Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.11 KB, 31 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC
KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP.
I/ Khái quát chung về tiền lương và các khoản trích theo lương.
1. khái niệm, bản chất , vai trò, nhiệm vụ của kế toán tiền lương.
1.1. khái niệm, bản chất của tiền lương.
Quá trình sản xuất diễn ra đòi hỏi phải tiêu dùng liên tục các yếu tố tư liệu sản
xuất, lao động, đối tượng lao động một cách thường xuyên. Các yếu tố này không
phải là vô cùng, vô tận nên phải tái tạo lại. Đối với tư liệu lao động và đối tượng
lao động thì tái tạo lại có nghĩa là mua sắm cái mới nhưng với sức lao động thì
khác. Sức lao động gắn liềm với hoạt động sống của con người đó là thể lực, trí lực
của con người. Bởi vậy muốn tái tạo sức lao động cần phải thông qua hoạt động
sống của con người, con người tiêu dùng một lượng vật chất nhất định, phần vật
chất này do người sử dụng lao động trả cho người lao động dưới hình thức hiện vật
hay giá trị và được gọi là tiền lương.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung, tiền lương được hưởng một cách thống nhất như
sau: “Về thực chất tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc
dân, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được nhà nước phân phối có kế hoạch, cho
công nhân viên sao cho phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi
người đã công hiến. Tiền lương phản ánh việc trả công cho công nhân viên chức
dựa theo nguyên tắc phân phối theo lao động.” Quan niệm này đã bác bỏ tiền
lương là giá trị sức lao động. Tiền lương mang một ý nghĩa tích cực tạo ra một sự
công bằng trong phân phối quốc dân.
Khi hệ thống XHCN sụp đổ, để tồn tại nước ta đã phải tiến hành một cuộc cải
cách toàn diện đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng. Cơ chế thị trường buộc chúng ta
phải có thay đổi về cơ bản. Để có được một nhận thức đúng về tiền lương, phù hợp
với cơ chế quản lý mới, khía niệm về tiền lương mới phải đáp ứng một số yêu cầu
sau:
- Coi sức lao động là hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất.
- Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động, nghĩa là giá cả của hàng hoá sức lao
động theo quản lý cung cầu, giá cả trên thị trường lao động.
- Tiền lương là bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao động, đồng thời là


một trong các yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Với ý nghĩa đó, “tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá trị
của yếu tố sức lao động mà người sử dụng (nhà nước, doanh nghiệp) Phải trả cho
người cung ứng sức lao động theo các nguyên tắc cung cầu, giá trị của thị trường
và pháp luật hiện hành của nhà nước”.
Như vậy, bản chất của tiền lương là giá cả sức lao động vì sức lao động thực
chất là một loại hàng háo đặc biệt. Chính vì sức lao động là hàng hoá mà mà giá cả
của nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh.
Vậy: “Tiền lương là số tiền thù lao phải trả cho người lao động theo số
lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp để tái sản xuất kinh doanh.”
Bên cạnh khái niệm về tiền lương thì có một loạt các khái niêm cùng với nó như
tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế, tiền lương tối thiểu…
Tiền lương danh nghĩa: được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động.Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động,
hiệu quả làm việc của người lao động, trình độ và kinh nghiệm công tác ngay trong
quá trình làm việc.
Tiền lương thực tế: là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần
thiết mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
1.2.Vai trò của hạch toán tiền lương
Nguồn lao động là một trong những nguồn lực của sản xuất, một chính sách
tiền lương đúng đắn hợp lý sẽ là động lực to lớn nhằm phát huy sức mạnh của nhân
tố con người trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Vì vậy, công tác tiền
lương phảI gắn liền với kết quả lao động để nhằm thúc đẩy và khuyến khích người
lao động có tay nghề hoàn thành tốt mọi công việc được giao. Tiền lương thích hợp
sẽ làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp hơn, phát huy khả năng sáng
tạo của họ trong việc cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả
công việc.
Tiền lương có tác dụng là đòn bẩy kinh tế thu hút mạnh mẽ nguồn nhân lực,
nâng cao trình độ nghiệp vụ, tăng năng suất lao động, gắn trách nhiệm cá nhân với

tập thể thông qua đó kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã
hội. Về phía người lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân mà lao
động một cách tích cực với chất lương ngày càng cao.
Trong các doanh nghiệp sản xuất ngày nay, tổ chức công tác kế toán tiền
lương giúp cho công tác quản lý lao động của doanh nghiệp đi vào nề nếp, tạo điều
kiện trả công đúng đắn. Khi đó sẽ tiết kiệm chi phí về lao động sống, góp phần hạ
giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống của
người lao động trong doanh nghiệp.
1.3. Nhiệm vụ kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Ghi chép, phản ánh, tổng hợp chính xác, đầy đủ kịp thời về số lượng, chất
lượng, thời gian và kết quả lao động.
Tính toán các khoản tiền lương, các khoản trợ cấp phải trả cho người lao động.
Kiểm tra việc sử dụng lao động, việc chấp hành chính sách chế độ lao động tiền
lương, trợ cấp BHXH, BHYT và việc sử dụng quỹ tiền lương, quỹ BHXH, quỹ
BHYT.
Tính toán và phân bổ các khoản chi phí tiền lương, BHXH vào chi phí sản
xuất kinh doanh theo từng đối tượng. Hướng dẫn kiểm tra các bộ phận trong doanh
nghiệp thực hiện đúng chế độ ghi chép ban đầu về lao động, tiền lương, BHXH,
BHYT, KPCĐ theo chế độ.
Lập bản báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương, phân
tích tình hình sử dụng lao động, quỹ tiền lương, quỹ BHXH, BHYT, đề xuất biện
pháp để khai thác hiệu quả tiềm năng lao động, tăng năng suất lao động ngăn ngừa
những vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm chính sách chế độ về lao động, tiền lương
và các khoản trích theo lương.
2. Các hình thức trả lương.
2.1. Hình thức trả lương theo thời gian
Hình thức trả lương theo thời gian: là hình thức mà tiền lương được xác định
trên cơ sở thời gian làm việc và trình độ kỹ thuật của người lao động. Hình thức
này áp dụng cho từng công việc ở các bộ phận mà quá trình sản xuất chủ yếu bằng
máy móc, những công việc đòi hỏi sự chính xác cao, hoặc nhưng công việc chưa

xây dựng được định mức lao động hoặc không thể xác định được…
Hình thức trả lương theo thời gian được chia làm hai hình thức nhỏ là trả
lương theo thời gian giản đơn và trả lương theo thời gian có thưởng.
- Trả lương theo thời gian giản đơn: đây là số tiền trả cho người lao động căn cứ
vào bậc lương và thời gian làm việc thực tế. Hình thức trả lương này không xét đến
thái độ và kết quả lao động, chế độ trả lương này chỉ áp dụng cho công việc không
thể định mức và tính toán chặt chẽ công việc.
Công thức tính: L
tt
= L
cb
ì T
Trong đó: L
tt
: là tiền lương thực tế mà người lao động nhận được .
L
cb
: là tiền lương cấp bậc tính theo thời gian thực tế.
T: là thời gian làm việc thực tế.
Có 4 loại hình thức trả lương theo thời gian giản đơn sau:
+ Lương tháng: là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng và được
áp dụng cho cán bộ công nhân viên làm việc ở bộ phận gián tiếp.
+ Lương tuần: là tiền lương trả cho 1 tuần làm việc được xác định trên cơ sở tiền
lương tháng nhân (x) với 12 tháng và chia (:) cho 52 tuần.
+ Lương ngày: là tiền lương trả cho một ngày làm việc và được xác định bằng
cách lấy tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng.
+ Lương giờ: là lương tính theo từng giờ làm việc và bằng lương của một ngày
chia cho số giờ tiêu chuẩn của Luật Lao Động (không quá 8 giờ/ngày)
- Trả lương theo thời gian có thưởng: hình thức này dựa trên sự kết hợp giữa tiền
lương trả theo thời gian giản đơn kết hợp với các chế độ tiền lương. Hình thức trả

lương này khắc phục được những nhược điểm của hình thức trả lương theo thời
gian giản đơn, xét đến thời gian lao động, trình độ tay nghề. Bên cạnh đó còn xét
tới ý thức trách nhiệm, tinh thần sáng tạo trong lao động.
Hình thức lương này được tính như sau:
L
t
= L
tt
+ T
t
Trong đó:
L
t
là tiền lương theo thời gian có thưởng.
L
tt
là tiền lương thực tế mà người lao động nhận được.
T
t
là tiền thưởng.
2.2. Tiền lương theo sản phẩm:
Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương theo số lượng và
chất lượng công việc đã hoàn thành. Đây là hình thức trả lương phù hợp với
nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng lao động và chất lượng lao
động; khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động góp phần tăng
thêm sản phẩm cho xã hội một cách hợp lý. Trong việc trả lương theo sản phẩm,
vấn đề quan trọng là phải xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật, để làm cơ sở
cho việc xây dựng đơn giá tiền lương đối với từng loại sản phẩm, từng công việc
một cách hợp lý.
Hình thức trả lương theo sản phẩm còn tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể ở từng

doanh nghiệp mà vận dụng theo từng hình thức cụ thể dưới đây:
- Trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế. Với hình thức này, tiền
lương phải trả cho người lao động được tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm
hoàn thành đúng qui cách , phẩm chất và đơn giá tiền lương sản phẩm đã qui định
không chịu một sự hạn chế nào. Đây là hình thức được các doanh nghiệp sử dụng
phổ biến để tính lương phải trả cho lao động trực tiếp.
- Trả lương theo sản phẩm gián tiếp: áp dụng để trả lương cho lao động gián
tiếp ở các bộ phận sản xuất như lao động làm nhiệm vụ vận chuyển vật liệu, thành
phẩm, bảo dưỡng máy móc thiết bị...tuy lao động của họ không trực tiếp tạo ra sản
phẩm, nhưng lại gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất lao động của lao động trực tiếp,
nên có thể căn cứ vào kết quả của lao động trực tiếp mà lao động gián tiếp phục vụ
để tính lương sản phẩm cho lao động gián tiếp.
- Trả lương theo sản phẩm có thưởng, có phạt.Theo hình thức này, ngoài
lương tính theo sản phẩm trực tiếp người lao động còn được thưởng trong sản xuất
như thưởng về chất lượng sản phẩm tốt, thưởng về tăng năng suất lao động, tiết
kiệm vật tư. Trong trường hợp người lao động làm ra sản phẩm hỏng, lãng phí vật
tư không đảm bảo đủ ngày công qui định ... thì có thể phải chịu tiền phạt và thu
nhập của họ bằng tiền lương theo sản phẩm trực tiếp trừ đi các khoản tiền phạt.
- Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến.
Theo hình thức này ngoài tiền lương theo sản phẩm trực tiếp còn căn cứ vào
mức độ hoàn thành vượt định mức lao động để tính thêm một số tiền lương theo
tỷ lệ luỹ tiến. Tỷ lệ hoàn thành vượt định mức càng cao thì suất luỹ tiến càng
nhiều. Lương trả theo sản phẩm luỹ tiến có tác dụng kích thích mạnh mẽ việc tăng
nhanh năng suất lao động nên được áp dụng ở những khâu quan trọng cần thiết để
đẩy nhanh tốc độ sản xuất đảm bảo cho sản xuất cân đối, đồng bộ hoặc áp dụng
trong trường hợp doanh nghiệp phả thực hiện gấp một đơn đặt hàng nào đó. Sử
dụng hình thức trả lương này sẽ làm tăng khoản mục chi phí nhân công trong giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp., vì vậy trường hợp không cần thiết thì không
nên dùng hình thức trả lương này.
- Trả lương khoán khối lượng hoặc khoán từng việc. Hình thức này áp dụng

cho những công việc giản đơn, có tính chất đột xuất như bốc dỡ nguyên vật liệu,
thành phẩm, sửa chữa nhà cửa ...Trong trường hợp này, doanh nghiệp xác định
mức tiền lương trả theo từng công việc mà người lao động phải hoàn thành.
- Hình thức khoán quĩ lương: Là một dạng đặc biệt của tiền lương trả theo sản
phẩm được sử dụng để trả lương cho những người làm việc tại các phòng ban của
doanh nghiệp. Theo hình thức này, căn cứ vào khối lượng công việc của từng
phòng ban doanh nghiệp tiến hành khoán quỹ lương. Quỹ lương thực tế phụ thuộc
vào mức độ hoàn thành công việc được giao cho từng phòng ban. Tiền lương thực
tế của từng nhân viên ngoài việc phụ thuộc vào quỹ lương thực tế của phòng ban
mình còn phụ thuộc vào số lượng nhân viên của phòng ban đó.
Doanh nghiệp trả lương theo sản phẩm thì tổng quỹ lương được xác định theo
công thức :
= x
Hoặc
= x
Trong đó:
= -
Tổng quỹ
lương
Doanh thu bán
hàng thuần
Đơn giá tiền lương /
1000 DT
Tổng thu nhập
Đơn giá tiền lương /
1000 DT
Tổng thu nhập
Tổng quỹ
lương (theo
thu nhập)

Tổng doanh thu
thuần bán ra -
CPKD
Giá trị vốn hàng
Trong đó chỉ tiêu kinh doanh không có quỹ lương cơ bản. Từ chỉ tiêu lấy thu
nhập doanh nghiệp chi trả tiền lương theo đơn giá đã được xác định.
Việc xây dựng đơn giá tiền lương được căn cứ vào tiền lương cơ bản và kế
hoạch sản xuất kinh doanh nói chung và số lượng sản phẩm của từng doanh nghiệp
để xác định.Hiện nay trong các doanh nghiệp sản xuất thường trả lương khoán theo
sản phẩm hoàn thành hoặc đã tiêu thụ, còn các doanh nghiệp thương mại và kinh
doanh dịch vụ thường áp dụng trả lương theo doanh thu hoặc thu nhập.
3. Quỹ tiền lương và các khoản trích theo lương.
3.1. Quỹ tiền lương.
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương doanh nghiệp trả cho
tất cả các loại lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng, bao gồm các
khoản:
- Tiền lương tính theo thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm, tiền lương khoán.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên
nhân khách quan, trong thời gian đựơc điều động đi công tác, làm nghĩa vụ theo
chế độ quy định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học.
- Các khoản phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ.
- Các khoản tiền lương có tính chất thường xuyên.
Ngoài ra trong quỹ lương kế hoạch còn được tính cả các khoản tiền chi trợ cấp
BHXH cho công nhân trong thời gian ốm đau, thai sản, tai nạn lao động.
Trong doanh nghiệp, để phục vụ cho công tác hạch toán, tiền lương có thể đựơc
chia thành hai loại: tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động gián tiếp,
trong đó chi tiết theo tiền lương chính và tiền lương phụ.
+ Tiền lương chính: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian người lao
động thực hiện nhiệm vụ chính của họ, gồm tiền lương trả theo cấp bậc và trả theo
các khoản phụ cấp kèm theo như phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực.

+ Tiền lương phụ: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian họ thực hiện
nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính của họ và thời gian người lao động nghỉ được
hưởng lương theo quy định của chế độ như nghỉ phép, nghỉ tết, nghỉ vì ngừng sản
xuất.
Tiền lương chính của công nhân trực tiếp sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất
ra sản phẩm, tiền lương phụ của công nhân trực tiếp sản xuất không gắn với tong
loại sản phẩm. Vì vậy, việc phân chia tiền lương chính và tiền lương phụ có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác phân tích kinh tế.
Để đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của
doanh nghiệp thì việc quản lý và chi tiêu quỹ tiền lương phải đặt trong mối quan hệ
phục vụ tốt cho việc thực hiệ kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
chi tiêu tiết kiệm, hợp lý quỹ tiền lương.
3.2. Các khoản trích theo lương
Ngoài tiền lương trả cho người lao động theo quy định hiện hành, doanh nghiệp
phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một bộ phận chi phí gồm các khoản trích
theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ.
- Quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH): được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy
định trên tổng số quỹ tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp (phụ cấp trách
nhiệm, phụ cấp khu vực) cuả công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng. Theo
chế độ hiện hành, tỷ lệ trích BHXH là 20%. Trong đó 15% do đơn vị hoặc chủ sở
dụng lao động nộp, được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, 5% còn lại do người
lao động nộp, được tính trừ vào thu nhập người lao động. Trong trường hợp ốm
đau, thai sản, mất sức, nghỉ hưu, tuỳ theo cơ chế tài chính quy định cụ thể mà việc
quản lý sử dụng quỹ BHXH có thể ở tại doanh nghiệp hay cơ quan chuyên trách.
Việc sử dụng chi tiêu quỹ BHXH dù ở cấp nào quản lý cũng phải thực hiện theo
đúng chế độ quy định.
- Quỹ bảo hiểm y tế (BHYT): tài trợ cho việc phòng, chữa và chăm sóc sức khoẻ
cho người lao động. Theo quy định của chế độ tài chính hiện hành thì quỹ BHYT
được hình thành từ hai nguồn: một phần do doanh nghiệp phải gánh chịu, được
tính trích vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng theo tỷ lệ quy định 3% trong

đó 2% tính vào chi phí kinh doanh và 1% trừ vào thu nhập người lao động. BHYT
được nộp lên cơ quan chuyên môn, chuyên trách (thường chủ yếu dưới hình thức
mua BHYT) để phục vụ, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho công nhân viên như
khám bệnh, chữa bệnh.
- Kinh phí công đoàn (KPCĐ): đựơc thành lập do việc trích lập theo một tỷ lệ
quy định trên tổng số tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của công nhân viên
thực tế phát sinh trong tháng tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Tỷ lêj trích
KPCĐ theo chế độ hiện hành là 2%. Số KPCĐ doanh nghiệp trích được phân cấp
quản lý và chi tiêu theo chế độ quy định. Một phần nộp cơ quan quản lý công đoàn
cấp trên và một phần để tại doanh nghiệp chi tiêu cho hoạt động công đoàn tại
doanh nghiệp.
Các khoản trích trên cùng với tiền lương phải trả cho người lao động hợp thành
loại chi phí về nhân công trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh quản lý, việc tính
toán, trích lập và chi tiêu sử dụng các quỹ tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ có ý
nghĩa không những đối với việc sản xuất kinh doanh mà còn cả việc đảm bảo
quyền lợi cho người lao động tại doanh nghiệp
II/ Phương pháp kế toàn tiền lương và các khoản trích theo lương.
1. Hạch toán chi tiết tiền lương.
- Hạch toán số lượng lao động:
Số lượng lao động của doanh nghiệp đựơc phản ánh trên sổ sách thường do phòng
tổ chức lao động quản lý dựa vào số lao động hiện có của doanh nghiệp bao gồm
cả số lao động dài hạn và số lao động tạm thời, cả số lao động trực tiếp và số lao
động gián tiếp, lao động thuộc các lĩnh vực khác ngoài sản xuất. Sổ sách lao động
không chỉ tập trung cho toàn doanh nghiệp mà còn lập riêng cho từng bộ phận sản
xuất trong doanh
nghiệp nhằm thường xuyên nắm bắt chắc số lượng lao động hiện có của từng đơn
vị.
Hạch toán số lượng lao động là việc theo dõi kịp thời, chính xác tình hình tăng,
giảm số lượng lao động theo từng loại lao động trên cơ sở đó làm căn cứ cho việc
tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động do phòng tổ choc lập.

- Hạch toán thời gian lao động: là việc ghi chép kịp thời, chính xác thời gian lao
động của từng người lao động trên cơ sở đó tính tiền lương phải trả cho chính xác.
Hạch toán thời gian lao động phản ánh số ngày làm việc thực tế hoặc ngừng sản
xuất, nghỉ việc của từng người lao động, từng bộ phận sản xuất, từng phòng ban
trong doanh nghiệp. Bảng chấm công dùng để theo dõi thời gian làm việc của từng
người trong tháng do các tổ đội, phòng ban là người trực tiếp ghi bảng chấm công
căn cứ vào số lượng lao động có mặt, vắng mặt ở bộ phận mình phụ trách, cuối
tháng dựa vào số lượng bảng chấm công để tính ra tổng số giờ làm việc, nghỉ việc
để căn cứ tính lương, thưởng và tổng hợp thời gian lao động sử dụng trong doanh
nghiệp ở mỗi bộ phận.
- Hạch toán kết quả lao động:
Hạch toán kết quả lao động là việc ghi chép kịp thời, chính xác số lượng lao
động, chất lương sản phẩm hoàn thành của từng công nhân để từ đó tính lương,
tính thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả hoạt động
thực tế, tính toán, xác địng mức lao động của từng người, từng bộ phận và của toàn
doanh nghiệp. Để hạch toán kết quả lao động người ta sử dụng cácchứng từ ban
đầu khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng
doanh nghiệp. Mỗi bộ phân sản xuất phải mở sổ tổng hợp theo dõi kết quả lao
động dựa vào các chứng từ hạch toán kết quả lao động hàng ngày, phòng kế toán
có trách nhiệm tập hợp kết quả lao động của toàn doanh nghiệp.
Các chứng từ ban đầu sử dụng trong việc hạch toán số lượng và chất lượng lao
động:
+ Bảng chấm công: (Mẫu số 01- LĐTL) bảng này do các tổ sản xuất hoặc các
phòng ban lập nhằm cung cấp các chi tiết số ngày công cho từng người lao động
theo từng tháng hoặc tuần (tuỳ thuộc vào cách chấm công và cách trả lương của
từng doanh nghiệp).
+ Phiếu nghỉ hưởng BHXH (Mẫu số 03 - LĐTL) chứng từ này do các cơ sở y tế
được phép lập riêng cho từng cá nhân người lao động nhằm cung cấp thời gian
người lao động được người và hưởng các khoản trợ cấp BHXH, BHYT.
+ Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành (Mẫu số 06 - LĐTL) mục

đích lập chứng từ này nhằm xác nhận số sản phẩm hoặc công việc hoàn thành của
đơn vị hoặc cá nhân người lao động làm cơ sở để lập bảng thanh toán tiền lương
hoặc tiền công cho người lao động. Phiếu này do người giao việc lập, phòng lao
động tiền lương thu nhận và ký duyệt trước khi chuyển đến kế toán làm chứng từ
hợp pháp để trả lương.
+ Phiếu báo làm đêm, làm thêm giờ (Mẫu số 07 - LĐTL)
+ Hợp đồng giao khoán (Mẫu số 08 - LĐTL) Phiếu này là bản ký kết giữa người
giao khoán và người nhận khoán về khối lượng công việc, thời gian làm việc, trách
nhiệm và quyền lợi của mỗi bên khi thực hiện công việc đó. Đồng thời là cơ sở để
thanh toán tiền lương lao động cho người nhận khoán.
+ Biên bản điều tra tai nạn lao động (Mẫu số 09-LĐTL).
Các chứng từ ban đầu sử dụng trong việc hạch toán số lượng và chất lượng lao
động:

×