lượng (Xem hình 1.1).

7


8
2. Nghiên cứu thiết kế,
triển khai sản xuất
sản phẩm

1. Nghiên cøu
thÞ tr­êng

3. Cung cÊp
vËt t­ kü tht


11. Thanh lý
sau sư dụng

Khách hàng/
Nhà sản suất/
Người tiêu dùng Người cung
ứng

10. Dịch vụ
bảo dưỡng

4. Chuẩn bị
triển khai

5. Sản xuất
9. Lắp ráp
vận hành
8. Bán và phân
phối

6. Thử nghiệm,
Kiểm tra
7. Bao gói,
dự trữ

Hình 1.1: Vòng tròn chất lượng ISO 9001 và TCVN 5204

Vòng tròn chất lượng ISO 9001 và TCVN5204 được chia thành hai
phân hệ: Phân hệ sản xuất và phân hệ tiêu dùng. Vòng tròn chất lượng mang

tính định hướng, phản ánh các hoạt động có ảnh hưởng đến quá trình hình
thành chất lượng sản phẩm và để đảm bảo chất lượng, hệ thống quản lý chất
lượng được bao trùm lên toàn bộ các hoạt động đó.
Vì vậy, có thể hình dung: Quản lý chất lượng sản phẩm là một hệ
thống khép kín, đi từ thị trường rồi lại trở về thị trường và được lặp lại nhiều
lần, lần sau hoàn hảo hơn lần trước. Trong suốt quá trình không ngừng được
cải tiến, chất lượng liên tục được nâng cao, nhằm đạt hiệu quả ngày càng
cao.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng s¶n phÈm:

8


9
Chất lượng sản phẩm là vấn đề tổng hợp, là kết quả của một quá trình
từ sản xuất đến tiêu dùng và cả sau khi tiêu dùng nữa. Do đó, có thể nói nó
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, ®iỊu kiƯn liªn quan trong st chu kú sèng
cđa nã. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến chất lượng sản
phẩm lại khác nhau. Theo quan điểm quản lý và thực tiễn sản xuất kinh
doanh, có thể thấy chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào hai nhóm yếu tố
chính: nhóm yếu tố thuộc tầm vĩ mô và nhóm yếu tố thuộc tầm vi mô.
Nếu xét về quan hệ sản xuất thì chất lượng sản phẩm phụ thuộc chặt
chẽ vào các yếu tố thuộc tầm vĩ mô sau:
1. Nhu cầu của nền kinh tế:
Bất kỳ ở trình độ sản xuất nào, chất lượng sản phẩm bao giờ cũng bị
ràng buộc chi phối bởi hoàn cảnh, điều kiện và nhu cầu cụ thể của nền kinh
tế:
* Phụ thuộc vào đòi hỏi của thị trường: Nhu cầu của thị trường thế
nào? những đòi hỏi về đặc trưng kỹ thuật, điều kiện cung ứng về mặt chất
lượng và số lượng ra sao? Nghiên cứu, nhận biết nhạy cảm thường xuyên

với thị trường để định hướng cho các chính sách chất lượng trong hiện tại và
tương lai là một nhiệm vụ quan trọng khi xây dựng chiến lược phát triển sản
xuất hướng về thị trường.
* Trình độ phát triển của nền kinh tế, nền sản xuất: Chất lượng sản
phẩm là nhu cầu nội tại của bản thân sản xuất, cho nên trình độ chất lượng
sản phẩm phải phù hợp với khả năng cho phép và sự phát triển chung của
toàn bộ nền kinh tế. Logic của vấn đề ở đây là: Muốn nâng cao chất lượng
sản phẩm phải phát triển kinh tế, nâng cao trình độ dân trí, trình độ sản
xuất
* Các chính sách kinh tế: Chất lượng sản phẩm chịu tác động chặt chẽ
vào các chính sách kinh tế như: chính sách hướng đầu tư, chính sách phát

9


10
triển ngành, chủng loại sản phẩm, chính sách thuế khoá, các quy định về
xuất nhập khẩu, chính sách đối ngoại
* Chính sách giá cả: Cho phép doanh nghiệp xác định đúng giá trị sản
phẩm của mình trên thương trường. Dựa vào hệ thống giá cả, doanh nghiệp
có thể xây dựng các chiến lược cạnh tranh và tìm mọi cách nâng cao chất
lượng sản phẩm mà không sợ bị chèn ép giá cả.
* Chính sách đầu tư: Quyết định quy mô và hướng phát triển sản xuất
dựa vào chính sách đầu tư cho công nghệ, cho đào tạo nhằm nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Như vậy, có thể nói các chính sách kinh tế đóng vai trò rất quan
trọng trong xây dựng chất lượng sản xuất kinh doanh dài hạn, việc bình ổn
và phát triển sản xuất, chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế.
2. Sự phát triển khoa học kỹ thuật:
Chất lượng của bất kỳ sản phẩm nào cũng gắn liền và quyết định bởi

sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là việc ứng dụng những thành
tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Chu kỳ công nghệ ngày một ngắn đi, sản
phẩm sản xuất ra ngày càng có nhiều tiện ích và những điều kiện tối ưu. Và
cũng chính vì vậy mà những chuẩn mực về chất lượng cũng thường xuyên trở
nên lạc hậu. Mặt khác người tiêu dùng không bao giờ thỏa mÃn mức chất
lượng hiện tại mà luôn luôn có xu hướng cao hơn.
Do vậy, làm chủ được khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện để ứng dụng
một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất những thành tựu khoa học kỹ thuật vào
sản xuất là vấn đề quyết định đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
3. Hiệu lực của cơ chế quản lý:
Hiệu lực của cơ chế quản lý là đòn bảy quan trọng trong việc quản lý
chất lượng sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm
bảo uy tín và quyền lợi chính đáng của người sản xuất và cđa ng­êi tiªu
dïng.

10


11
Mặt khác, hiệu lực quản lý của Nhà nước còn bảo đảm sự bình đẳng
trong sản xuất kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp, giữa khu vực
kinh tế Nhµ n­íc, khu vùc kinh tÕ tËp thĨ, khu vùc kinh tế tư nhân, các nhà
sản xuất trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài.
4. Những yếu tố về văn hóa, truyền thống, thói quen tiêu dùng:
" Chất lượng sản phẩm" là sự đáp ứng, thỏa mÃn những nhu cầu xác định
trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; do đó quan niệm về tính hữu ích
mà sản phẩm mang lại cho mỗi người, mỗi địa phương, mỗi một dân tộc
cũng khác nhau. Mỗi sản phẩm ở nơi này được coi là chấp nhận được, nhưng
ở nơi khác lại không thể chấp nhận được đó là do sự khác nhau về truyền
thống văn hóa, phong tục tạp quán

Chính vì vậy, khi thâm nhập thị trường, các doanh nghiệp cần phải
quan tâm nghiên cứu, điều tra nhu cầu sở thích, tìm hiểu văn hóa truyền
thống dân tộc, phong tục tập quán, thói quen của nơi mà mình sẽ đến làm
ăn. Để từ đó có thể đưa ra chính sách chất lượng sản phẩm phù hợp.
Trong phạm vi một doanh nghiệp, chúng ta đặc biệt chú ý đến 4 yếu
tố cơ bản thuộc tầm vĩ mô ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, được biểu
thị bằng quy tắc 4M (xem hình 1.2).
(MATERLALS)
nguyên vật liệu
năng lượng

(MEN)

LÃnh đạo, CBCNV
người tiêu dùng

(MACHINES)
Thiết bị-kỹ
thuật công
nghệ

Chất
lượng sản

phẩm

(METHODS)
Phương pháp
quản lý
Hình 1.2 Quy tắc 4M ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm


11


12

1. MEN- Con người:
Bao gồm cán bộ lÃnh đạo các cấp, công nhân viên trong đơn vị và
người tiêu dùng. Sự hiểu biết và tinh thần trách nhiệm của mọi người trong
hệ thống sẽ quyết định rất lớn đến hình thành chất lượng sản phẩm.
Đối với cán bộ lÃnh đạo các cấp, cần có nhận thưc mới về việc nâng
cao chất lượng sản phẩm, để có những chủ trương, chính sách đúng đắn về
chất lượng sản phẩm.
Đối với cán bộ công nhân viên, phải có nhận thức đúng đắn, coi việc
nâng cao chất lượng sản phẩm là trách nhiệm, vinh dự, là sự sống còn, là
quyền lợi thiết thân của mỗi người và của cả doanh nghiệp - xà hội.
2. Methods- Phương pháp quản lý:
Có các yếu tố đầu vào tốt, nhưng không biết hoặc trình độ tổ chức lao
động, tổ chức sản xuất, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, tổ chức đảm bảo chất
lượng, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, vận chuyển, dự trữ, bảo quản, bảo hành sản
phẩm mà thấp; hay nói cách khác đi là không biết quả lý sản xuất- kinh
doanh thì không thể nào nâng cao được chất lượng sản phẩm.
3. Materials- Nguyên vật liệu:
Đây là yếu tố cơ bản đầu vào, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng
sản phẩm. Muốn có những sản phẩm đạt chất lượng theo yêu cầu, điều kiện
trước tiên nguyên vật liệu phải đảm bảo những yêu cầu chất lượng; mặt khác
cũng phải đảm bảo cung cấp đủ số lượng, đúng tiến độ, thì mới tạo điều kiện
cho đơn vị thực hiện đúng kế hoạch chất lượng.
4.Machines- Thiết bị, kỹ thuật, công nghệ:
Nếu yếu tố nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản quyết định tính chất và

chất lượng sản phẩm thì yếu tố thiết bị, kỹ thuật, công nghệ lại có tầm quan
trọng đặc biệt, có tác dụng quyết định việc hình thành chất lượng sản phẩm.
Ngoài yếu tố kỹ thuật - công nghệ, phải chú ý đến việc lựa chọn thiết bị
phù hợp. Kinh nghiệm cho thấy: Kỹ thuật - công nghệ được đổi mới; nhưng
12


13
thiết bị cũ kỹ lạc hậu thì không thể nâng cao được chất lượng sản phẩm. Nói
khác đi, nhóm yếu tố kỹ thuật, công nghệ, thiết bị có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, không những chỉ góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mà
còn tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, thỏa mÃn nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường.
Như vậy, sự phân chia các yếu tố như trên chỉ là quy ước. Tất cả 4 yếu
tố đó đều có quan hệ hữu cơ với nhau trong một thể thống nhất. Trong đó
yếu tố con người được xem là quan trọng nhất.
Tóm lại: Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, chất lượng
đóng vai trò quan trọng, tạo uy thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Chất lượng
được thiết kế trong suốt quá trình tạo ra sản phẩm, sao cho tiết kiệm nhất, mà
vẫn đáp ứng nhiều nhất đòi hỏi của người tiêu dùng. Trên cơ sở một nền tảng
là chất lượng của yếu tố con người và cuộc sống. (Được biểu thị trên hình
1.3).

13


14

Chất lượng sản phẩm


Chất lượng tiêu dùng

Chất lượng sản xuất

Chất lượng cung ứng

Chất lượng thiết kế

Chất lượng Marketing

Chất lượng quá trình

Chất lượng con người - chất lượng cuộc sống

Hình 1.3: Cơ sở hình thành chất lượng sản phẩm
1.2. Chất lượng đào tạo: các yếu tố tác động và phương pháp
đánh giá

Hiện nay, việc đảm bảo chất lượng đào tạo Đại học đà trở thành mối
quan tâm lớn của xà hội và các cơ sở đào tạo. Muốn đề ra được những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo Đại học trước hết ta cần hiểu về đào
tạo, chất lượng đào tạo và quản lý chất lượng đào tạo đại häc nh­ thÕ nµo?

14


15
Trong thực tế có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa về Giáo dục và đào
tạo. Giáo dục là phạm trï cã tÝnh chÊt vÜnh h»ng, nã bao gåm c¸c hoạt động

nhằm tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của mộ đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất, năng
lực như yêu cầu đề ra.
Như vậy, "Giáo dục" là một khái niệm cơ bản thường được dùng
trong khoa học và thực tiễn đời sống xà hội. Theo quan điểm chung nhất:
"Giáo dục là hoạt động chuyển giao tri thức, các giá trị, thái độ và kinh
nghiệm hoạt ®éng thùc tiƠn cđa thÕ hƯ tr­íc cho thÕ hƯ sau; nhằm phát triển
và hoàn thiện nhân cách cá nhânh - xà hội, bảo đảm sự tồn tại và phát triển
xà hội".
Trong quá trình phát triển, khái niệm "Giáo dục" được phân nhỏ về
các khái niệm như: Giáo dục Học viện; giáo dục gia đình, giáo dục xà hội
hoặc phân chia thành các nội dung giáo dục cụ thể như: giáo dục phổ thông,
giáo dục Đại học, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất
* Sản phẩm của đào tạo là dạng sản phẩm đặc biệt. Đó là "Đào tạo ra
những con người mới, có tài, có đức và có sức khỏe tốt".
Xuất phát từ khái niệm "Chất lượng"; "Chất lượng sản phẩm"; "Sản
phẩm đào tạo" được trình bày ở trên; chúng ta có thể thống nhất cách hiểu:
"Chất lượng của một cơ sở Giáo dục-Đào tạo (Trường học) là: Đào tạo những
học viên - sinh viên thỏa mÃn một cách đầy đủ nhất nhu cầu nguồn lực con
người của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước; thể hiện ở chỗ: học viên, sinh
viên ra trường có được việc làm đúng với ngành nghề được đào tạo và phát
huy được vốn tích lũy sau những năm học tập tại trường". Hay nói một cách
đơn giản, chất lượng đào tạo phải đạt được hai yêu cầu:
- Đạt được tiêu chuẩn do Học viện đặt ra (thông qua kết quả là điểm
học tËp vµ rÌn lun);

15


16

- Phù hợp, đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng và được xà hội
thừa nhận.
ở Việt Nam, đánh giá chất lượng đào tạo cũng chưa có một tiêu chÝ
thèng nhÊt. Nh­ng nhiỊu ý kiÕn cho r»ng quan ®iĨm đánh giá chất lượng đào
tạo phụ thuộc vào mỗi thời kỳ phát triển có tính chất bước ngoặt của đất
nước.
Thời kỳ bao cấp: Việc đào tạo do chỉ tiêu Nhà nước phân bổ. Nhà
nước là người đặt hàng, là người tuyển chọn, đồng thời là người phân phối
sản phẩm đào tạo (Phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh, chỉ tiêu học viên tốt nghiệp
cho các cơ quan địa phương). Trong điều kiện như vậy, việc đánh giá chất
lượng đào tạo chủ yếu căn cứ vào kết quả học tập của sinh viên do Thầy cô
giáo chấm điểm. Học viện và xà hội thừa nhận đánh gía của thầy cô dùng để
đánh giá chất lượng học viên khi ra trường.
Thời kỳ chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước theo định hướng xà hội chủ nghĩa: Nhà nước thừa nhận nền kinh tế
nhiều thành phần, quan điểm đánh giá chất lượng đào tạo phải theo một
chuẩn mực khác. Nếu như trước đây, đào tạo cho Nhà nước đồng nghĩa với
đào tạo cho xà hội, thì bây giờ đào tạo cho xà hội có phạm vi rộng hơn. Do
vậy, việc đánh giá chất lượng đào tạo có sự thay đổi, kết quả thi cử chỉ là một
căn cứ để đánh giá chất lượng đào tạo. khi học viên ra trường được tự tìm nơi
làm việc. Còn cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tuyển dụng thì yêu cầu học
viên phải đáp ứng được tiêu chuẩn theo chính sách và cơ chế quản lý riêng
của đơn vị. Cho nên, chất lượng đào tạo còn phải chấp nhận thực tế với các
tiêu chí khác nhau của các nhà tuyển dụng. Nếu học viên do trường đào tạo
được xà hội thừa nhận thì chất lượng sản phẩm đào tạo cao, nếu không thì
ngược lại.
Từ lý luận trên, ở Việt Nam ta có thể hiểu: [Chất lượng đào tạo là chỉ
tiêu tổng hợp được phản ánh ở kết quả học tập - rèn lun cđa häc viªn, sinh

16



17
viên khi còn ngồi trên ghế Học viện có sự chấp nhận của thị trường đối với
học viên - sinh viên sau khi tốt nghiệp].
Như vậy, quan điểm về chất lượng đào tạo trong thời kỳ mới hoàn toàn
phù hợp với mục tiêu tổng quát của hệ thống quản trị chất lượng ISO-9000 là
"Nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng để thỏa mÃn mọi nhu
cầu khách hàng". Trong đó khách hàng bên ngoài là các tổ chøc, c¬ quan
(X· héi) sư dơng kiÕn thøc cđa häc viên - sinh viên được đào tạo để đáp ứng
yêu cầu công việc của đơn vị mình một cách hữu hiệu.
1.2.1. Các yếu tố tác động đến chất lượng đào tạo:
Chất lượng "Sản phẩm đào tạo", cũng như chất lượng của một "Sản
phẩm bình thường" đều chịu ảnh hưởng của hai nhóm yếu tố chính: yếu tố
thuộc tầm vĩ mô và nhóm yếu tố thuộc tầm vi mô như đà trình bày phần trên.
Song "Sản phẩm đào tạo" là dạng "Sản phẩm đặc biệt". Vì vậy, chất lượng
của nó cũng chịu sự tác động của các yếu tố có tính chất đặc biệt. Chất lượng
đào tạo ở trường học cụ thể phụ thuộc vào động cơ học tập, trình độ của lực
lượng đào tạo, điều kiện và môi trường đào tạo có thể biểu diễn dưới dạng
công thức sau:
Y = F( X1, X2,X3,).
Trong đó:
Y: Chất lượng đào tạo
X1: Động cơ học tập.
X2: Trình độ của lực lượng đào tạo.
X3: Điều kiện và môi trường đào tạo.
Muốn đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, các cơ sở GĐ - ĐT cần
phải tác động vào các yếu tố cấu thành (người dậy, người học, quá trình đào
tạo) thông qua những tham số X1, X2, X3 trong một cơ chế đào tạo, cơ
chế sử dụng khoa học hợp lý.


17


18
Theo nguyên tắc của quản lý chất lượng hiện đại, toàn bộ các hoạt
động của tổ chức được thực hiện qua các quá trình. Một quá trình có đầu vào
là điều kiện, đầu ra là kết quả và sự biến đổi của quá trình làm cho giá trị sản
phẩm được gia tăng.
Trong trường Đại học, từ khi tiếp nhận học viên vào học đến khi ra trường
gồm rất nhiều quá trình khác nhau: Quá trình tuyển chọn đầu vào (tuyển sinh),
quá trình xây dựng mục tiêu đào tạo, thiết kế nội dung chương trình đào tạo, quá
trình dạy và học, quá trình kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học viên.
Như vậy, để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo là quá trình tổng
hợp rộng lớn của nhiều quá trình nhỏ; trong đó bao gồm việc xem xét các
yếu tố đầu vào, quá trình đào tạo và yếu tố đầu ra. Nội dung các yếu tố này
lần lượt được trình bày ở mục sau đây:
1.2.1.1 Các yếu tố đầu vào bao gồm:
a. Mục tiêu đào tạo:
Trong tình hình hiện nay khi chưa có một cơ quan chuyên trách đảm
nhiệm. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, một trong những công việc đầu
tiên quan trọng là Học viện phải xây dựng mục tiêu đào tạo. Nghị quyết 142
của Bộ Chính trị nêu: "Đối với từng loại cán bộ cần được đào tạo, phải xác
định rõ mục tiêu cần đạt được, nhiệm vụ và vị trí công tác của họ sau này".
Mục tiêu đào tạo là mô hình về "Mẫu người" của một ngành học cụ thể
Học viện cần đào tạo. Mục tiêu đào tạo được thông qua, trở thành quy định bắt
buộc phải phấn đấu để đạt được của công tác đào tạo. nó trở thành cơ sở pháp lý
của Nhà nước và Học viện thực hiện quản lý chất lượng và kết quả đào tạo.
Mục tiêu đào tạo là thước đo chính xác nhất kết quả nỗ lực của các bộ
phận, cá nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình; đồng thời đó cũng là

thước đo đúng đắn đánh giá sự cố gắng học tập, rèn luyện của học viên trong
quá trình được đào tạo tại trường. Hay nói khác đi, mục tiêu đào tạo là cái
đích, có tác dụng chi phối toàn bộ nội dung, chương trình đào tạo, phương
pháp đào tạo trên cơ sở mục tiêu đào tạo chung phải xác định ®­ỵc mơc
18


19
tiêu cho từng ngành một cách cụ thể, nhất là sau khi tốt nghiệp học viên-sinh
viên sẽ làm việc tại đâu và làm gì? Có như vậy, mới đảm bảo mục tiêu đào
tạo phù hợp với khả năng của Học viện và yêu cầu của thị trường.
b. Chương trình đào tạo:
Cái cốt lõi của mỗi quy trình đào tạo là Chương trình đào tạo. Chương
trình đào tạo phải được xây dựng chi tiết cho từng ngành học, số lượng và tên
các môn học, nội dung chương trình và thời gian cho từng môn học và cho cả
khóa học. Như vậy, chương trình đào tạo là văn bản mang tính cương lĩnh
cho quá trình đào tạo, hay nói cách khác kết quả quá trình đào tạo phụ thuộc
rất nhiều vào nội dung chương trình đào tạo. Nghĩa là sau mỗi khóa học,
người học được trang bị những kiến thức, kỹ năng gì hoặc hình thành những
phẩm chất gì? Vì vậy nội dung chương trình đào tạo phải đảm bảo yêu cầu
về tính thiết thực, tính hệ thống, tính hiện đại và phải phù hợp với mục tiêu
đào tạo, phương pháp đào tạo thì mới thực sự góp phần hình thành lên chất
lượng sản phẩm đào tạo. Các nội dung nói trên thường được sắp xếp thành
các môn học, mỗi môn học thường tương ứng với một môn khoa học.
Đối với Học viƯn Hµnh chÝnh Qc gia cã thĨ chia lµm hai đối tượng
chính mà Học viện đang đầu tư vào đó là:


Chương trình đào tạo cử nhân hành chính.




Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đà có kinh nghiệm
và vị trí quan trọng trong các cơ quan hành chính.

Các môn học ở Trường Đại học thường chia thành:
* Các môn cơ bản: Là những môn học mà tất cả hay hầu hết các ngành
học đều phải học và thường với nội dung, khối lượng như nhau hay cơ bản
như nhau. Những môn học này có tác dụng hình thành ở người học các hiểu
biết, năng lực và phẩm chất cho mọi người có trình độ đại học, bất kể người
đó làm công tác gì.

19


20
* Các môn cơ sở: Là những môn cung cấp những nội dung là nền tảng
khoa học cho mục tiêu đào tạo chuyên ngành.
* Các môn học chuyên ngành: Là những môn cung cấp các nội dung
trực tiếp hình thành những hiểu biết, năng lực và phẩm chất thuộc về các
công việc chuyên môn của những người tốt nghiệp các trường Đại học
Bên cạnh đó đối với mỗi hệ có chương trình đào tạo phù hợp. Với lớp cử
nhân thì đảm bảo cho các em nắm chắc kiến thức cơ bản và theo kịp sự thay đổi
của tình hình thực tế. Còn đối với hệ đào tạo, bồi dưỡng vừa giúp họ nhận thức
lại, vừa bổ xung cái mới, vừa giúp họ vận dụng phù hợp với địa phương mình.
c. Tài liệu giảng dạy: Giáo trình, bải giảng và sách tham khảo:
Giáo trình, bài giảng là những tài liệu cơ bản nhất phục vụ cho giảng
dạy và học tập; đòi hỏi phải xây dựng hệ thống giáo trình phù hợp với mục
tiêu và chương trình đào tạo.
Ngày nay, cơ chế quản lý kinh tế đà thay đổi, khoa học và công nghệ

thông tin phát triển với tốc độ rất nhanh, môi trường kinh doanh không ổn
định Tất cả những điều kiện đó làm cho việc quản lý điều hành doanh
nghiệp càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Chính vì vậy việc viết giáo
trình, bài giảng lựa chọn tài liệu tham khảo dùng trong quá trình giảng dạy,
nghiên cứu vµ häc tËp lµ mét trong yÕu tè quan träng để hình thành nên chất
lượng và hiệu quả đào tạo. Muốn vậy, yêu cầu đầu tiên là phải có đủ số giáo
tình, tài liệu hướng dẫn giảng dạy, tham khảo, bài tập cho các môn học,
ngành học. Nội dung giáo trình cần đảm bảo kiến thức cơ bản, phù hợp với
đối tượng, không xa rời thực tế và có sự thống nhất về tư tưởng khoa học.
d. Kế hoạch và chỉ tiêu tuyển sinh (Người học)
Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp nguyên
liệu (người học), cho người sản xuất (cơ sở đào tạo). "Học viên là nguyên
liệu và đầu vào của Giáo dục- Đào tạo"; cho nên họ cũng là điều kiện tiên
quyết đến chất lượng đào tạo. Bởi lẽ "Ngời học, học viên- sinh viên" vừa là

20


21
đối tượng, vừa là kết quả của đào tạo. Do đó, có đủ về mặt số lượng, có đảm
bảo về mặt chất lượng (tiêu chuẩn nhập học) thì mới tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà "Đào tạo" thực hiện được kế hoạch chất lượng.
Chất lượng đầu vào của học viên được xác đinh thông qua khâu tuyển
sinh bằng kết quả thi tuyển. Thí sinh muốn được vào trung học phải đạt được
những điểm số nhất định. Tuyển sinh Đại học chính là "Đảm bảo sản phẩm
đầu vào trong hợp đồng" tương đương với điều: Xem xét hợp đồng của tiêu
chuẩn ISO 9001-1994.
e. Đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên:
Đối với Giáo dục- Đào tạo, đội ngũ giảng viên là lực lượng chính thực
hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Điều 14 Luật Giáo dục ở

nước ta ghi nhận: "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm Giáo
dục-Đào tạo".
Để Giáo dục- Đào tạo có thể đáp ứng dược yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, chúng đòi hỏi giảng viên và cán bộ
quản lý không phải chỉ có khả năng mà cần có lòng nhiệt tình, phẩm chất
đạo đức, phù hợp với tính chất của xà hội. Muốn vậy, đòi hỏi từ khâu ban
đầu, việc lựa chọn đội ngũ giảng viên đến việc đưa ra các chính sách đào tạo
liên tục các giảng viên, cũng như các cán bộ quản lý đào tạo. Đặc biệt cần
tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, hợp lý về
cơ cấu, có phẩm chất đạo đức tốt, tư tưởng vững vàng, có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và năng lực sư phạm giỏi. Đây cũng là nhiệm vụ cần thiết
của ngành Giáo dục - Đào tạo nói chung và của mỗi Học viện nói riêng trong
giai đoạn hiện nay.
Chất lượng đội ngũ giảng viên là sự phản ánh trực tiếp của chất lượng
giáo dục bởi lẽ: "Giảng viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục"
f. Kinh phí đầu tư:
Mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế là vấn đề rất nhạy cảm. Thông
thường chất lượng đào tạo có quan hệ nhất định với chi phí đầu tư cho đào
21


22
tạo. Nhưng điều này không có nghĩa là chi phí càng cao thì chất lượng càng
cao. Do vậy để thực hiện quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu tạo điều
kiện cho giáo dục đi trước, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế-xà hội;
Đảng phải có trách nhiệm xây dựng chiến lược kế hoạch phát triển giáo dục đào tạo có chính sách phát huy hiệu quả đầu tư của nhà nước, huy động sự
đóng góp của toàn xà hộ và phát huy tiềm năng sẵn có của ngành giáo dụcđào tạo, đồng thời Đảng, Nhà nước cần quan tâm thực hiện chính sách ưu
tiên, ưu đÃi đối với giao dục; đặc biệt là chính sách đầu tư vào tiền lương;
luôn luôn phải coi giáo dục- đào tạo là một nội dung quan trọng nhất của sự
nghiệp phát triển tổng thể.

Kinh phí đầu tư là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ
sở đào tạo (Học viện) tổ chức thực hiện các biện pháp mạnh mẽ như: Xây
dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy học, cải tiến nội dung
chương trình, đổi mới phương pháp đào tạo Từ đó mới có điều kiện để
thực hiện kế hoạch chất lượng và nâng cao chất lượng đào tạo.
g. Xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật:
Ngày nay công nghệ dạy học hiện đại đà trở thành một xu hướng trong
công cuộc cải cách giáo dục. Để thực hiện được phương pháp giảng dạy mới
theo hướng tích cực hóa quá trình dạy học "Lấy học viên làm trung tâm", thì
các điều kiện vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy và học phải tương xứng. Nói
khác đi việc làm giàu cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy và học cũng là
vấn đề rất quan trọng; nó không chỉ góp phần hình thành lên chất lượng "Sản
phẩm" mà còn tạo ra nhiều "Sản phẩm" có chất lượng cao thỏa mÃn nhu cầu
ngày càng cao của các nhà sử dụng lao động.
Quản lý cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài chính cần chú ý đến các nội
dung sau đây:
* Hệ thống trường, lớp học: số lượng phòng học, kiểu cách, vị trí
phòng học ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng học tËp.

22


23
* Đảm bảo cho học viên những trang thiết bị phù hợp với yêu cầu đào
tạo. Khối ngành kinh tế không đòi hỏi trang bị nhiều máy móc, nhưng cần
các phương tiện để giảng dạy theo phương pháp hiện đại như: sử dụng máy
chiếu giảng, máy vi tính, Over hert, các mô hình thử nghiệm, mô hình thị
trường chứng khoán, trò chơi doanh nghiệp
*Thư viện của các trường chiếm vị trí hêt sức quan trọng trong quá
trình đào tạo có chất lượng. Những yếu tố xác định một thư viện tốt cho hoạt

động của Học viện là hệ thông sách giáo khoa, giáo trình đủ, cập nhật kiến
thức mới, số lượng sách báo, tạp chí phong phú. , phòng đọc rộng, thoáng
mát, thiết bị phương tiện tra cứu nhanh, hiện đại và phù hợp.
*Cần phát triển các công nghệ thông tin mới, đầu tư xây dựng các
trung tâm máy tính
* Ngoài số lượng và chất lượng của cơ sở hạ tầng cũng cần quan tâm
đến chất lượng của môi trường sống trong và ngoài trường. Môi trường sống
của học viên thông qua điều kiện vật chất, tinh thần giúp học viên phát triển
toàn diện: sinh hoạt câu lạc bộ, hoạt động thể dục thể thao, tham gia các
phong trào văn hãa nghƯ tht, tham gia qu¶n lý Häc viƯn…
1.2.1.2. Ỹu tố quá trình đào tạo:
Trong một quá trình đào tạo thì việc tổ chức giảng dạy, phương pháp
giảng dạy của thầy quy định trực tiếp phương pháp học và sau đó là chất
lượng của người học. Dạy và học là nội dung chính của yếu tố đào tạo. Việc
xây dựng cơ chế đánh giá, kiểm định, công nhận chất lượng đào tạo, thường
xuyên giám sát công tác giảng dạy, giải quyết vấn đề sư phạm, tìm hiểu các
vấn đề khó khăn trong học tập của học viên, là những công việc quan trọng
trong quá trình đào tạo và được nghiên cứu dưới đây:
a. Hoạt động giảng dậy của thầy:
Phương pháp giảng dạy trong lớp đào tạo cán bộ là một trong những
nhân tố quan trọng làm nên chất lượng và hiệu quả của công tác này. Nếu lựa

23


24
chọn được phương pháp giảng dạy phù hợp thì khuyến khích người học phát
huy được tính chủ động trong quá trình học tập; rèn luyện cho học viên, sinh
viên kỹ năng độc lập sáng tạo trong tư duy và trong hành động. Chuẩn bị
thiết thực cho họ tìm kiếm việc làm và việc mấu chốt nữa là giúp cho họ

tránh được sự thụ động bỡ ngỡ khi ra trường làm việc.
Ngày nay giáo dục Đại học đang phải đương đầu với khó khăn lớn
như: quy mô đào tạo tăng lên nhanh trong khi nguồn nhân lực không tăng
tương xứng, tình trạng phổ biến là lớp học đông người, khả năng truyền tải
kiến thức của giảng viên còn hạn chế. Điều này đòi hỏi giảng viên cần có nỗ
lực lớn để sáng tạo khắc phục; Trong đó giải pháp quan trọng là phương pháp
sư phạm nhằm lôi cuốn học viên tích cực, chủ động trong học tập và sử dụng
trang thiết bị hiện đại do công nghệ thông tin mới mang lại một cách hiệu
quả. Phương pháp sư phạm đòi hỏi người thầy trong quá trình dạy học phải
hết sức linh hoạt, biết áp dụng phương pháp giảng dạy thích hợp; Phải kết
hợp kiểu truyền thống (hình thức thông báo) với phương pháp nêu vấn đề (sử
dụng bài tập tình huống) và phương pháp nghiên cứu ( viết tiểu luận, làm bài
tập lớn).
b. Hoạt động học tập của học viên.
Học viện cần phổ biến cho học viên phương pháp học tập linh hoạt ở
bậc Đại học và chú ý nhiệm vụ của Học viện không chỉ cung cấp cho học
viên tổng số tri thức và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc sau khi tốt nghiệp,
mà còn dạy cho họ phương pháp làm việc và tự học suốt đời. Hoạt động của
học viên đòi hỏi phải quản lý tốt các khâu sau đây:
- Tổ chức cho học viên học tập trên lớp thật chất lượng và hiệu quả.
- Phối hợp quản lý chặt chẽ giờ tự học của họ và định hướng theo
nhóm bạn; nhằm góp phần đào tạo phẩm chất nhân văn cũng như năng lực tư
duy.
- Quản lý quy trình đào tạo bằng các văn bản quy phạm pháp quy và
chế độ báo cáo kiểm tra giám sát với các yêu cầu sau:
24


×