Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Những vấn đề cung của quản trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.8 KB, 94 trang )

HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Những vấn đề cung của
quản trị
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN TRỊ

I. CÁC KHÁI NIỆM VỀ QUẢN TRỊ
1. Sự ra đời của Quản trị
Quản trị (nói chung) xuất hiện rất lâu, từ khi xã hội loài người biết sống và hoạt
động tập thể. Ngay từ ngày đầu, con người sống thành bầy đàn đã biết nương tựa vào nhau
đấu tranh chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ để sinh tồn; mặt khác, do có
sự khác nhau về tuổi tác, trí lực và thể lực mà vị trí của mỗi người trong cộng đồng cũng
không giống nhau, có người làm đựơc việc này mà không làm được việc khác nhưng tất cả
đều muốn tồn tại và phát triển, đời sống của họ ngày càng được tốt hơn. Vì vậy, trong xã
hội đòi hỏi phải có sự phân công lao động và từ đó công việc quản trị và người quản trị
xuất hiện nhằm điều phối công việc chung, làm cho cho các hoạt động của cộng đồng đem
lại kết quả cao hơn, đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu mọi mặt đời sống của mình.
Để thích ứng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, quản trị ngày
càng được củng cố và hoàn thiện. Ngày nay, quản trị hình thành nhiều dạng khác nhau:
- Quản trị quá trình thế giới vô sinh như: đất đai, hầm mỏ…
- Quản trị quá trình thế giời hữu sinh như: cây trồng, vật nuôi.
- Quản trị xã hội loài người bao gồm:
+ Quản trị nhà nước.
+ Quản trị các tổ chức đoàn thể xã hội.
+ Quản trị sản xuất kinh doanh tại các tổ chức kinh tế.

Ngoài những đặc điểm chung của Quản trị, ở mỗi dạng quản trị khác nhau chịu sự chi
phối của một số qui luật riêng và có những đặc điểm riêng. Do đó, cần có những nội dung
nghiên cứu phù hợp. Trong chương trình môn học này chúng ta chỉ đề cập đến quản trị sản
xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp và nghiên cứu chúng trong mối liên hệ hữu cơ với các


dạng quản trị khác, nhất là quản trị nhà nước.
Như vậy, quản trị ra đời là một tất yếu khách quan cùng với quá trình hình thành,
phát sinh và phát triển của đoàn nhóm, tổ chức nhà nước, xã hội và tổ chức kinh tế.
2. Tính tất yếu khách quan của Quản trị
Từ phân tích về sự ra đời của quản trị ở trên cho ta thấy rằng, quản trị xuất hiện trong
đời sống xã hội loài người không phải do ý muốn chủ quan của một ai, hay một nhóm
người nào mà do đòi hỏi của thực tại khách quan trong một xã hội có hoạt động tập thể và
có sự phân công lao động xã hội, cần phải được phối hợp các hoạt động riêng lẻ, cá biệt
nhằm hoàn thành những công việc mà từng cá nhân riêng lẻ không thể làm được; nâng cao
hơn kết quả mà họ mong đợi.

- Nói về tính tất yếu khách quan của quản trị, C.Mac có câu nói nổi tiếng: “Một
nghệ sĩ chơi đàn thì tự điều khiển lấy mình nhưng một dàn nhạc thì cần có người chỉ huy,
người nhạc trưởng”. Như vậy, sự xuất hiện người chỉ huy “người nhạc trưởng” trong một
tập thể để điều khiển hoạt động của một “dàn nhạc” không phải do ông ta muốn hay không
mà do đòi hỏi khách quan của một tổ chức, ở đây là một “dàn nhạc”.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
- Còn theo quan điểm của GS. HAROLD KOONTZ thì cho rằng: “ Ngay từ khi con
người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu mà họ không
thể đạt được với tư cách là cá nhân riêng lẻ, thì cách quản lý đã là một yếu tố cần thiết để
đảm bảo phối hợp những nổ lực cá nhân”.
- Theo TS. Nguyễn Thị Liên Diệp khẳng định: “ Có thể nói rằng lý do tồn tại của
hoạt động quản trị chính là vì muốn có hiệu quả và chỉ khi nào người ta quan tâm đến
hiệu quả thì người ta mới quan tâm đến hoạt động quản trị”
Như vậy, Quản trị là gì mà chúng không thể thiếu trong một tổ chức?
3. Khái niệm về Quản trị
Quản trị (Management) là từ thường được dùng phổ biến trong nhiều sách giáo khoa
và nhiều tài liệu khác. Nếu xét riêng từng từ một thì ta có thể tạm giải thích như sau:
- Quản: là đưa đối tượng vào khuôn mẫu qui định sẵn. Ví dụ: Cha mẹ bắt đứa bé
phải làm theo một kế hoạch do mình định ra; sáng phải đi học, buổi trưa nghỉ ngơi, buổi

chiều học bài, trước khi đi phải thưa về phải chào, … Đó là cái khuôn mẫu chúng phải
thực hiện chứ không để đối tượng tự do hoạt động một cách tùy thích.
- Trị: là dùng quyền lực buộc đối tượng phải làm theo khuôn mẫu đã định. Nếu
đối tượng không thực hiện đúng thì sẽ áp dụng một hình phạt nào đó đủ mạnh, đủ sức
thuyết phục để buộc đối tượng phải thi hành. Nhằm đạt tới trạng thái mong đợi, có thể có
và cần phải có mà người ta gọi là mục tiêu.

Sau đây là những khái niệm về Quản trị của một số tác giả là Giáo sư, Tiến sĩ quản
trị học trong và ngoài nước.
- Theo GS. H.Koontz “ Quản lý là một hoạt động tất yếu; nó đảm bảo phối hợp
những nổ lực cá nhân nhằm đạt được những mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của
quản lý là nhằm mà trong đó con người có thể đạt được các mục tiêu của nhóm với thời
gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn của cá nhân ít nhất”.
- Quản trị được xem như là một quá trình thực hiện các chức năng quản trị, Thầy
Nguyễn Tiến Phước khái niệm:“ Quản trị là quá trình hoạch định, tổ chức, bố trí nhân
sự, lãnh đạo và kiểm soát công việc và những nổ lực của con người, đồng thời vận dụng
một cách có hiệu quả mọi tài nguyên, để hoàn thành các mục tiêu đã định”.
- Theo GS. Vũ Thế Phú: “quản trị là một tiến trình làm việc với con người và
thông qua con người để hoàn thành mục tiêu của một tổ chức trong một môi trường luôn
luôn thay đổi. Trọng tâm của tiến trình này là sử dụng có hiệu quả những nguồn tài
nguyên có hạn”.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể khái quát: quản trị là quá trình tác động
thường xuyên, liên tục và có tổ chức của chủ thể quản trị (hệ thống quản trị) đến đối
tượng quản trị (hệ thống bị quản trị) nhằm phối hợp các hoạt động giữa các bộ phận,
các cá nhân, các nguồn lực lại với nhau một cách nhịp nhàng, ăn khớp để đạt đến
mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao nhất. Thực vậy, quản trị thực chất là một quá
trình tác động mà quá trình đó không phải ngẫu nhiên mà được tiến hành một cách có tổ
chức và có chủ đích của chủ thể quản trị (hệ thống quản trị) được thực hiện một cách
thường xuyên, liên tục nhằm làm cho các hoạt động của tập thể (tổ chức) mang lại kết quả

cao nhất với chi phí thấp nhất, thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu về vật chất và tinh
thần của cả cộng đồng.
Để làm được điều đó, quản trị có những chức năng, vai trò gì? Và cần có những kỹ
năng nào?
II. CHỨC NĂNG, VAI TRÒ VÀ KỸ NĂNG QUẢN TRỊ
1. Chức năng quản trị
Chức năng của hệ thống quản trị trong một tổ chức, gọi tắt là chức năng quản trị là
nhiệm vụ chung (nhiệm vụ tổng quát) mà hệ thống quản trị phải thực hiện trong quá trình
quản trị. Có nhiều căn cứ để phân loại các chức năng quản trị.
1.1 Căn cứ theo lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh:
Ta có các chức năng quản trị cụ thể như sau:
- Quản trị chất lượng.
- Quản trị Makerting.
- Quản trị sản xuất.
- Quản trị tài chính.
- Quản trị kế toán.
- Quản trị hành chính, văn phòng…

Như vậy, tương ứng với mỗi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh là một chức
năng quản trị. Cách phân loại này nó không phản ánh khái quát các nhiệm vụ chung của
quản trị, là những chức năng cụ thể được phân chia một cách linh hoạt tùy thuộc vào trình
độ phát triển sản xuất của xã hội. Khi trình độ sản xuất của xã hội còn thấp thì sự phân chia
ít chức năng; ngược lại khi trình độ sản xuất xã hội càng cao, qui mô sản xuất càng lớn, sự
phân công lao động càng sâu sẽ phát sinh nhiều chức năng mới.
1.2 Căn cứ theo nội dung của quá trình quản trị
Tác giả của các lý thuyết quản trị nhiều nước trên thế giới đã đề ra những chức
năng (nhiệm vụ chung) của quản trị như sau:
- Năm 1916, nhà quản trị nổi tiếng người Pháp HENRY FAYOL cho rằng quản trị
có 5 chức năng sau:
I

II + Chức năng hoạch định (Planing).
+ Chức năng tổ chức (Organizing)
+ Chức năng chỉ huy (Directing)
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
+ Chức năng phối hợp (Coordinating)
+ Chức năng kiểm tra (Reviewing)

Có thể nói, HENRY FAYOL là người có công đầu trong việc hình thành lý thuyết
quản trị tương đối có hệ thống và chặt chẽ nhất lúc bấy giờ. Trong đó, ông chia các hoạt
động của một tổ chức thành 6 nhóm công việc, đề ra 14 nguyên tắc và 5 chức năng Quản
trị. Những đề nghị này của ông đã được đưa vào giảng dạy ở nhiều trường Đại học tại
nhiều nước trên thế giới.
III
Tuy nhiên, trong 5 chức năng Quản trị của ông hiện còn có ý kiến cho rằng, phối
hợp không phải là chức năng mà là mục đích của quản trị. Bỡi vì, khi thực hiện các chức
năng hoạch định, tổ chức, chỉ huy, kiểm tra không có gì khác là nhằm để phối hợp các
hoạt động, các nguồn lực trong một tổ chức để đạt đến mục tiêu mà chủ thể quản trị mong
đợi.
IV
- Sau đó 7 năm, vào năm 1923 LYTHER GUILICK và LYNDAL URWICH chia
thành 7 chức năng:
V + Hoạch định.
VI + Tổ chức.
VII + Nhân sự (Staffing)
+ Thực hiện
VIII + Phối hợp.
IX + Kiểm tra.
X + Tài chính (Budgeting).

Trong hệ thống các chức năng này cũng còn nhiều ý kiến tranh cãi. Chẳng hạn, có

người cho rằng chức năng tổ chức trong đó bao gồm có cả chức năng nhân sự, vì vậy
không thể tách “nhân sự” thành một chức năng riêng; hoặc “thực hiện” không chỉ là một
chức năng riêng của hệ thống quản trị; hay “tài chính” là một chức năng cụ thể chứ không
phải là một chức năng chung của quản trị…
XI
-Đến thập niên 60 của thể kỷ XX, HAROLD KOONTZ và CYRIL O’DONNELL nêu
lên 5 chức năng:
XII
XIII + Kế hoạch.
XIV + Tổ chức.
XV + Nhân sự.
XVI + Lãnh đạo.
XVII + Kiểm tra.
XVIII
-Và, đến thập niên 80 của thế kỷ XX, JAMES STONER và STEPHEN P.ROBBINS lại
chia thành 4 chức năng:
XIX
XX+ Hoạch định.
XXI + Tổ chức.
XXII + Lãnh đạo.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
XXIII + Kiểm tra.
XXIV
- Ngày nay, các chức năng chung của quản trị đã được trình bày trong nhiều sách giáo
khoa ở các trường đại học và cao đẳng Việt Nam bao gồm:
XXV
XXVI + Hoạch định.
XXVII + Tổ chức.
XXVIII + Điều khiển. (Có tác giả còn gọi là chức năng lãnh đạo hoặc chỉ
huy).

XXIX + Kiểm tra - kiểm soát.

Với hệ thống chức năng này phản ánh khá đầy đủ những nhiệm vụ chung (nhiệm vụ
tổng quát) của quản trị trong giai đoạn hiện nay.
2. Vai trò của Quản trị
XXX Hệ thống quản trị thực hiện các chức năng của mình thông qua giữ nhiều
vai trò khác nhau trong quá trình quản trị. Nếu chức năng quản trị là những nhiệm vụ
chung (nhiệm vụ tổng quát) thì vai trò quản trị là những công việc cụ thể, là tập hợp những
hành vi có tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Theo Henry Mitzberg, nhà nghiên cứu
Hoa Kỳ cho rằng quản trị có 10 vai trò phổ biến được tập hợp thành 3 nhóm:
XXXI
- Nhóm 1: Vai trò quan hệ, bao gồm các vai trò là người đại diện; vai trò người
lãnh đạo; vai trò người quan hệ với các cá nhân và tập thể trong và ngoài tổ chức.
- Nhóm 2: Vai trò thông tin, bao gồm các vai trò là người cung cấp thông tin; phổ
biến thông tin; thu thập và thẩm định thông tin.
- Nhóm 3: Vai trò quyết định, bao gồm các vai trò nhà doanh nghiệp; vai trò
người giải quyết xung đột; vai trò người phân phối tài nguyên trong tổ chức.
3. Các kỹ năng quản trị
Để thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong tổ chức, đòi hỏi bất cứ nhà quản trị nào
cũng cần có 3 kỹ năng cơ bản. Nó biểu hiện năng lực của người quản trị, là nguyên nhân
sự thành đạt của nhà quản trị. LENIN nói: “Làm quản lý cần phải rành nghề … tức là phải
tinh thông tất cả mọi điều kiện trong sản xuất, phải biết kỹ thuật sản xuất cao độ hiện đại,
phải có sự tu dưỡng nhất định về khoa học”.

3.1 Nội dung các kỹ năng quản trị
a. Kỹ năng nhận thức (hay kỹ năng tư duy)
Là chức năng quan trọng nhất đối với nhà quản trị, nó đòi hỏi nhà quản trị phải am
hiểu trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội; thấu hiểu mức độ phức tạp và biết giảm
thiểu mức độ phức tạp; nhận biết, phán đoán chính xác những sự vật và hiện tượng và phản
ứng một cách nhanh nhạy các tình huống phát sinh. Đây có thể nói là một kỹ năng quan

trọng, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại của nền kinh tế tri thức.
b. Kỹ năng quan hệ
Là kỹ năng có liên quan tới quan hệ với con người, tạo thuận lợi và thúc đẩy con
người hoàn thành các công việc chung. Kỹ năng này thể hiện việc thông qua các hình thức,
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
phương pháp tác động tới con người như lời nói, chữ viết, thái độ ứng xử, … có sức thuyết
phục, tập hợp (quy tụ) được những người đứng chung quanh mình hoàn thành tốt những
mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất. Tất nhiên, muốn làm được như vậy còn đòi hỏi ở
người quản trị phải có năng lực và uy tín nhất định. Người có năng lực và uy tín cao trong
tập thể sẽ dễ dàng tập hợp các thành viên trong tổ chức; ngược lại dễ gặp phải sự không
chấp nhận của cấp dưới ở nhiều mức độ và bằng nhiều hình thức khác nhau.

c. Kỹ năng chuyên môn
Là khả năng cần thiết để thực hiện một công việc cụ thể; biểu hiện trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của nhà quản trị như soạn thảo một văn bản hành chính, lập một hợp đồng
kinh tế, lập trình quản lý, ra một quyết định quản trị, … Mặc khác, kỹ năng này còn đòi
hỏi ở người quản trị phải hiểu biết chuyên môn của đơn vị mình phụ trách, chẳng hạn một
cán bộ quản trị ngân hàng phải am hiểu các nghiệp vụ ngân hàng của mình.

Tuy nhiên, do vai trò của quản trị viên ở các cấp quản trị không giống nhau nên yêu
cầu mức độ thành thạo các kỹ năng có sự khác nhau.
3.2 Yêu cầu các kỹ năng quản trị ở các cấp quản trị
- Quản trị viên cấp cao: Đòi hỏi nhiều ở kỹ năng nhận thức; biết cách quan hệ
(làm việc với con người) tốt; nhưng đòi hỏi ở kỹ năng chuyên môn kỹ thuật cụ thể về các
lĩnh vực quản trị ít hơn so với quản trị viên ở các cấp khác. Bỡi vì, vai trò của anh ta trong
hệ thống quản trị là người hoạch định ra các mục tiêu, đường lối, chính sách, … của tổ
chức; các nghiệp vụ chuyên môn cụ thể phần lớn do quản trị viên cấp trung và cấp thấp
thực hiện.
- Quản trị viên cấp trung: Đòi hỏi các kỹ năng quản trị ở mức trung bình. Bỡi anh
ta là bộ phận trung gian, với vai trò chủ yếu là chuyển tải “trung chuyển” các thông tin

mệnh lệnh từ cấp cao xuống cấp thấp và nhận những thông tin phản hồi từ cấp thấp lên cấp
cao.
- Quản trị viên cấp thấp: Đòi hỏi nhiều ở kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng
kỹ năng nhận thức lại ít so với quản trị viên các cấp khác. Bỡi vì, họ là những người trực
tiếp thi hành các nghiệp vụ chuyên môn trong từng lĩnh vực quản trị cụ thể.
Những yêu cầu mức độ thành thạo các kỷ năng quản trị trên được minh họa bằng
hình sau (Xem hình 1).
QTV cấp cao QTV cấp trung QTV cấp thấp
Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng quan hệ
Kỹ năng ch/môn


HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Hình 1: Yêu cầu mức độ thành thạo các kỹ năng quản trị
đối với quản trị viên ở các cấp quản trị.
Hệ thống quản trị thực hiện các chức năng thông qua các vai trò của mình với các
kỹ năng hoàn hảo sẽ có một ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp. Năng lực quản trị ngày
nay được xem là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia nói chung
hay một tổ chức kinh tế nói riêng. Các nguồn lực đó là: năng lực quản trị, lao động (đặc
biệt là chất lượng lao động), vốn, khoa học kỹ thuật - công nghệ và tài nguyên thiên nhiên
(Xem hình 2).

Hình 2: Các nguồn lực phát triển của một tổ chức.

Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, năng lực Quản trị là quan trọng
nhất, bỡi vì các nguồn lực khác có phát huy tác dụng được hay không đều phụ thuộc phần
lớn vào năng lực quản trị. Điều đó có thể chứng minh qua các số liệu sau:
1. Theo tài liệu của GS. Nguyễn văn Lê. Nguyên nhân phá sản một doanh nghiệp:
-60% do quản trị thiếu khả năng.

-20% do chiều hướng bất lợi.
XXXII -10% do tai nạn .
XXXIII -10% do các yếu tố linh tinh khác.
XXXIV
2. Các nhà kinh tế Pháp điều tra nghiên cứu và phân định trước những tổn thất của
doanh nghiệp do các nguyên nhân sau:
XXXV -50% thuộc về lãnh đạo.
XXXVI -25% thuộc về giáo dục – đào tạo.
XXXVII -25% thuộc về những người thừa hành.
Năng lực quản trị
Vốn
Tài nguyênKhoa học kỹ thuật
Lao động
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
XXXVIII
3. Nhật Bản là nước đất hẹp, người đông, các điều kiện tự nhiên, văn hoá gần giống
ta. Thế mà sau chiến tranh thế giới thứ 2 (Nhật Bản là nước thua trận và hoang tàn đổ nát
như Việt Nam sau chiến tranh) kết thúc người Nhật lập nên những kỳ tích trong kinh tế
làm cho cả thế giới phải kinh ngạc và học hỏi ở họ:
- Năm 1950, GDP của Nhật là 20 tỉ USD, bằng:
+ 60% của CHLB Đức.
XXXIX + 50% của Pháp.
+1/3 của Anh.
XL +1/17 của Mỹ.
XLI - Năm 1966 (sau 16 năm) Nhật vượt Pháp.
XLII - Năm 1967 vượt Anh.
- Năm 1968 vượt CHLB Đức và cho đến nay vẫn là một cường quốc kinh tế đứng
thứ hai sau Mỹ. Có nhiều yếu tố để người Nhật làm nên điều thần kỳ đó, nhưng các nhà
kinh tế cho rằng quản trị là một yếu tố chiếm vị trí quan trọng nhất. Quả thật vậy, người
Nhật đã biết tìm cho mình một cung cách quản trị riêng phù hợp với nền văn hóa của đất

nước và con người “Mặt trời mọc”, được biểu hiện một cách sinh động qua lý thuyết Z của
William Ouchi.
XLIII
Từ các khái niệm - chức năng - vai trò chúng ta có thể rút ra các đặc điểm quản trị
như sau:

III- ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN TRỊ.
XLIV
1- Đối tượng quản trị là con người, quản trị con người là một công việc khó
khăn và phức tạp.
Quản trị suy cho đến cùng là quản trị con người, người quản trị làm việc cùng với
và thông qua người khác. Trong mỗi con người hay nhóm người đều có những đặc điểm
tâm – sinh lý khác nhau, trình độ khác nhau, nhận thức khác nhau, … dẫn tới những hành
động không giống nhau. Muốn quản trị có hiệu quả trước hết phải hiểu về họ; hiểu được
họ là điều không dễ, nhưng đáp ứng được những nhu cầu của họ lại càng khó khăn và phức
tạp hơn nhiều lần, nó luôn luôn là mục đích cần vươn tới của các nhà quản trị.
Mặt khác, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Sống trong một tổ chức, ở
đó mỗi người có những mối quan hệ nhiều mặt với cộng đồng mang tính xã hội như: quan
hệ chính trị, quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội chúng đan xen vào nhau tạo thành những mối
quan hệ phức hợp, tác động thường xuyên và chi phối mọi mặt hoạt động của cá nhân.
Thật vậy, quản trị có hiệu quả là một công việc đầy khó khăn và phức tạp nhất trong trong
những công việc phức tạp.
2- Lao động quản trị là lao động trí lực là chủ yếu và đòi hỏi tính năng động
sáng tạo cao.
Trong hệ thống quản trị có 3 loại cán bộ chủ yếu: cán bộ lãnh đạo, chuyên gia và
cán bộ nghiệp vụ - kỹ thuật.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
- Cán bộ lãnh đạo: là người có chức vụ quyền hạn nhất định trong tổ chức, họ là
những người đề ra các quyết định quản trị, hoạch định ra các mục tiêu, chiến lược, chính
sách, biện pháp của doanh nghiệp.

XLV
- Cán bộ chuyên gia: bao gồm các kỹ sư, luật sư, nhà toán học, nhà kinh tế… là
những người có trình độ chuyên môn -kỹ thuật cao; họ giữ vai trò chuẩn bị các phương án
giúp cho cán bộ lãnh đạo đề ra các quyết định quản trị đảm bảo tính tối ưu nhất.
- Cán bộ nghiệp vụ - kỹ thuật: là những người thực hiện những nghiệp vụ quản trị
cụ thể như các kế toán, thủ quỹ, thủ kho, thống kê tổng hợp, văn thư, lập trình viên máy
tính…
Trong 3 loại cán bộ trên thì cán bộ lãnh đạo là bộ phận quan trọng nhất, nó quyết
định phần lớn sự thành bại của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự năng động sáng tạo đều
cần thiết cho tất cả quản trị viên ở các cấp, được qui định bỡi tính phức tạp của quản trị.

3- Quản trị vừa là khoa học vừa là một nghệ thuật cao.
Bởi quản trị không những đòi hỏi phải hoàn thành các mục tiêu đã đề ra mà phải
hoàn thành chúng với hiệu quả cao nhất có thể được.

a-Tính khoa học của Quản trị thể hiện:
- Thứ nhất, quản trị phải đảm bảo phù hợp với sự vận động của các qui luật tự
nhiên, xã hội. Điều đó đòi hỏi việc quản trị phải dựa trên sự hiểu biết sâu sắc các qui luật
khách quan chung và riêng của tự nhiên và xã hội.
- Thứ hai, trên cơ sở đó mà vận dụng tốt nhất các thành tựu khoa học, trước hết là
triết học, kinh tế học, toán học, tin học, điều khiển học, công nghệ học, … và các kinh
nghiệm trong thực tế vào thực hành quản trị.
- Thứ ba, quản trị phải đảm bảo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi tổ chức
trong từng giai đoạn cụ thể. Điều đó cũng có nghĩa, người Quản trị vừa phải kiên trì các
nguyên tắc vừa phải vận dụng một cách linh hoạt những phương pháp, những kỹ thuật
Quản trị phù hợp trong từng điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
b-Tính nghệ thuật của quản trị thể hiện:
Nghệ thuật là kỹ năng, kỹ xảo, bí quyết, cái “mẹo” của quản trị. Nếu khoa học là sự
hiểu biết kiến thức có hệ thống thì nghệ thuật là sự tinh lọc kiến thức để vận dụng phù hợp
trong từng lĩnh vực, trong từng tình huống. Ví dụ:

- Trong nghệ thuật sử dụng người. trước hết phải hiểu đặc điểm tâm lí, năng lực
thực tế của con người, từ đó sử dụng họ vào việc gì, lĩnh vực gì, ở cấp bậc nào là phù hợp
nhất; có như vậy mới phát huy hết khả năng và sự cống hiến nhiều nhất của mỗi cá nhân
cho tập thể.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
- Nghệ thuật giáo dục con người. Giáo dục một con người có thể thông qua nhiều
hình thức: khen – chê, thuyết phục, tự phê bình và phê bình, khen thưởng và kỷ luật đều
đòi hỏi ở tính nghệ thuật rất cao. Áp dụng hình thức, biện pháp giáo dục không phù hợp
chẳng những giúp cho người ta tiến bộ hơn mà ngược lại làm phản tác dụng, tăng thêm
tính tiêu cực trong tư tưởng và hành động.
- Nghệ thuật giao tiếp, đàm phán trong kinh doanh. Cũng đòi hỏi tính nghệ
thuật rất cao. Trong thực tế không phải người nào cũng có khả năng này, cùng một việc
như nhau đối với người này đàm phán thành công còn người khác thì thất bại.
- Nghệ thuật ra quyết định quản trị. Quyết định quản trị là một thông điệp biểu
hiện ý chí của nhà quản trị buộc đối tượng phải thi hành được diễn đạt bằng nhiều hình
thức như: văn bản chữ viết, lời nói, hành động, … Ngoài đặc điểm chung của quyết định
quản trị mang tính mệnh lệnh, cưỡng chế ra thì mỗi hình thức của quyết định lại có những
đặc điểm riêng, chẳng hạn như quyết định bằng lời không mang tính bài bản, khuôn mẫu
như quyết định bằng văn bản chữ viết nhưng lại đòi hỏi ở tính sáng tạo, thích nghi và tính
thuyết phục hơn.
-Nghệ thuật quảng cáo. Trước hết là gây ấn tượng cho người nghe, người đọc.
Nhưng trong thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng làm được điều đó. Có những
quảng cáo chúng ta xem thấy vui vui, thích thú, có cảm tình sản phẩm của họ. Nhưng cũng
có quảng cáo lại thấy chán ngán, gây bực bội, phiền muộn cho người nghe, người đọc, …
Vì sao như vậy? Đó chính là nghệ thuật quảng cáo. “Nghệ thuật vĩ đại nhất của nghề
quảng cáo, là ấn sâu vào đầu óc người ta một ý tưởng nào đó nhưng bằng cách thức mà
người ta không nhận thấy được điều đó - khuyết danh” (trích trong “Lời vàng cho các nhà
doanh nghiệp” – nhà xuất bản trẻ năm 1994)
- Nghệ thuật bán hàng: “Nghệ thuật bán tức là nghệ thuật làm cho người mua tin
chắc rằng họ có lợi khi họ mua - SHELDON” (trích: “Lời vàng cho các nhà doanh nghiệp”

– nhà xuất bản trẻ năm 1994).

Nghệ thuật là cái gì đó hết sức riêng tư của từng người, không thể “nhập khẩu” từ
người khác. Nó đòi hỏi ở người quản trị (mà trước hết là người lãnh đạo) không những biết
vận dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học hiện có vào hoàn cảnh cụ thể của mình mà
còn tích lũy vốn kinh nghiệm của bản thân, của người khác để nâng chúng lên thành nghệ
thuật – tức biến nó thành cái riêng của mình.

IV- ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU QUẢN TRỊ
HỌC.
1-Đối tượng nghiên cứu của quản trị học.
Quản trị học là một khoa học xã hội, nhiên cứu các mối quan hệ giữa người và
người trong quá trình quản trị gọi tắt là quan hệ quản trị. Đó là quan hệ giữa chủ thể
quản trị (hệ thống quản trị, bộ phận quản trị, người quản trị) và đối tượng quản trị (hệ
thống bị quản trị, bộ phận bị quản trị, người bị quản trị). Mặt khác, quan hệ quản trị còn là
quan hệ giữa các cấp các khâu trong hệ thống quản trị, như quan hệ giữa giám đốc và
trưởng phòng, giữa trưởng phòng với tổ trưởng, … giữa các bộ phận khâu dệt với khâu hồ,
giữa khâu hồ với in hoa, … trong công ty dệt chẳng hạn.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Xét trên bình diện rộng, quan hệ quản trị là một bộ phận trong “quan hệ sản xuất”
(Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý). Tuy nhiên,
“quan hệ sản xuất” ở đây chỉ đề cập đến phạm vi trong một tổ chức (Doanh nghiệp), nhằm
tìm ra những qui luật vận động của nó; đề ra những đường lối, phương hướng, những
nguyên tắc, những phương pháp chung nhất làm kim chỉ nam cho các nhà thực hành quản
trị doanh nghiệp vận dụng có hiệu quả.

Để phù hợp với đối tượng nghiên cứu trên, nội dung môn học bao gồm các chương
cụ thể như sau:

2-Nội dung.

+ Chương 1: Dẫn nhập.
+ Chương 2: Sự phát triển của các lý thuyết quản trị.
+ Chương 3: Chức năng hoạch định.
+ Chương 4: Chức năng tổ chức.
+ Chương 5: Chức năng điều khiển.
+ Chương 6: Chức năng kiểm soát.
+ Chương 7: Phá sản và cứu nguy phá sản.
Trong 7 chương tập trung giải quyết các chủ đề chính:

- Thông qua việc tìm hiểu các lý thuyết Quản trị, nắm vững các nguyên tắc và những
vấn đề mang tính nguyên tắc – qui luật của quản trị.
- Làm rõ nội dung các chức năng (Nhiệm vụ chung – nhiệm vụ tổng quát) của quản
trị.
- Nắm vững các phương pháp (chung) và một số phương pháp – biện pháp cụ thể
của quản trị.
3- Phương pháp nghiên cứu.

Để đảm bảo nắm vững các nội dung trên, chúng ta cần phải tiến hành qua các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

a- Phương pháp duy vật biện chứng.

Phép duy vật biện chứng là phương pháp chung cho sự nghiên cứu của tất cả các
khoa học, trong đó có quản trị học. Vì phép biện chứng triết học Mac – Lênin là một khoa
học về các qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; nó đòi hỏi xem xét và giải
quyết những vấn trong mối tác động qua lại của các sự vật và hiện tượng trong sự phát
sinh, vận động và phát triển của chúng. Trên cơ sở những nhận thức đó, để nghiên cứu
quản trị học đạt kết quả tốt chúng ta cần phải có các quan điểm sau:
a1. Quan điểm tổng hợp.


HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Nó cho phép chúng ta có phương pháp đánh giá sự vật và hiện tượng một cách toàn
diện, đích thực bản chất, từ đó có những hành động đúng, chính xác. Ngược lại, nếu xem
xét đánh giá sự vật và hiện tượng một cách phiến diện, chỉ nhìn thấy một mặt nào đó mà
vội vàng kết luận thì dễ dẫn đến hành động sai lầm và gây hậu quả nghiêm trọng. Chẳng
hạn, khi nghiên cứu các yếu tố tác động đến doanh nghiệp thì phải tính đến các yếu tố bên
trong (các yếu tố văn hóa) lẫn bên ngoài tổ chức (môi trường kinh tế, chính trị, xã hội,
pháp luật và môi trường kinh doanh quốc tế).

a2. Quan điểm hệ thống.
Hệ thống là tổng hợp các bộ phận hợp thành, chúng có mối quan hệ lẫn nhau; con
người, một cổ máy, một chiếc đồng hồ là một hệ thống hoàn chỉnh, nó bao gồm nhiều bộ
phận hợp thành và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hệ thống một tổ chức (doanh
nghiệp) bao gồm nhiều bộ phận hợp thành như bộ phận lãnh đạo, bộ phận sản xuất, bộ
phận bán hàng, bộ phận kế toán tài vụ, … chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo
thành một thể thống nhất của tổ chức. Vì vậy, khi nghiên cứu một vấn đề nào đó của bộ
phận phải tính đến các mối quan hệ hữu cơ của cả hệ thống.

Mặt khác, hệ thống doanh nghiệp là một hệ thống mở, không thể có một hệ thống
đóng tồn tại được. Do đó, chúng ta không chỉ nghiên cứu chúng trong mối liên hệ của các
bộ phận bên trong tổ chức mà còn phải xem xét chúng trong mối liên hệ cả hệ thống của
nền kinh tế và toàn cầu.

a3. Quan điểm lịch sử.
Lịch sử luôn gắn liền với thời gian (quá khứ, hiện tại và tương lai), trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định có những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội … khác nhau không
thể tùy tiện xem xét đánh giá sự vật và hiện tượng một cách giống nhau. Chẳng hạn, với
điều kiện của nền kinh tế thị trường chúng ta không thể lấy những sự việc và hiện tượng
của thời bao cấp để đánh giá hay nhận xét, mà phải đặt chúng trong điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử lúc bấy giờ; Và, ngược lại cũng không thể gán ghép những sự việc và hiện tượng

trong điều kiện của nền kinh tế hiện thời đem so sánh với thời kỳ bao cấp, ...
b- Vận dụng các phương pháp cụ thể của các khoa học khác.
Quản trị học không những là một khoa học xã hội mà còn là một khoa học ứng dụng.
Dẫn đến sự tất yếu phải vận dụng các phương pháp cụ thể của các khoa học khác như
khoa học thống kê, tin học, tâm lí học, xã hội học, … trong quản trị là cần thiết. Chẳng
hạn, sử dụng các phương pháp phán đoán suy luận, mô hình hóa, sơ đồ hóa, đàm thoại,
thực nghiệm, điều tra, quan sát, nghiên cứu mẫu, phân tích, nghiên cứu tình huống, … tất
cả đều giúp cho ta có cơ sở khoa học xác đáng, nắm vững bản chất của vấn đề, từ đó nâng
cao chất lượng nghiên cứu.
Chương II
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
---------oOo--------
Mặc dù quản trị xuất hiện rất lâu, nhưng các lý thuyết quản trị (quản trị học) mãi cho
đến đầu thế kỷ XX mới hình thành và phát triển. Người có công sáng lập ra lý thuyết quản
trị đầu tiên đó là TAYLOR (người Mỹ) với tác phẩm “ NHỮNG NGUYÊN TẮC QUẢN
TRỊ” vào năm 1911. Từ đó đến nay, đã có không ít lý thuyết quản trị ra đời với nhiều học
giả thuộc các trường phái Quản trị khác nhau. Song, trong quyển sách này chỉ đề cập
những lý thuyết quản trị của các trường phái tiêu biểu nhất.
I-TRƯỜNG PHÁI CỔ ĐIỂN.

1- Lý thuyết quản trị khoa học (Scientific management).

“Quản trị khoa học” là thuật ngữ dùng để chỉ các ý kiến của một nhóm tác giả ở
Hoa Kỳ vào đầu thập niên của thế kỷ XX, được Louis Brandeis sử dụng lần đầu tiên trong
một báo cáo trước Ủy Ban Thương Mại Hoa Kỳ vào năm 1910. Sau đó được Taylor sử
dụng để đặt tên cho tác phẩm của mình với nhan đề “Các nguyên tắc quản trị khoa học”,
xuất bản năm 1911. Vì vậy, thuật ngữ này đã trở thành tên của một lý thuyết và gắn liền
với tên tuổi của Taylor cho đến ngày nay.
Lý thuyết “Quản trị khoa học” là nổ lực đầu tiên của con người trình bày một cách

có hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc và những phương pháp quản trị doanh
nghiệp căn bản. Nó đánh dấu một bước ngoặc mới, chấm dứt một quá trình rất dài bao gồm
nhiều thế kỷ mà con người chỉ biết quản trị theo kinh nghiệm.
Taylor không phải là tác giả duy nhất của lý thuyết này. Nhưng Ông thực sự xứng
đáng với tên gọi là cha đẻ của Quản trị học mà nhiều học giả phương Tây suy tôn.
a-Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915).

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, lúc đó Taylor là anh công nhân bình thường phấn
đấu thành một nhà quản trị sản xuất nhà máy Midvale Steel Works, và theo học lấy bằng
kỹ sư bằng cách học Đại học ban đêm ở Viện kỹ thuật Stevens, Hoa Kỳ.
Với một con người có ý chí và khả năng làm việc tốt, Taylor đã quan sát và phát
hiện ra rằng, hầu hết các nhà quản trị trước đó làm theo kinh nghiệm, cứ làm sai thì sửa.
Hơn nữa nhiều công tác Quản trị thường phó mặc cho công nhân như phương pháp làm
việc, tiêu chuẩn công việc, khuyến khích công nhân, … Từ đó, Ông cho ra đời hai tác
phẩm: “Quản trị phân xưởng” (Shop Management) xuất bản năm 1906 và đặc biệt là
“Những nguyên tắc quản trị khoa học” (Principles of Scientific Management) xuất bản
năm 1911, với 4 tư tưởng chủ yếu mà sau này có nhiều người gọi đó là 4 nguyên tắc chung
của quản trị.
1- Các nhà quản trị từ cấp cơ sở trở lên nên dành nhiều thời gian và công sức để lập
kế hoạch hoạt động của tổ chức cho công nhân làm việc và kiểm tra hoạt động thay vì cùng
tham gia công việc cụ thể của người thừa hành. Ý tưởng này, lần đầu tiên hình thành
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
chuyên môn hoá lao động quản trị, tách lao động Quản trị khỏi sản xuất để hệ thống này
thực hiện các công việc đích thực của mình đó là các chức năng quản trị; làm theo phương
pháp khoa học thay vì theo kinh nghiệm.

2- Các nhà quản trị phải đầu tư để tìm ra những phương cách hoạt động khoa học
để hướng dẫn công nhân, thay vì để công nhân tự ý chọn phương pháp làm việc riêng của
họ.


3- Các nhà quản trị nên sử dụng các biện pháp kinh tế để động viên công nhân hăng
hái làm việc. Trong đó Ông đề ra phương pháp trả lương theo sản phẩm.
4- Phân chia trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi một cách hợp lí giữa những nhà
Quản trị và người thừa hành. Tránh trút hết trách nhiệm cho người công nghân.
Những nét phát họa đó chưa đủ để xem là một lý thuyết hoàn thiện. Song, nhờ có
những “viên gạch” đầu tiên này mà các nhà quản trị sau này đã vun đắp thành những “lâu
đài lý thuyết” tráng lệ. Người có công đóng góp không kém phần quan trọng cho lý thuyết
“Quản trị khoa học” đó là Henry L.Gantt.
b- Henry L.Gantt (1861 – 1919).
Henry L.Gantt cùng làm việc với Taylor trong các nhà máy Midvale, Simonds và
Bethlebem Steel. Ông cho rằng, hệ thống trả lương theo sản phẩm do Taylor đề xướng
không có tác động khuyến khích nhiều cho công nhân. Do đó, Ông ta đã bổ sung chế độ trả
lương có thưởng. Theo đó, công nhân làm vượt định mức trong ngày họ được thưởng thêm
tiền, kể cả người quản trị trực tiếp.

Một đóng góp khác của L.Gantt là “biểu đồ Gantt”. Một kỹ thuật diễn tả thời gian
kế hoạch của công việc bằng cách phân tích thời gian cho từng cônng việc và biểu diễn
chúng trên một biểu đồ mà nhìn vào đó, nhà Quản trị có thể thấy được tiến trình thực hiện
công việc, từ đó có thể điều chỉnh công việc đạt tới mục tiêu một cách tốt nhất. Tuy là một
sáng kiến đơn giản nhưng biểu đồ Gantt đã có nhiều hữu ích, do đó nó được sử dụng khả
phổ biến trong Quản trị ngày nay.

c- Ông bà Gilbreth: Lilian Gilbreth (1878 – 1972) và Frank Gilbreth (1868 –
1924).
Cùng quan điểm với Taylor và Gantt, ông - bà Gilbreth cho rằng năng suất lao
động quyết định đến hiệu quả. Nhưng, con đường để tăng năng suất lao động không phải
tác động vào người công nhân, mà bằng cách giảm các động tác thừa. Để chứng minh cho
luận điểm của mình, ông - bà Gilbreth đã khám phá ra rằng trong 12 thao tác mà một người
thợ xây thực hiện để xây gạch lên tường, có thể rút xuống còn 4, và nhờ đó mà mỗi ngày
một người thợ xây có thể xây được 2.700 viên gạch thay vì 1000 viên, mà không cần phải

hối thúc.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Ông – bà Gilbreth cũng cho rằng, làm giảm các động tác thừa không những làm
tăng năng suất lao động mà chúng còn có liên quan trực tiếp đến sự mệt nhọc của công
nhân, do đó giảm bớt số lượng thao tác cũng làm giảm mệt nhọc cho người công nhân. Vì
vậy, ông - bà Gilbreth là một trong những người đầu tiên quan tâm đến khía cạnh tâm lý
con người trong quản trị, nhận định đó được thể hiện khá rõ trong luận án Tiến sĩ “Tâm lí
quản trị” mà bà Lilian Gilbreth đã bảo vệ thành công năm 1914, nhưng rất tiếc là do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà tư tưởng của Bà lúc bấy giờ chưa được các nhà quản trị quan
tâm đúng mức.
d- Tóm tắt Lý thuyết “Quản trị khoa học”
Là lý thuyết Quản trị đầu tiên, nó đánh dấu một bước ngoặc mới trong lĩnh vực
quản trị doanh nghiệp. Những tư tưởng của lý thuyết “Quản trị khoa học” là nền tảng cho
các lý thuyết quản trị sau này, cho đến ngày nay những ý kiến đề xuất của Taylor và đồng
nghiệp được các nhà thực hành Quản trị áp dụng rộng rãi và đem lại nhiều kết quả tốt.
Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình hiện nay cho rằng, nói chung tư tưởng của Taylor và
các tác giả thuộc lý thuyết “Quản trị khoa học” là thiếu nhân bản, xem con người như một
đinh ốc trong cổ máy. Còn GS. Koontz thì gọi lý thuyết quản trị của Taylor là lý thuyết
“Cây gậy và củ cà rốt”. Nhưng, cũng có ý kiến bênh vực cho Ông ta cho rằng, tư tưởng
của Taylor là sản phẩm của thời đại Ông sống.

2- Lý thuyết quản trị hành chánh (Administration Management).

Sau lý thuyết “Quản trị khoa học”, lý thuyết “Quản trị hành chánh” là một lý thuyết
quản trị xuất hiện rất sớm, tiêu biểu nhất là Fayol của Pháp, Max Weber của Đức và
Chester Barnard của Mỹ.
Lý thuyết này ra đời căn cứ trên giả thuyết: Mặc dù mỗi loại hình tổ chức có những
đặc điểm riêng (doanh nghiệp, nhà nước, các tổ chức đoàn thể, tôn giáo …), nhưng chúng
đều có chung một tiến trình Quản trị mà qua đó nhà quản trị có thể quản trị tốt bất cứ một
tổ chức nào. Người có công lớn đề ra lý thuyết này là Henri Fayol.


a- Henri fayol (1841 – 1925).
Henri Fayol là một nhà công ngiệp Pháp. Năm 1916, Ông xuất bản tác phẩm “Quản
trị công nghiệp và quản trị chung” (Administration inductrielle et generale) trình bày nhiều
quan niệm mới về quản trị. Trong đó, Ông trình bày lý thuyết quản trị của mình một cách
có hệ thống, tổng hợp và ở trình độ cao hơn so với các lý thuyết khác cùng thời.

+ Ông phân chia công việc doanh nghiệp ra thành 6 loại.

. Sản xuất (kỹ thuật sản xuất).
. Thương mại (mua bán, trao đổi).
. Tài chính (tạo và sử dụng vốn có hiệu quả).
. An ninh (bảo vệ tài sản và nhân viên).
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
. Kế toán.
. Quản trị.

Những đề xuất này của ông có ý nghĩa rất to lớn cho thực hành Quản trị. Ngày nay,
hầu hết các loại hình doanh nghiệp đều tổ chức bộ máy dựa trên các phát hoạ chung của
Fayol. Tùy theo từng loại hình và qui mô doanh nghiệp, sự phân chia có thể khác nhau,
nhưng nhìn chung họ đều tổ chức theo từng nhóm công việc để quản trị.

+ Đề ra 14 nguyên tắc quản trị:
. Phân chia công việc.
. Tương quan giữa thẩm quyền và trách nhiệm.
. Kỷ luật.
. Thống ngất chỉ huy.
. Thống nhất điều khiển.
. Cá nhân lệ thuộc lợi ích chung.
. Thù lao tương xứng.

. Tập trung và phân tán.
. Cấp bậc (Nguyên tắc giai đẳng).
. Trật tự.
. Công bằng.
. Ổn định nhiệm vụ.
. Sáng kiến.
. Đoàn kết (tinh thần tập thể).
+Fayol còn đề ra một hệ thống các chức năng quản trị:
. Hoạch định.
. Tổ chức.
. Chỉ huy.
. Phối hợp.
. Kiểm tra.

Nhận xét về Fayol, các GS. Koontz và O’Donnell của Đại học California cho rằng,
chính Fayol bằng những tư tưởng rất phù hợp với hệ thống quản trị kinh doanh hiện đại,
thực sự xứng đáng được xem là cha đẻ của khoa học quản trị kinh doanh ngày nay, chứ
không phải là Taylor.
b- Maz Weber (1864 – 1920).
Maz Weber là một nhà Xã hội học, người sáng lập ra xã hội học hiện đại và có
nhiều đóng góp vào Quản trị học. Ông tiếp cận quản trị bằng việc nghiên cứu cơ cấu kinh
tế và chính trị vĩ mô.
Lý thuyết quản trị của Weber là phát triển tổ chức hợp lý mà Ông đặt tên là Hệ
thống thư lại (Bureaucracy) là hệ thống quản trị hữu hiệu cho tất cả các tổ chức chính
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
quyền, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, … Lý thuyết này cho phép một tổ chức được sắp xếp
một hệ thống quản trị theo thứ bậc chặt chẽ, hành xử theo quyền hành chức vụ được qui
định rõ ràng.
Như vậy, lý thuyết Hệ thống thư lại của Weber thể hiện rõ nét kiểu quản lý “Hành
chính”; nó làm cho việc quản trị được tiến hành một cách qui củ, bài bản và chặt chẽ; phân

định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các bên, của mỗi cấp trong hệ thống tổ chức. Song,
áp dụng quản trị theo Hệ thống thư lại trong các tổ chức doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh dễ mắc phải bệnh quan liêu, giấy tờ cứng nhắc, không thích hợp với môi
trường biến động; triệt tiêu động lực thúc đẩy sự nhiệt tình, năng động của cấp dưới, không
khai thác hết các nguồn lực phát triển của doanh nghiệp.
c- Chester Barnard (1886 – 1961).

Chester Barnard tốt nghiệp Đại học Harvard và làm việc tại một công ty điện thoại
của Mỹ năm 1909, rồi 28 năm sau là Chủ tịch công ty New Jarsey Bell năm 1927. Trong
nhiều năm với cương vị công tác của mình, Ông đã đúc kết nhiều kinh nghiệm và cho ra
đời tác phẩm “Các chức năng của Quản trị” (The functions of the executive) vào năm 1938
và đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển về quản trị học cho đến ngày nay.

Lý thuyết của Chester barnard dựa trên nền tảng Chủ nghĩa nhân văn và Chủ nghĩa
kinh nghiệm, tập trung nghiên cứu cá nhân và tổ chức.

- Đối với tổ chức: Ông cho rằng, một tổ chức (xí nghiệp, công ty…) là một hệ
thống hợp tác nhiều người với 3 yếu tố cơ bản:
1. Sự sẵn sàng hợp tác,
2. Có mục tiêu chung,
3. Có sự thông đạt.
Nếu thiếu một trong 3 yếu tố này thì tổ chức bị tan vỡ.

- Đối với cá nhân: Chester Barnard nhấn mạnh yếu tố quyền hành trong tổ chức.
Nhưng Ông cho rằng, nguồn gốc của quyền hành không xuất phát từ người ra mệnh lệnh,
mà xuất phát từ sự chấp nhận của cấp dưới. Sự chấp nhận đó chỉ có thể có với 4 điều kiện:
1. Cấp dưới hiểu rõ mệnh lệnh.
2. Nội dung ra lệnh phù hợp với mục tiêu của tổ chức.
3. Nội dung ra lệnh phù hợp với lợi ích của họ.
4. Họ có khả năng thực hiện mệnh lệnh đó.


Như vậy, cá nhân và tổ chức chỉ thực sự tồn tại khi mà các bên có sự thõa mãn cho
nhau. Các đơn vị sản xuất kinh doanh cũng như các tổ chức khác, nó tồn tại dựa trên sự
cân bằng giữa sự đóng góp và sự thoã mãn của cá nhân. Một khi cá nhân nổ lực để đạt
được các mục đích mà tổ chức theo đuổi thì hoạt động của anh ta có thể xem là có kết quả.
Trong quá trình đó, nếu Anh ta đáp ứng được nhu cầu cá nhân và thõa mãn những động cơ
cá nhân, thì hoạt động đó được xem là có hiệu quả. Sự tồn tại của tổ chức phụ thuộc vào
kết quả lẫn hiệu quả. Do đó người quản trị giỏi phải tìm kiếm cả kết quả và hiệu quả.

HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu về cá nhân và tổ chức, tác phẩm của Ông còn
nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của một số vấn đề khác thuộc chuyên môn và đạo đức
như: Quyết định Quản trị, thông tin trong Quản trị, hệ thống chức vụ, sự lãnh đạo và đạo
đức trong kinh doanh, … là những ý tưởng mới lúc bấy giờ và nó luôn có giá trị về lý
thuyết cũng như thực hành Quản trị cho đến ngày nay.

d- Tóm tắt lý thuyết quản trị hành chánh.
Đồng quan điểm với lý thuyết “Quản trị một cách khoa học”, lý thuyết “Quản trị
hành chánh” chủ trương rằng, để đem lại hiệu quả phải bằng con đường tăng năng suất lao
động. Nhưng, theo Fayol muốn tăng năng suất lao động phải sắp xếp tổ chức một cách hợp
lí thay vì tìm cách tác động vào người công nhân (tức Taylor và những người trước đó xuất
phát vấn đề từ phía người công nhân, còn Fayol thì xuất phát từ phía người quản trị).
Mặc dù lúc bấy giờ có nhiều ý kiến nghi ngờ về giá trị thực tế của lý thuyết “Quản
trị hành chánh” của Fayol, nhưng ngày nay không ai có thể bác bỏ được sự thật về sự đóng
góp to lớn của nó trên phương diện lý thuyết và cả trong thực hành quản trị.
3- Tóm tắt các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Cổ điển.

a- Tóm tắt.
Tiền đề căn bản của các lý thuyết thuộc trường phái Cổ điển về quản trị là con
người thuần lý kinh tế (Rational economic man). Để nâng cao hiệu quả quản trị, họ cho

rằng phải chuyên môn hoá nhiệm vụ trong một hệ thống cấp bậc được xác định rõ ràng. Tổ
chức được xem là một hệ thống cơ học, được hoạch định và kiểm soát và điều hành bằng
quyền hành chính đáng của các nhà quản trị.

b- Các đóng góp.

- Về mặt lý thuyết: Các lý thuyết quản trị Cổ điển đã đặt nền tảng cho quản trị học
hiện đại. Trên cơ sở những ý kiến ban đầu của lý thuyết này, quản trị học đã được phát
triển mạnh mẽ và ngày càng được hoàn thiện nhờ những đóng góp bổ sung của các lý
thuyết quản trị sau này, chẳng hạn các lý thuyết thuộc trường phái Tác phong đã bổ sung
khía cạnh nhân bản. Lý thuyết định lượng về quản trị mở rộng những tư tưởng ban đầu của
lý thuyết Cổ điển …

- Về mặt ứng dụng thực tế: Không thể phủ nhận rằng, nhờ những đóng góp các lý
thuyết Cổ điển, việc quản trị các cơ sở kinh doanh, các cơ sở sản xuất, và ngay cả các cơ
quan chính quyền ở các nước phương Tây và nhiều nước khác trên thế giới đã được nâng
cao một cách rõ rệt trong nhiều thập niên của thế kỷ XX. Nhờ sự ứng dụng các nguyên tắc
và kỹ thuật quản trị của các lý thuyết Cổ điển, tình trạng quản trị luộm thuộm, tuỳ tiện tại
các cơ sở sản xuất đã được khắc phục, việc quản trị đã được đưa vào nề nếp. Từ đó, tạo
điều kiện hoàn thiện các lý thuyết quản trị và nâng cao hiệu quả quản trị.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Thực tế, sau khi Cách Mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917, Lê Nin đã đề
cao sự cống hiến to lớn của các lý thuyết Quản trị thuộc Trường phái Cổ điển và Người
cho vận dụng chúng trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Bên cạnh đó, Lê Nin cũng đã
nêu lên những luận điểm mới của mình thuộc các vấn đề về lĩnh vực quản lý, mà sau này
các nhà lý luận của Liên Xô trước đây đã đúc kết thành những nguyên tắc quản lý Xã Hội
Chủ Nghĩa (XHCN), được các nước XHCN áp dụng một cách phổ biến cả trong lĩnh vực
quản lý vĩ mô cũng như vi mô. Các nguyên tắc đó là:
- Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế.
- Nguyên tắc tập trung – dân chủ.

- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo địa phương (vùng lãnh thổ).
- Nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích trong xã hội.
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.

Trong mỗi thời kỳ phát triển xã hội khác nhau, tính phổ biến của các nguyên tắc
trên cũng không giống nhau, nhưng giá trị khoa học của chúng không hề thay đổi. Hệ
thống các nguyên tắc quản trị đó đã góp phần làm phong phú thêm cho các lý thuyết và
thực hành quản trị, đặc biệt là trong lĩnh vực quản trị hành chính cấp vĩ mô cũng như vi
mô.
c- Những hạn chế.
- Hạn chế lớn nhất của các lý thuyết quản trị Cổ điển, xem con người là”Con người
thuần lý kinh tế”, bỏ qua các khía cạnh xã hội của con người mà sau này các nhà quản trị
theo khuynh hướng tâm lý, xã hội đã cực lực phê phán và vì thế các lý thuyết quản trị
thuộc trường phái Tác phong ra đời.
- Thứ hai là, các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Cổ điển đã xem tổ chức là
một hệ thống khép kín, điều này là không thực tế. Cách nhìn nhận này không thấy được
ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đối với tổ chức và các mối quan hệ khác trong tổ
chức.

- Thứ ba là, các nguyên tắc quản trị Cổ điển mà tiêu biểu nhất là 14 nguyên tắc
quản trị của Fayol có người nghi ngờ về giá trị thực tiễn. Kastvacosenweig cho rằng, nhiều
nguyên tắc do các lý thuyết Cổ điển nêu lên chỉ là những nhận định có tính chất lương tri
thông thường và quá tổng quát, không thể áp dụng trong thực tế. Nhiều nguyên tắc lại mâu
thuẫn với nhau, ví dụ: Nguyên tắc chuyên môn hóa thường mâu thuẫn với nguyên tắc
thống nhất chỉ huy; hay quyền hành theo cấp bậc trong tổ chức lại mâu thuẫn với quyền
hành theo kiến thức chuyên môn; một số nguyên tắc giống như lời kêu gọi, tính thuyết
phục không cao, …

- Thứ tư là, xét về mặt khoa học, nhiều người nói rằng, hầu hết các tác giả trong các
lý thuyết quản trị Cổ điển là các nhà thực hành quản trị, các lý thuyết của họ đều xuất phát

từ kinh nghiệm và thiếu cơ sở vững chắc của sự nghiên cứu khoa học.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Nhằm khắc phục những hạn chế trên, các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Tác
phong hình thành.
II- TRƯỜNG PHÁI TÁC PHONG.

Ngay những thập niên đầu của thế kỷ XX, trong khi các lý thuyết quản trị Cổ điển
đang thịnh hành thì những tư tưởng tâm lý xã hội cũng đã xuất hiện, chẳng hạn như trường
hợp của Liliang Gilbreth, nhưng những tư tưởng này chưa gây được sự chú ý của các nhà
khoa học, và nhanh chóng bị lãng quên. Mãi cho đến khi các giáo sư của trường kinh
doanh Harvard (Mỹ) tham dự vào cuộc vận động nghiên cứu và nhất là cuộc nghiên cứu ở
nhà máy Hawthornes năm 1924, được xem là dấu mốc khởi sự chính thức của các lý thuyết
thuộc trường phái Tâm lý xã hội, lúc này vấn đề tâm lý xã hội mới được chính thức thừa
nhận ở Mỹ, và từ đó lan truyền ra các nước phương Tây.
Nếu trường phái Cổ điển quan tâm đến yếu tố vật chất của con người, nặng về tổ
chức, kiểm tra kiểm soát và khuyến khích bằng lợi ích vật chất thì trường phái Tác phong
hay còn gọi là trường phái Tâm lý - xã hội hay trường phái Tương quan nhân sự, họ
quan tâm đến yếu tố tâm lý, tình cảm, quan hệ xã hội của con người trong công việc. Các
lý thuyết của trường phái này cho rằng hiệu quả cũng do năng suất lao động quyết định,
nhưng năng suất lao động không phải do các yếu tố vật chất quyết định, mà do sự thỏa mãn
các nhu cầu tâm lý xã hội của con người. Các tác giả được xem là có đóng góp đáng kể cho
trường phái Tác phong đó là:
1- Hugo Munsterberg.

Nhiều nhà khoa học xem Hugo Munsterberg là người đã lập ra một ngành học mới
là mgành tâm lý học công nghiệp. Trong tác phẩm nhan đề “Tâm lý học và hiệu quả trong
công nghiệp” xuất bản năm 1913, Ông đã đặt vấn đề phải nghiên cứu một cách khoa học
tác phong của con người để tìm ra những mẫu mực chung và giải thích những sự khác biệt.

Cũng giống như các tác giả của lý thyết “Quản trị một cách khoa học” năng suất

lao động là con đường đi đến hiệu quả, nhưng năng suất lao động không do các yếu tố vật
chất mà do các yếu tố phi vật chất quyết định, Munsterberg cho rằng năng suất lao động sẽ
cao hơn nếu công việc giao phó cho họ được nghiên cứu, phân tích chu đáo và hợp kỹ năng
cũng như hợp với đặc điểm tâm lý của họ.

Từ lập luận đó, Munsterberg đã đề nghị các nhà quản trị dùng các bài trắc nghiệm
tâm lý để tuyển chọn nhân viên, và phải tìm hiểu tác phong con người trước khi đi tìm
các kỹ thuật thích hợp để động viên họ làm việc. Những ý kiến ấy, lúc đầu không được các
nhà khoa học và các nhà thực hành quản trị chú ý, nhưng càng về sau, khi mà đời sống vật
chất con người ngày càng được cải thiện thì ý kiến đó lại càng có nhiều ý nghĩa to lớn cho
quản trị.
2- Mary Parker Follet.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Nếu Hugo Munsterberg được xem là người có tư tưởng tâm lý (tâm lý trong quản
lý) đầu tiên thì Mary Parker Follet là người có tư tưởng xã hội (xã hội trong quản lý) sớm
nhất. Ông cho rằng, ngoài khía cạnh kinh tế và kỹ thuật, các doanh nghiệp còn được xem
là một hệ thống của những quan hệ xã hội, và hoạt động quản trị là một tiến trình mang
tính chất quan hệ xã hội.
Những ý kiến của Ông nhấn mạnh: ve sự chấp nhận quyền hành; sự quan trọng
của phối hợp; sự hội nhập của các thành viên trong tổ chức là những giả thuyết khoa
học hướng dẫn cho những người sau này nghiên cứu. Những ý tưởng đó được người Nhật
tin tưởng áp dụng, đem lại những thành quả nhất định.
3- Elton Mayo và cuộc nghiên cứu nhà máy Hawthornes.
Những ý kiến của Hugo Munsterberg và Mary Parker Follet trước đây cũng chỉ làm
cho các nhà khoa học để ý hơn trước về khía cạnh tâm lý – xã hội trong quản trị. Và, chỉ
khi có cuộc nghiên cứu ở nhà máy Hawthornes thuộc Công ty điện lực miền Tây
(Western Electric Company) ở gần Chicago (Mỹ) năm 1924 thành công thì các lý thuyết
quản trị thuộc trường phái Tác phong mới thực sự được các nhà khoa học thừa nhận, đánh
dấu một sự kiện lớn trong lịch sử phát triển của lý thuyết Quản trị.
Chủ đích cuộc nghiên cứu nhằm tìm xem các yếu tố vật chất (tiếng ồn, ánh sáng,

độ nóng, …) có ảnh hưởng đến năng suất lao động không? Thế là hai nhóm nữ công nhân
đã được tổ chức đưa vào cuộc nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã nâng dần tình trạng tốt
đẹp của các yếu tố vật chất và đo lường năng suất. Kết quả cho thấy khi các điều kiện vật
chất được cải thiện, năng suất lao độg đã nâng cao hơn. Tuy nhiên, khi làm cuộc thí
nghiệm ngược lại, các nhà nghiên cứu thấy rằng năng suất của các nữ công nhân này
vẫn tiếp tục gia tăng dù các điều kiện vật chất đã bị hạ xuống như lúc ban đầu.

Elton Mayo (1880 – 1949) một giáo sư về tâm lý học của trường kinh doanh
Harvard đã được tham gia vào cuộc nghiên cứu để giải thích hiện tượng được xem là
nghịch lý này. Liên tục trong 5 năm, từ 1927 đến 1932, Mayo đã tiến hành nhiều cuộc
nghiên cứu khác nhau và đã ghi nhận được nhiều khám phá quan trọng. Trong cuộc
nghiên cứu đầu tiên, Mayo thấy ánh sáng nơi làm việc không gây ảnh hưởng đến năng
suất của công nhân. Cuộc nghiên cứu thứ hai, Mayo lại thấy các điều kkiện làm việc
không có hoặc có ít quan hệ với năng suất. Cuộc nghiên cứu thứ 3, Mayo thấy tiền lương
và tiền thưởng không tạo ra tác động nào đến năng suất lao động của tập thể. Trái lại
những yếu tố có quan hệ đến năng suất lao động lại là những yếu tố phi vật chất.
Từ kết quả nghiên cứu đó, Mayo kết luận rằng giữa tâm lý và tác phong có mối
quan hệ rất chặt chẽ với nhau; và hơn nữa khi con người làm việc chung trong tập thể,
thì ảnh hưởng của tập thể lại đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra tác phong của cá
nhân. Với tư cách con người trtong tập thể, công nhân có xu hướng tuân theo các qui
định của tập thể, dù chỉ là những qui định không chính thức, hơn là những kích thích từ
bên ngoài. Những khám phá này cũng đưa đến nhận thức mới về con người trong quản
trị.
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Mặc dù bị nhiều chỉ trích về tính khoa học của các phương pháp nghiên cứu được
áp dụng, nhưng công trình của Mayo tại nhà máy Hawthornes đã mở ra một kỷ nguyên
mới trong quản trị học, và từ đấy phát triển thành “Phong trào quan hệ con người” đối
địch lại với “Phong trào khoa học”. Với sự nhấn mạnh đến mối quan hệ con người trong
quản trị, các nhà quản trị phải tìm cách gia tăng thỏa mãn tâm lý và tinh thần của nhân
viên.


4- Donglas Mc Gregor (1909 – 1964).
Phát triển các kết quả nghiên cứu của Mayo, Mc Gregor đã cho rằng các nhà Quản
trị trước đây đã tiến hành các cách thức quản trị trên những giả thuyết sai lầm về tác
phong con người. Những giả thuyết đó cho rằng, phần đông mọi người không thích làm
việc, thích được chỉ huy hơn là tự mình phải gánh vác trách nhiệm, và hầu hết mọi người
đều chỉ làm tốt công việc vì quyền lợi vật chất. Chính vì những giả thuyết sai lầm đó mà
các nhà quản trị đã xây dựng bộ máy tổ chức với quyền hành tập trung, đặt ra nhiều
nguyên tắc thủ tục, đồng thời với một hệ thống kiểm tra và giám sát chặt chẽ. Mc Gregor
đã đặt tên cho những giả thuyết này là thuyết X.
Và, Ông đề nghị một loạt giả thuyết khác, gọi là thuyết Y, sau này trở thành lý
thuyết của Ông. Ngược lại với thuyết X, thuyết Y cho rằng công nhân sẽ thích thú với
công việc nếu có được những điều kiện thuận lợi và họ có thể đóng góp nhiều hơn
cho tổ chức. Từ đó, Mc. Gregor đề nghị các nhà quản trị nên quan tâm đến sự phối hợp
hoạt động hơn là chú trọng đến các cơ chế kiểm tra không cần thiết trong tổ chức.
Thuyết Y của Mc. Gregor làm phong phú thêm cho lý thuyết quản trị. Tuy nhiên,
cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định, mà sau này tác giả lý thuyết Z, Willam
Ouchi – người Nhật Bản đã kịch liệt phê phán.
5- Chris Argyris (1923).

Đồng quan điểm với Mc. Gregor, Chris Argyris đã đưa ra những ý kiến bác bỏ các
ý kiến về sự động viên và sự thỏa mãn của công nhân của các lý thuyết Cổ điển. Ông cho
rằng, sự nhấn mạnh thái quá việc kiểm soát đối với nhân viên của các nhà quản trị sẽ đưa
nhân viên đến thái độ thụ động, lệ thuộc, né tránh trách nhiệm. Trong trạng thái tâm lý bị
ức chế, họ sẽ cảm thấy bất bình với nơi làm việc, sẽ có những tác phong tiêu cực đối với
việc hoàn thành mục tiêu chung.
Chris Argyris cho rằng, bản chất con người luôn luôn muốn là người trưởng
thành, muốn độc lập, sự phong phú trong hành động, sự đa dạng trong các mối quan
hệ, và khả năng tự làm chủ.
Từ những phân tích trên, Ông đề nghị các nhà quản trị phải tạo điều kiện cho nhân

viên tự thể hiện, xứng đáng như những người trưởng thành, và điều đó sẽ có lợi cho tổ
chức.
6- Abraham Maslow (1908 – 1970).
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Trong trường phái Tác phong, Maslow là một trong những người có lập luận sắc
sảo. Ông cho rằng, hoạt động của con người nhằm để thỏa mãn nhu cầu cá nhân (thoã
mãn về vật chất và tinh thần), sự thỏa mãn nhu cầu cá nhân ở các mức độ khác nhau
quyết định đến tác phong của họ.
Maslow xây dựng lý thuyết về nhu cầu con người gồm 5 mức độ được xếp từ
thấp đến cao: Nhu cầu về vật chất, nhu cầu được an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được
trọng vọng, nhu cầu tự hoàn thiện (Hình 2).
Hình 2: Các mức độ nhu cầu cá nhân.
Quản trị có hữu hiệu là sự đáp ứng các mức độ nhu cầu đang cần được thỏa mãn
của con người. Biết vậy, nhưng vận dụng chúng trong hực tế thì không phải dễ, bỡi một sự
thật hiển nhiên là, nhu cầu thường vượt quá khả năng cho phép đáp ứng, hơn nữa không
phải bất cứ lúc nào, lợi ích nào của cá nhân cũng phù hợp với lợi ích của tập thể, lúc đó
người quản trị chỉ có thể bớt một ít ở bên này để cho nặng bên kia chứ không thể đáp ứng
hoàn toàn được.

7- Tóm tắt các lý thuyết Quản trị thuộc trường phái Tác phong.

a- Tóm tắt.

Các lý thuyết thuộc trường phái Tác phong đã khắc phục được “con người thuần lý
- kinh tế” của các lý thuyết thuộc trường phái Cổ điển. Họ xem con người với tư cách là
những cá nhân có những mối quan hệ mật thiết trong một tổ chức. Sự tương tác giữa các cá
nhân và tập thể trong mối quan hệ thân thiện, hợp tác sẽ làm tăng năng suất lao động. Hay
nói cách khác, năng suất lao động tùy thuộc nhiều vào các yếu tố tâm lý - xã hội. Quan
điểm này được thể hiện ở các nội dung sau:


Nhu cầu vật chất
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu xã hội
Nhu cầu trọng vọng
N/c
tự hoàn
thiện
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
- Các đơn vị kinh doanh là một hệ thống xã hội, bên cạnh tính kinh tế và kỹ thuật đã
được nhận thấy.
- Con người không chỉ có thể động viên bằng các yếu tố vật chất, mà còn các yếu tố tâm
lý - xã hội.
- Các nhóm và tổ chức phi chính thức trong xí nghiệp có tác động nhiều đến tinh thần,
thái độ và kết quả lao động của công nhân.
- Sự lãnh đạo của các nhà quản trị không chỉ đơn thuần dựa vào chức danh chính thức
trong bộ máy tổ chức, mà còn phải dựa nhiều vào các yếu tố tâm lý - xã hội.
- Sự thỏa mãn tinh thần có mối liên quan chặt chẽ với năng suất và kết quả lao động.
- Sự tham gia làm tăng năng suất lao động.
- Công nhân có nhiều nhu cầu về tâm lý - xã hội cần được thỏa mãn.
- Tài năng quản trị đòi hỏi nhà quản trị phải có các kỹ năng quản trị, đặc biệt là kỹ năng
quan hệ với con người tốt.
b- Các đóng góp.
Với những luận điêm trên, các lý thuyết thuộc trường phái Tác phong đã đóng góp
to lớn vào sự nghiên cứu và thực hành quản trị: nhận rõ sự ảnh hưởng của tác phong lãnh
đạo của nhà quản trị; vai trò của các tổ chức không chính thức đối với thái độ lao động và
năng suất lao động; sự ảnh hưởng của tập thể đối với thái độ cá nhân; mối quan hệ giữa
các đồng nghiệp, mối quan hệ nhân sự trong công việc; giúp cho các nhà quản trị hiểu rõ
hơn về sự động viên con người, quan tâm hơn đối với nhân viên, đối với việc sử dụng
quyền hành và thông đạc trong tổ chức, …


Nói về “chiến lược mới về tăng năng suất lao động” của Singapore cho 10 năm
2000 – 2010, tác giả Nguyễn văn Đường (theo The Straits Times), trên báo Sài Gòn Giải
Phóng ngày 14/03/2000 viết:
“ Chính phủ Singapore vừa soạn thảo một kế hoạch mới về tăng năng suất lao động
cho 10 năm sắp tới, làm thay đổi thái độ làm việc của họ và xem nó như một phần của
chiến lược vươn tới tương lai nhằm biến Singapore thành một trong mười quốc gia có
năng suất đứng đầu thế giới về sản xuất và dịch vụ vào năm 2010.
Năm 1999, trong quyển niên giám cạnh tranh của thế giới (The World Competiveness
Yearbook), năng suất dịch vụ của Singapore được xếp hàng thứ 19 và năng suất công
nghiệp đứng hàng thứ 20.
Theo kế hoạch cuộc đổi mới tăng năng suất này, công nhân Singapore sẽ được hướng
dẫn cách tư duy để trở thành người lao động có đầu óc sáng tạo, thường xuyên tìm kiếm
giải pháp thông minh để hoàn thành công việc của mình chứ không phải chỉ giải quyết
những công việc đơn thuần trong công sở. Anh ta sẽ được khuyến khích sự sáng tạo của
mình bằng cách cộng thêm giá trị cải tiến đó vào chức danh nghề nghiệp của mình, vì thế
anh ta được đánh giá tay nghề cao hơn những người khác.
Người quản lý sẽ không đơn thuần chỉ đưa ra lời hướng dẫn mà phải cùng làm việc
với cộng sự để cắt giảm chi phí và tăng năng suất. Ông ta sẽ vận dụng tính năng động của
mình để tìm kiếm thị trường mới và đầu tư cho tương lai.

×