Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.08 KB, 30 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TRONG
DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU .
I. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TRONG CƠ
CHẾ THỊ TRƯỜNG.
1.Vai trò hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường.
Nhập khẩu có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam, góp phần mở
rộng thị trường cho sản xuất trong nước đồng thời bổ xung những tư liệu sản xuất
và nguyên vật liệu giúp nền kinh tế nước nhà.
1.1 Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong nền kinh tế thị
trường.
Hoạt động nhập khẩu có vai trò mua hàng hoá dịch vụ để thực hiện cân đối cơ
cấu kinh tế, kích thích sản xuất trong nước phát triển và lại tác động ngược trở lại
đối với hoạt động xuất khẩu. Hoạt động nhập khẩu tạo ra xu hướng hợp tác hoá
toàn cầu, các nước có điều kiện liên kết và hợp tác kinh tế lại với nhau. Các nước
phát huy thế mạnh và tận dụng lợi thế của nước khác nhằm phục vụ cho sự phát
triển kinh tế của nước mình.
Đối tượng của nhập khẩu không chỉ đơn thuần là những mặt hàng phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân mà còn cung cấp trang thiết bị, tư liệu sản xuất hiện
đại phục vụ cho sự phát triển sản xuất cho tất cả các ngành, các địa phương, sản
xuất trong nước chưa đáp ứng được vật tư, máy móc, thiết bị, dây truyền công
nghệ phục vụ cho sản xuất trong nước. Thông qua hoạt động nhập khẩu thúc đẩy
sự phát triển của khoa học kỹ thuật dưới hình thức mua bán máy móc, thiết bị, dây
truyền công nghệ của nước ngoài. Tất nhiên nhập khẩu hàng hoá không phải là con
đường chủ yếu để phát triển một nền kinh tế tự chủ. Mà xu thế chung của thế giới
hiện nay là “Thay thế hàng nhập khẩu là con đường dẫn đến công nghiệp hoá”.
Nước ta là nước có nền kinh tế đang phát trỉên nên có sự mất cân đối trên
nhiều mặt: Tiền tệ, hàng hoá, sản xuất & tiêu dùng… Vì vậy nhập khẩu đóng một
vai trò quan trọng.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn phát triển chậm chạp, kỹ thuật lạc
hậu, thiếu vốn, trình độ quản lý còn hạn chế thì việc nhập khẩu máy móc, thiết bị,
vốn, công nghệ…sẽ tạo điều kiện tiền đề, vật chất thúc đẩy nền kinh tế phát triển.


Hoạt động nhập khẩu còn tranh thủ khai thác được tiềm năng thế mạnh về hàng
hoá, về vốn, công nghệ của nước ngoài cũng như tăng cường giao lưu quốc tế
nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường hiểu biết lẫn nhau trên thương
trường quốc tế.
Như vậy nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và
đời sống trong nước.
Tuy nhiên chọn mặt hàng nhập khẩu nào, thị trường ở đâu, phương thức thanh
toán như thế nào vẫn là những vấn đề cần thiết phải đặt ra cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu. Do nước ta có nền kinh tế kém phát triển nên việc nhập khẩu máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ là cần thiết. Nhưng Nhà nước cần phải quản lý
chặt chẽ để tránh tình trạng chạy theo lợi nhuận để nhập các thiết bị máy móc lỗi
thời, lạc hậu và những mặt hàng tiêu dùng kém phẩm chát nhằm thúc đẩy nền kinh
tế phát triển và bảo vệ sức khoẻ cho người tiêu dùng. Do vậy, đối tượng của hoạt
động nhập khẩu thường xuyên chịu sự chi phối của chính sách xuất nhập khẩu cuả
Nhà nước. Nhà nước tiến hành quản lý hoạt động này bằng các chính sách như:
Giấy phép nhập khẩu, thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, điều chỉnh tỷ giá hối
đoái và các văn bản pháp luật quy định danh mục mặt hàng được phép nhập khẩu.
Những quy định này thường xuyên được điều chỉnh, sửa đổi sao cho phù hợp với
mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của
nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo định hướng công nghiệp hoá đất nước.
- Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển
kinh tế cân đối và ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân, vừa thoả
mãn nhu cầu trực tiếp của người dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho
sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể
hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường

thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài.
2. Đặc điểm hoạt động nhập khẩu trong doanh nghiệp.
2.1.Đặc điểm nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá.
2.1.1Nội dung, phạm vi thời điểm xác định hàng nhập khẩu.
* Hàng nhập khẩu là hàng hoá nước ta mua của nước ngoài theo các hợp đồng
ký kết giữa các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước với nước ngoài.
Hàng nhập khẩu thường được đóng bao, gói nguyên đai, nguyên kiện, nguyên toa,
nguyên tàu, bên ngoài ghi rõ các ký hiệu để phục vụ cho việc giao nhận, vận
chuyển.
* Những hàng hoá sau được coi là hàng nhập khẩu:
- Hàng mua của nước ngoài bao gồm cả máy móc thiết bị tư liệu sản xuất
hàng tiêu dùng và dịch vụ khác căn cứ vào những hợp đồng nhập khẩu mà các
doanh nghiệp của nước ta đã ký kết với doanh nghiệp hay tổ chức kinh tế của nước
ngoài.
- Hàng hoá nước ngoài đưa vào tham gia hội chợ, triển lãm nước ta, sau đó
doanh nghiệp xuất nhập khẩu mua lại và thanh toán bằng ngoại tệ.
- Hàng hoá nước ngoài viện trợ cho nước ta trên cơ sở các hiệp định, nghị
định thư ký kết hợp giữa Chính phủ nước ta và nước ngoài thực hiện thông qua các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
* Thời điểm xác định hàng nhập khẩu.
Theo thông lệ chung và nguyên tắc kế toán được thừa nhận thì thời điểm
xác định là hàng nhập khẩu khi có sự chuyển quyền sở hữu hàng hoá và tiền tệ.
Thời điểm này phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng mà hai bên thoả thuận.
- Nếu hàng nhập khẩu vận chuyển theo đường biển thì hàng nhập khẩu được
tính từ ngày hàng đến hải vận nước nhập, hải quan cảng biển đã ký xác nhận vào tờ
khai hàng nhập khẩu.
- Nếu hàng hoá nhập khẩu vận chuyển bằng đường sắt hoặc đường bộ thì
hàng nhập khẩu theo xác nhận của hải quan cửa khẩu.
- Nếu hàng nhập khẩu bằng đường hàng không thì hàng nhập khẩu được tính
từ ngày hàng đến sân bay đầu tiên của nước nhập khẩu theo xác nhận của hải quan

sân bay đã hoàn thành thủ tục.
Việc xác định hàng nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn trong việc ghi chép kế toán
đúng đắn chỉ tiêu doanh số nhập khẩu, giải quyết những thủ tục thanh toán, tranh
chấp, khiều nại...
2.1.2. Các phương thức, hình thức kinh doanh nhập khẩu hàng hoá.
a. Phương thức nhập khẩu:
Hoạt động nhập khẩu được thực hiện bằng hai phương thức:
- Nhập khẩu theo nghị định thư
- Nhập khẩu tự cân đối: Ngoài nghị định thư
Hai phương thức trên đều có thể được thực hiện theo các hình thức sau:
- Nhập khẩu trực tiếp
- Nhập khẩu uỷ thác.
b. Các hình thức nhập khẩu:
- Nhập khẩu trực tiếp: Là hình thức nhập khẩu mà trong đó các doanh nghiệp
kinh doanh nhập khẩu có đầy đủ những điều kiện kinh doanh nhập khẩu và được
bộ thương mại cấp giấy phép cho phép trực tiếp giao dịch, ký kết hợp đồng mua
bán hàng hoá và thanh toán với nước ngoài phù hợp với luật pháp của hai nước.
- Nhập khẩu uỷ thác là hình thức nhập khẩu được áp dụng đối với các doanh
nghiệp có hàng hoá nhưng không có khả năng điều kiện và chưa được nhà nước
cho phép nhập khẩu trực tiếp nên phải nhờ các doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp
và nhập khẩu hộ. Theo hình thức này doanh nghiệp uỷ thác được hạch toán doanh
thu nhập khẩu. Còn đơn vị nhận uỷ thác chỉ đóng vai trò đại lý và được hưởng hoa
hồng theo sự thoả thuận giữa hai bên ký kết hợp đồng uỷ thác nhập khẩu.
- Nhập khẩu hỗn hợp: là sự kết hợp của hai hình thức trên . Doanh nghiệp có
thể vừa nhập khẩu trực tiếp vừa nhờ đơn vị khác nhập khẩu hoặc nhận uỷ thác
nhập khẩu.
2.1.3. Đồng tiền thanh toán
Trong qua trình đàm phán, ký kết hợp đồng, các bên phải thoả thuận với
nhau về việc dùng loại tiền nào để thanh toán và cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó
bị biến động.

Đồng tiền dùng vào việc thanh toán gọi là đồng tiền thanh toán (Money of
payment). Đồng tiền thanh toán có thể bằng đồng tiền mước xuất khẩu hoặc đồng
tiền của nước nhập khẩu hoặc bằng đồng tiền của nước thứ ba. Đó thường là một
trong những ngoại tệ mạnh như USD, EUR, GBP, JPY…
Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng thương mại
quốc tế nói chung phụ thuộc các yếu tố sau:
- Sự so sách lực lượng của hai bên mua và bán.
- Vị trí của đồng tiền trên trường quốc tế.
- Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới.
- Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới.
Khi tiến hành thanh toán, đặc biệt trong nhập khẩu hàng hoá bên nào cũng
muốn sử dụng đồng tiền của nước mình vì có những lợi điểm sau:
- Có thể qua đó nâng cao địa vị đồng tiền nước mình trên thị trường thế giới.
- Không phải dùng đến ngoại tệ để trả nợ nước ngoài.
- Có thể tránh được rủi ro do tỷ giá tiền tệ nước ngoài biến động gây ra.
- Có thể tạo điều kiện tăng thêm xuất khẩu hàng của nước mình.
Đồng tiền thanh toán có thể trùng hợp với đồng tiền tính giá (Account
currency – Đồng tiền thể hiện giá cả và dùng để tính toán tổng giá trị hợp đồng) và
cũng có thể không trùng hợp. Khi đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính giá là hai
đồng tiền khác nhau, người ta phải xác định tỷ giá để quy đổi hai đồng tiền đó.
Trong đó, đặc biệt người ta lựa chọn:
- Đó là tỷ giá chính thức hay tỷ giá thị trường.
- Đó là tỷ giá của công cụ thanh toán nào (tỷ giá chuyển tiền bằng điện hay
bằng thư).
- Đó là tỷ giá tiền tệ nước nào (ở nước xuất khẩu, ở nước nhập khẩu hay ở
nước thứ ba).
- Đó là tỷ giá mua vào hay bán ra.
Vì lợi ích của mình, người xuất khẩu muốn chọn đồng tiền thanh toán là một
đồng tiền ít có khả năng mất giá, tự do chuyển đổi hoặc dễ dàng đổi ra vàng còn
người nhập khẩu thì ngược lại.

2.1.4. Địa điểm thanh toán:
Khi quy định địa điểm thanh toán vì lợi ích của mình, cả hai bên xuất khẩu và
nhập khẩu đều muốn lấy nước mình làm địa điểm thanh toán, cụ thể là:
- Đối với người nhập khẩu, khi trả tiền tại nước mình có thể đến ngày trả tiền
mới phải chi tiền ra, đỡ bị đọng vốn. Còn đối với người xuất khẩu, có thể thu tiền
về nhanh chóng nên luân chuyển vốn nhanh.
- Ngân hàng nước mình thu được thủ tục phí của nghiệp vụ thanh toán quốc
tế.
- Có thể tạo điều kiện nâng cao được địa vị của thị trường tiền tệ nước mình
trên thị trường thế giới.
Địa điểm thanh toán trong thương mại quốc tế có thể ở nước người nhập khẩu
hoặc ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước thứ ba. Nhưng trong thực tế việc xác
định địa điểm thanh toán phụ thuộc quan trọng vào thế và lực của hai bên, ngoài ra
còn có thể thấy nếu sử dụng đồng tiền của nước người xuất khẩu hay nước người
nhập khẩu để thanh toán thì địa điểm thanh toán thường là ở nước có đồng tiền
được sử dụng để thanh toán.
2.1.5. Thời gian thanh toán.
Thời hạn thanh toán có quan hệ chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn, lợi tức khả
năng có thể tránh được rủi ro do biến động về tiền tệ thanh toán, nên nó là vấn đề
quan trọngvà thường là sự thoả thuận khó khăn trong giao dịch đàm phán khi ký
kết hợp đồng. Hiện nay, có ba cách quy định về thời gian thanh toán mà hai bên
phải thoả thuận chọn lấy một. Đó là trả tiền trước, trả tiền ngay hay trả tiền sau:
a. Trả tiền trước ( Advance Paymen)
Điều kiện trả tiền trước nghĩa là sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương
được ký kết, doanh nghiệp xuất nhập khẩu giao cho đối tác toàn bộ hoặc một phần
tiền hàng trước khi hàng hoá được đặt dưới quyền định đoạt của mình hoặc trước
khi đối tác thực hiện đơn hàng của mình. Mức tiền ứng trước nhiều hay ít phụ
thuộc vào tầm quan trọng của hàng hoá.
Hiện nay, tiền ứng trước thường chỉ từ 5 – 10% giá trị hợp đồng. Số tiền này
chính là khoản tiền tín dụng mà người mua cung cấp cho người bán. Mục đích của

việc trả tiền trước có thể là người mua muốn cấp tín dụng ngắn hạn cho người bán
hay để đảm bảo thực hiện hợp đồng. Nếu khoản tiền trả trước lớn, thời hạn tương
đối dài, thì giá hàng khi bán sẽ giảm bớt so với giá thị trường, còn nếu trả trước để
đảm bảo thực hiện hợp đồng thì thời hạn trả trước thường rất ngắn (10 hay 15
ngày). người bán chỉ giao hàng khi nhận được báo có số tiền ứng trước và thông
thường không tính lãi đối với số tiền ứng trước này.
b. Trả tiền ngay
Là việc thanh toán vào trước lúc hoặc trong lúc người xuất khẩu đặt chứng từ
hàng hoá hoặc đặt bản thân hàng hoá dưới quyền định đoạt của người mua. Việc trả
tiền ngay có thể được tiến hành bằng cách trả toàn bộ tiền hàng ngay một lúc, hoặc
bằng cách trả từng phần.
Việc trả toàn bộ tiền hàng ngay một lúc đòi hỏi người mua phải trả toàn bộ
giá trị hàng theo một trong các điều kiện sau:
- Khi nhận được điện báo của người xuất khẩu về việc đã sẵn sàng để gửi
hàng.
- Khi nhận được điện báo của người chuyên chở về việc đã hoàn thành việc
bốc hàng ở địa điểm đã gửi hàng.
- Khi toàn bộ chứng từ quy định trong hợp đồng được trao cho người mua.
- Sau một số ngày hoặc một số giờ ưu huệ nhất định kể từ khi toàn bộ chứng
từ quy định được trao cho người mua.
Việc trả ngay từng phần đòi hỏi người mua phải trả tiền hàng trong một số đợt
được thoả thuận trong hợp đồng, căn cứ vào các điều kiện giao hàng hoặc mức độ
sẵn sàng của hàng hoá.
c. Trả tiền sau
Là việc người bán cung cấp cho người mua một khoản tín dụng theo sự thoả
thuận của hai bên. Khoản tín dụng này được hoàn trả bằng tiền hoặc bằng hàng
hoá. Trả tiền sau thường gồm các loại:
- Trả tiền sau một ngày nào đó kể từ ngày nhận được thông báo của người
bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, không trên phương tiện vận tải tại nơi giao
hàng quy định (Chẳng hạn: Các điều kiện giao hàng tại xưởng EXW, giao dọc mạn

tàu FAS, giao tại biên giới DAF, giao cho người vận tải FCA – Incoterms 2000).
- Trả tiền sau một số ngày nào đó kể từ ngày người bán đã hoàn thành giao
hàng trên phương tiện vận tải tại nơi giao hàng.
- Trả sau một số ngày nào đó kể từ ngày người mua nhận được toàn bộ chứng
từ quy định trong hợp đồng.
- Trả tiền sau một số ngày nào đó kể từ ngày nhận xong hàng hoá.
Ở hai hình thức trả trước và trả sau các bên thường quan tâm đến số tiền tín
dụng, thời hạn tín dụng, lãi suất tín dụng và điều kiện hoàn trả. Hiện tại đồng tiền
nước ta mất giá liên tục so với ngoại tệ, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không
nên mua hàng trả chậm, nếu cần thiết thì khi mua phải tính toán chu đáo, phải
lường trước sự tăng giá của ngoại tệ khi đến hạn thanh toán và phải tôn trọng các
quy định của Nhà nước.
2.1.7. Phương thức thanh toán.
Phương thức thanh toán quốc tế là điều kiện quan trọng bậc nhất trong các
điều kiện thanh toán quốc tế cũng như trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngoại
thương. Phù hợp với thông lệ quốc tế, tập quán của mỗi nước cũng như từng hợp
đồng ngoại thương, hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu sử dụng một
số phương thức thanh toán quốc tế thông dụng sau:
* Phương thức trả tiền mặt
Người mua thanh toán tiền mặt cho người bán khi ký hợp đồng hoặc đặt
hàng (CWD - cash with order) hoặc trước khi người bán giao hàng (CBD – Cash
before delivery) hoặc khi người bán giao hàng ( COD – Cash on delivery) hoặc khi
người bán xuất trình chứng từ . Phương thức này tuy đơn giản nhưng trong thanh
toán quốc tế hiện nay ít dùng vì rủi ro cao và hiệu quả thấp.
* Phương thức chuyển tiền
Có thể trả bằng điện (T/T) hoặc có thể chuyển bằng thư(M/T)
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán mà trong đó khách hàng
(người trả tiền, người mua, người nhập khẩu) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển
một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán, người xuất khẩu) ở một địa
điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.

* Phương thức nhờ thu.
Bao gồm nhờ thu phiếu trơn hoặc nhờ thu kèm chứng từ. Là phương thức
thanh toán mà trong đó, người bán sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc
cung ứng dịch vụ cho người mua sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người mua, uỷ thác
cho ngân hàng của mình thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập
ra, còn chứng từ hàng hoá thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
* Phương thức tín dụng chứng từ:
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là sự thoả thuận mà trong đó,
một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người
mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi
số tiền cuả thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong
phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh
toán phù hợp với những quy định đề ra trong một văn bản gọi là thư tín dụng
(Letter of credit – L/C).
Trong thương mại quốc tế, các bên tham gia trong phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ bao gồm:
- Người xin mở thư tín dụng: là người mua, người nhập khẩu hàng hoá.
- Ngân hàng mở thư tín dụng: là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu,
nó cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
- Người hưởng lợi thư tín dụng: là người bán, người xuất nhập khẩu hay bất
cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng: là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
* Sơ đồ trình tự hạch toán bằng thư tín dụng:
8
Ngân h ng mà ở L/C
Ngân h ng thông báoL/Cà
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
7
1

2
5
6
6
5
3
4
3.
Giải thích sơ đồ:
1
Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C và gửi cho ngân hàng phục vụ mình
yêu cầu mở L/C cho người xuất nhập khẩu hưởng.
2
Căn cứ vào yêu cầu và đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một hộp
thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu
thông báo về việc mở L/C và chuyển L/C đến người xuất khẩu.
4
3
Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người
xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở L/C, và khi nhận được bản
gốc L/C thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
Người bán nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, nếu không thì đề nghị
người mua và ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp
đồng, đến khi chấp nhận mới giao hàng.
5
Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu
của L/C xuất trình trong ngân hàng L/C thông qua ngân hàng thông báo để
đòi tiền.
6
7

Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy không phù hợp với L/C thì
trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi
trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng
hoá cho người nhập khẩu.
8
Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì hoàn trả
tiền lại cho ngân hàng mở L/C, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả
tiền.
Các loại thư tín dụng sử dụng trong thanh toán quốc tế:
- Thư tín dụng có thể huỷ bỏ ( Revocable L/C ).
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C )
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ, miễn truy đòi (Irrevocable without
recourse L/C ).
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ, có xác nhận
- Thư tín dụng đối ứng
- Thư tín dụng có thể chuyển nhượng
- Thư tín dụng tuần hoàn
- Thư tín dụng giáp lưng
- Thư tín dụng với điều khoản đỏ
- Thư tín dụng dự phòng
Ngoài các phương thức thanh toán trên người ta còn sử dụng các phương tiện
thanh toán quốc tế như hối phiếu, séc, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ thông
minh. ..Trong các loại thanh toán trên thì séc và hối phiếu được sử dụng nhiều nhất
hiện nay.

×