Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.74 KB, 29 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP
1.1. Lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
1.1.1. Khái niệm bán hàng
Bán hàng là khâu cuối cùng trong quá trình kinh doanh của một doanh
nghiệp thương mại đồng thời là hành vi thương mại nhằm thực hiện giá trị đổi
hàng thành tiền và là quá trình chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ tay người
bán hàng tay ngườ mua để nhận quyền sở hữu về tiền tệ hoặc quyền được đòi tiền
ở người mua.
Hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại là hàng hoá mua vào để bán ra
nhằm: đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu.
Quá trình bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại: là quá trình vận động
của vốn kinh doanh từ vốn hàng hóa sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả bán
hàng. Quá trình bán hàng hoàn tất khí hàng hoá đã được giao ch o người mua và
doanh nghiệp đã thu được tiền bán hàng.
Về mặt kinh tế: bản chất của bán hàng chính là sự thay đổi hình thái giá trị
của hàng hoá. Hàng hoá của doanh nghiệp chuyển từ hình thái hiện vật sang hình
thái tiền tệ. Đến đây doanh nghiệp kết thúc một chu kỳ kinh doanh tức là vòng chu
chuyển vốn của doanh nghiệp được hình thành.
Về mặt tổ chức kỹ thuật: bán hàng là quá trình kinh tế bao gồm từ việc tổ
chức đến thực hiện trao đổi mua bán hàng hoá thông qua các khâu nghiệp vụ kinh
tế kỹ thuật, các hành vi mua bán cụ thể nhằm thực hiện chức năng và doanh nghiệp
trong việc thực hiện mục tiêu của mình cũng như đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng xã hội.
1.1.2. Bán hàng và xác dịnh kết quả kinh doanh
1.1.2.1 ý nghĩa của hoạt động bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
Bán hàng là việc chuyển sang quyền sở hữu hàng hóa thành phẩm (thành
phẩm do đơn vị sản xuất ra, còn hàng hoá do đơn vị thu mua về). dịch vụ cho
khách hàng, doanh nghiệp thu được tiền hay được quyền thu tiền. Đó là quá trình
vận động của vốn kinh doanh từ vốn thành phẩm, hàng hoá sang vốn bằng tiền và
hình thành kết quả. Bán hàng có thể thoả mãn nhu cầu của các đơn vị khác hoặc


các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp gọi là tiêu thụ ra ngoài. Nếu cung cấp
giữa các đơn vị trong cùng một công ty, tập đoàn… gọi là tiêu thụ nội bộ.
Quá trình bán hàng được coi là hoàn thành khi có đủ hai điều kiện sau:
- Đơn vị bán hàng phải chuyển quyền sở hữu hàng hoá đó.
- Đơn vị mua đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Kế quả bán hàng là chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả của hoạt động lưu chuyển
hàng hoá. Nó là khoản chênh lệch khi lấy doanh thu bán hàng thuần trừ đi tổng chi
phí hoạt động kinh doanh, bao gồm: chi phí về giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Công tác bán hàng phản ánh việc giải quyết đầu ra của hoạt động kinh
doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Có thể nói, công tác bán hàng là rất quan
trọng đối với doanh nghiệp.
- Thứ nhất, đối với doanh nghiệp, sản xuất và tiêu thụ có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Sản xuất là tiền đề của tiêu thụ cũng như hoạt động mua vào tỏng
kinh doanh thương mại và ngược lại, tiêu thụ lại ảnh hưởng quyết định tới sản
xuất, tới việc thu mua hàng hóa. Nếu sản xuất ra khong tiêu thụ được hay việc
hàng không bán được, sẽ dẫn đến vốn kinh doanh bị ứ đọng, ảnh hưởng tới tình
hình sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Thứ hai: thực hiện công tác tốt bán hàng đảm bảo cho doanh nghiệp thu hồi
vốn nhanh, tăng nhanh vòng quay của vốn kinh doanh. Từ đó có tích luỹ đến tái
sản xuất mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Thứ ba: đối với nền kinh tế quốc dan, bán hàng là hoạt động đảm bảo cân
đối giữa sản xuất và tiêu dùng, cân đối tiền hàng trong lưu thông cũng như cân đối
giữa các ngành, giữa các khu vực. Thông qua việc tiêu thụ, nhu cầu của người tiêu
dùng về một giá trị sử dụng được thoả mãn và giá trị hàng hoá được thực hiện. Bên
cạnh chức năng điều hoà cung cấp hàng hoá trên thị trường, công tác bán hàng còn
góp phần quan trọng trong việc tạo ra các luồng tiền hàng chu chuyển liên tục
trong nền kinh tế, thúc đẩy các quan hệ thanh toán trong phạm vi doanh nghiệp,
ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế.
- Thứ tư: nếu xét một cách toàn diện, việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của

doanh nghiệp còn ảnh hưởng tới nhiều đối tượng khác. Đối với Ngân sách nhà
nước, nếu việc tiêu thụ thực hiện tốt có hiệu quả sẽ đảm bảo nguồn thu để doanh
nghiệp thực thi nghĩa vụ nộp thuế. Hay trong giữa các đối tác bạn hành với nhau,
nếu doanh nghiệp tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm của mình sẽ đảm bảo đúng
đơn đặt hàng về số lượng phẩm chất…tạo điều kiện cho doanh nghiệp bạn đảm bảo
đúng kịp thời tiến độ sản xuất kinh doanh…
Tổ chức tốt công tác bán hàng có ý nghĩa như vậy nhưng mối quan tâm của
doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở đây mà kết quả của việc tổ chức này. Đối với
doanh nghiệp thương mại, kết quả kinh doanh thực chất là kết quả bán hàng sẽ là
nguồn lợi nhuận chính, có ý nghĩa trên nhiều mặt:
Một là, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu để đánh giá cuối
cùng về quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, có thể là lãi hoặc lỗ và được phân
phối sử dụng theo những mục đích nhất định theo qui định của cơ chế tài chính.
Ngoài ra xác định đúng kết quả kinh doanh sẽ là cơ sở để lập kế hoạch cho
kỳ kinh doanh tiếp theo; đồng thời cung cấp số liệu cho các đối tượng quan tâm
như các nhà đầu tư, ngân hàng…..
1.1.2.2. Sự cần thiết quản lý và yêu cầu quản lý đối với công tác bán hàng và xác
định kết quả kinh doanh
* Đối với công tác bán hàng
Trong nền kinh tế thị, mục tiêu của các doanh nghiệp là thu được nhiều lợi
nhuận. Doanh nghiệp thương mại khong những cần bán được hàng hoá mà phải
bán được nhiều thì mới có khả năng thu được doanh lợi cao, đứng vững và phát
triển. Tăng nhanh quá trình tiêu thụ (bán được nhiều hàng với thời gian ngắn) sẽ
tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, tiết kiệm vốn, tránh phải sử dụng các nguồn
vốn như vốn vay, vốn chiếm dụng…đảm bảo thu hồi nhanh.
Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, việc cung cấp sản phẩm kịp
thời đúng qui cách phẩm chất…sẽ giúp doanh nghiệp đó hoàn tốt kế hoạch sản
xuất, góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Từ đó, ta thấy trong công tác quản lý nghiệp vụ bán hàng phải thoả mãn các
yêu cầu sau:

- Nắm bắt, theo dõi kịp thời chặt chẽ từng phương thức bán.
- Về giá vốn hàng xuất bán trong kỳ: đối với doanh nghiệp thương mại giá
vốn hàng xuất kho bao gồm giá mua thực tế và chi phí thu mua của số hàng đã xuất
kho. Đây là cơ sở xác định giá bán và tính toán hiệu quả kinh doanh.
- Về chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: thuộc loại chi phí có
ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy cần phân bổ
cho từng loại hàng hoá và có biện pháp giảm thiểu tối đa.
- Về phương thức thanh toán và thời hạn thanh toán.
Tuỳ thuộc vào từng khách hàng, từng loại hàng hoá mà áp dụng hình thức
thanh toán (bằng tiền mặt, séc…) và thời hạn thanh toán sao cho hợp lý đảm bảo
thu hồi vốn đảm bảo chi phí.
- Về giá bán và doanh thu: phải sử dụng giá bán như một công cụ cạnh tranh,
tăng về số lượng hàng bán ra, tăng doanh thu.
* Đối với công tác xác định kết quả bán hàng:
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là phân thu nhập lớn nhất (so với kết
quả hoạt động tài chính và kết quả hoạt động bất thường) với bất kỳ doanh nghiệp
thương mại nào. Và nếu công tác bán hàng được quản lý một cách chặt chẽ, hợp lý
và khoa học tất yếu sẽ có được kết quả bán hàng cao. Đồng thời để xác định kết
quả kinh doanh chính xác, yêu cầu đặt ra là việc xác định đúng và tập hợp đầy đủ
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán
hàng, phân bổ chi phi hợp lý cho số hàng còn lại cuối kỳ và kết chuyển chi phí cho
hàng tiêu thụ trong kỳ.
1.1.3. Các phương thức bán hàng và thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng
Việc xác định phương thức bán hàng và thời điểm ghi nhận doanh thu bán
hàng rất cần thiết vì nó ảnh hưởng đến việc tính doanh thu, xác định kết quả kinh
doanh. Có 2 phương thức bán hàng chủ yếu và một số phương thức tiêu thụ khác
như sau:
- Bán hàng theo phương thức giaqo hàng trực tiếp.
Theo phương thức này, bên khách hàng uỷ quyền cho cán bộ nghiệp vụ đến
nhận hàng, tại kho của doanh nghiệp bán hoặc giao nhận tay ba (mua bán thẳng).

Người nhận hàng sau khi ký vào chứng từ bán hàng của doanh nghiệp thì hàng hóa
được xác định là bán (hàng đã chuyển quyền sở hữu). Trong phương thức này có
các trường hợp sau:
+ Bán hàng thu tiền ngay: Doanh nghiệp bán hàng được khách hàng trả tiền
ngay. Khi đó, lượng hàng hoá được xác định ngày là đã bán, đồng thời kế toán sẽ
ghi n hận doanh thu bán hàng.
+ Bán hàng cho khách hàng chịu: Người mua chấp nhận thanh toán nhưng
chưa trả tiền ngay. Thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng là thời điểm bán hàng
nhưng doanh nghiệp chưa thu được tiền.
+ Bán hàng theo phương thức đổi hàng:
Theo phương thức này, doanh nghiệp tiến hành giao hàng cho khách hàng và
đổi lại khách hàng giao lại hàng cho doanh nghiệp với giá trị tương ứng. Khi xuất
hàng trao đổi, kế toán sẽ ghi nhận doanh thu bán hàng
+ Dùng sản phẩm trả lương, thường cho công nhân viên.
Theo phương thức doanh nghiệp sử dụng chính sản phẩm của mình để trả
lương, thưởng cho công nhân viên. Khi xuất hàng, kế toán ghi nhận doanh thu bán
hàng. Đây là khoản doanh thu do tiêu dùng nội bộ mà có.
+ Bán hàng theo phương thức trả góp:
Đây là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Người mua sẽ thanh toán
nhiều lần tại thời điểm mua, số tiền còn lại người mua chấp nhận trả ở các kỳ sau
và chấp nhận chịu tỷ lệ lãi suất nhất định. Doanh thu bán hàng là giá bán một lần
chưa có thuế GTGT.
- Bán hàng theo phương thức gửi hàng:
+ Bán hàng theo phương thức gửi hàng:
Theo phương thức này, định kỳ doanh nghiệp gửi hàng cho khách hàng trên
cơ sở thoả thuận trong hợp đồng mua bán hàng giữa 2 bên và giao nhận hàng tại
địa điểm đã qui ước trong hợp đồng. Khi xuất kho gửi hàng đi, hàng vẫn thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp, khi nào khách hàng đã trả tiền hoặc chấp nhận
thanh toán thì khi ấy hàng mới chuyển giao quyền sở hữu và lúc ấy kế toán mới ghi
nhận doanh thu bán hàng.

+ Bán hàng theo phương thức ký gửi, đại lý.
Đối với bên giao đại lý:
Hàng giao cho đơn vị đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và
chưa xác nhận là đã bán. Doanh nghiệp chỉ hạch toán vào doanh thu khi nhận được
tiền thanh toán của bên nhận đại lý hoặc được cháp nhận thanh toán. Doanh nghiệp
có trách nhiệm nộp thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) trên tổng giá trị
hàng gửi bán đã tiêu thụ mà không được trừ đi phần hoa hồng đã trả cho bên nhận
đại lý. Khoản hoa hồng mà doanh nghiệp đã trả coi như một phần chi phí bán hàng
được hạch toán vào tài khoản.
Đối với bên nhận đại lý:
Số hàng nhận đại lý không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng
doanh nghiệp có trách nhiệm bảo quản, giữ giìn bán hộ. Số hoa hồng được hưởng
là doanh thu trong hợp đồng bán hộ của doanh nghiệp. Khi nhận được tiền hoa
hồng kế toán ghi nhận doanh thu.
1.1.4. Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
Từ vai trò và sự cần thiết của quá trình bán hàng và xác định kết quả, kế toán
bán hàng và xác định kết quả cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Ghi chép đầy đủ kịp thời khối lượng thành phẩm khối lượng hàng hoá bán
ra và tiêu thụ nội bộ, và tính toán đứng đắn trị giá vốn của hàng đã bán, chi phí bán
hàng và các khoản chi phí khác nhằm xác định chính xác kết quả bán hàng. Kiểm
tra, giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, kế hoạch lợi nhuận, thanh toán
và làm nghĩa vụ với nhà nước.
- Cung cấp thông tin chính xác trung thực, đầy đủ về tình hình bán hàng, xác
định kết quả cho phục vụ cho việc lặp báo cáo tài chính như quản lý doanh nghiệp.
Như vậy, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng là công tác quan
trọng của doanh nghiệp nhằm xác định số lượng và giá trị của lượng hàng hoá bán
ra cũng như doanh thu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Song để phát huy
được vai trò và thực hiện tốt các nhiệm vụ đã nêu trên đòi hỏi phải tổ chức tốt công
tác kế toán thật khoa học, hơp lý; đồng thời cán bộ kế toán phải nắm vững nội
dung của việc tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.

1.2. Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
1.2.1. Kế toán bán hàng
* Chứng từ và luân chuyển chứng từ.
Chứng từ dùng trong kế toán bán hàng gồm có hoá đơn GTGT, hoá đơn
kiêm phiếu xuất kho, phiếu thu, phiếu chi tiền mặt, giấy báo nợ, giấy báo có của
ngân hàng.
- Trình tự luân chuyển chưng từ bán hàng như sau:
Đơn đặt h ngà
Bộ phận bán h ngà
Bộ phận t i và ụ
Kế toán tiêu t hụ & thanh toán
Kho
Bộ phận
vận chuyển
Kế toán h ng hoáà
Đầu tiên bộ phận bán hàng tiếp nhận đơn đặt hàng của khách, sau đó chuyển
đơn đặt hàng cho phòng Kế toán tài chính để xác định phương thức thanh toán. Khi
chấp nhận bán hàng, bộ phận bán hàng sẽ lập hoá đơn bán hàng. Thủ kho căn cứ và
hoá đơn kiêm phiếu xuất kho tiến hành xuất kho, ghi vào thẻ kho; sau đó chuyển
hoá đơn này cho kế toán. Căn cứ vào hoá đơn kế toán ghi sổ tiêu thụ và theo dõi
thanh toán.
Đối với chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc phải lập kịp thời, đầy đủ theo
đúng quy định về biểu mẫu, nội dung và phương pháp lập.
Người lập chứng từ phải chịu trách nhiệm về tính hợp lý, hợp pháp củ các
chứng từ về các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Mọi chứng từ kế toán phải
được tổ chức luân chuyển theo trình tự và thời gian hợp lý do kế toán trưởng quy
định nhằm phục vụ cho việc phản ánh, ghi chép tổng hợp kịp thời của các bộ phận
phòng ban có liên quan.
* Tài khoản sử dụng.
Kế toán bán hàng sử dụng một số tài khoản chủ yếu:

- TK 156 - Hàng hoá: dùng để phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn kho hàng hoá.
- TK này chia tiếp thành 2 tài khoản:
+ TK 1561: Giá của hàng hoá
+ TK 1562: Chi phí mua hàng
- TK 151: Hàng mua đang đi đường….
* Kế toán một số nghiệp vụ chủ yếu: sẽ được trình bày cụ thể ở phần "Kế
toán giá vốn hàng hoá.
1.2.2. Kế toán giá vốn hàng bán
Giá vốn hàng bán là giá gốc của sản phẩm, hàng hoá lao vụ dịch vụ đã tiêu
thụ trong kỳ. Cụ thể bao gồm: toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh gồm giá vốn
hàng xuất kho, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho hàng
đã bán.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, trị giá vốn thành phẩm xuất kho để bán hoặc
thành phẩm hoàn thành không nhập kho mà đưa đi bán ngay chính là giá thành sản
xuất thực tế của sản phẩm hoàn thành.
Đối với doanh nghiệp thương mại, trị giá vốn hàng xuất bán bao gồm trị giá
mua thực tế và chi phí mua phân bổ cho hàng bán. Trong đó nếu doanh nghiệp tính
thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì giá mua của hàng bán không có giá trị
gia tăng đầu vào, còn nếu doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực
tiếp thì giá mua của hàng bán ra bao gồm thuế GTGT đầu vào.
* Các phương pháp xác định trị giá vốn hàng xuất bán.
Phương pháp 1:
- Phương pháp này hàng hoá xuất kho chưa ghi sổ. Cuối tháng căn cứ vào số
tồn đầu kỳ và số nhập trong kỳ kế toán tính được giá bình quân của hàng hoá theo
công thức:
Đơn giá thực tế:
Từ đơn giá bình quân ta sẽ xác định được giá thực tế của hàng hoá xuất kho
theo công thức
Giá thực tế hàng hoá
Theo phương pháp này giá hàng hoá xuất kho là để cả trong kỳ có ưu điểm

là tương đối đơn giản, dễ làm nhưng có mặt hạn chế là: Phải cuối kỳ mới tính
được, do đó phương pháp này thường được sử dụng ở những doanh nghiệp có số
mặt hàng không lớn, hạch toán đơn giản.
- Phương pháp bình quân liên hoan (còn gọi là bình quân sau mỗi lần nhập).
Về cơ bản phương pháp này giống phương pháp trên nhưng đơn giá bình
quân được xác định trên cơ sở giá thực tế hàng tồn đầu kỳ và đơn giá từng lần nhập
trong kỳ. Cứ sau mỗi lần nhập kho thì lại tính giá trị thực tế bình quân sau lần nhập
đó. Và từ đó xác định giá trị hàng hoá xuất lần sau lần nhập đó.
Theo phương pháp này kế toán kôhng phải chờ đến cuối tháng mới xác định
được đơn giá xuất kho để hạch toán. Phương pháp tính giá này cho ta giá trị hàng
hoá xuất kho chính xác nhất so với giá mua. Tuy nhiên cách tính này phức tạp chỉ
phù hợp với những doanh nghiệp có ít loại hàng hoá và số lần nhập không nhiều.
Như vậy ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ kế toán cũng có thể xác định được
giá trị thựcthế hàng hoá xuất kho. Đây là phương pháp đơn giản dễ làm nhưng
không chính xác, đặc biệt trong trường hợp giữa hai kỳ hạch toán liên tiếp có sự
biến động lớn về giá cả mua vào. Phương pháp này thường được áp dụng trong
những doanh nghiệp có bộ máy kế toán đơn giản, hoạt động kinh doanh với quy
mô nhỏ.
Phương pháp 2: Phương pháp giá thực tế nhập trước xuất trước (FIFO).
Trong điều kiện giả định rằng hàng hoá nào nhập kho trước sẽ được xuất
trước và giá thực tế giá hàng hoá xuất koh được tính theo đơn giá thực tế của số
hàng thuộc các lần nhập trước nhân với số lượng hàng hoá xuất kho tương ứng.
Phương pháp này thường được áp dụng cho những doanh nghiệp quản lý cao
về điều kiện bảo quản, thời gian…nó giúp doanh nghiệp xác định chính xác doanh
thu và lợi nhuận tương ứng.
Phương pháp 3: Phương pháp giá thực tế nhập xuất trước (LIFO)
Bản chất của phương pháp này cũng như phương pháp FIFO nhưng làm
ngược lại. Giả định rằng hàng nào nhập sau sẽ được xuất trước tiên với đơn giá là
đơn giá của lần nhập tương ứng.
Phương pháp này thường được áp dụng với những doanh nghiệp mà giá mua

biến động mạnh qua các lần nhập. Do đó để hạch toán tăng thu nhập thì doanh
nghiệp sẽ áp dụng phương pháp tính giá này khi giá đầu vào giảm dần và ngược
lại.
Nói chung, hai phương pháp nhập trước xuất trước và nhập sau xuất trước sẽ
cung cấp những giá trị chính xác của hàng hoá xuất kho trong nhiều trường hợp

×