Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Một số nhận xét về thực hiện tiêm an toàn của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 43 trang )

B ộ Y TẾ
TRƯ Ờ NG ĐẠI HỌC ĐIỀU D Ư Ỡ N G NAM ĐỊNH

Ỉ M lẮ & M Ằ
NGUYỄN XUÂN HÙNG

M ỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ T H ự C HIỆN TIÊM AN TOÀN CỦA
ĐIỀU DƯ Ỡ NG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HỊA BÌN H
ĩ l M M t o . É U í ưỡn«

-3 S F
SỐ :.C .K .LL.

Chuyên ngành: Điều dưõng Nội

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

Giảng viên hướng dẫn:
TS.BS.G VC NGƠ HUY HỒNG


r" r p ’

ẨÊ)


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện báo cáo chuyên đề, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn cũng như sự giúp đỡ, động viên của các thầy cô giáo, các
đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hịa Bình, gia đình và bạn bè. Đến nay, báo
cáo chun đề đã được hồn thành.


Với sự kính trọng và lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân
thành tới:
TS.BS.GVC Ngơ Huy Hồng - Phó Hiệu trưởng, Trường Khoa Điều dường
- Hộ sinh, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định là người thầy đã tận tình chỉ bảo,
hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành báo cáo
chuyên đề.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phịng Đào tạo Sau Đại học, các
phòng ban và các thầy cô giáo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã cho tôi
kiến thức, những kinh nghiệm quý báu và tạo điều kiện, giúp dỡ tơi trons, thời £Ìan
học tập tại trường.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành nhất đến Ban Giám đốc, các
đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hịa Bình đã tận tình giúp đờ và tạo điều
kiện để tơi có thể hồn thành tốt khóa học này.
Tơi cũng bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc tới gia đình, đồng nghiệp,
bạn bè và tập thể lớp Chuyên khoa cấp I khóa 3 những người đã giành cho tơi tình
cảm và nguồn động viên khích lệ.


MỤC LỤC
Danh mục từ viết t ắ t ...................................................................................

I

Danh mục bảng b iể u ...................................................................................

II

1.

1


2.

3.

4.

5.

6.

Đặt vấn đ ề ..........................................................................................
Mục tiêu khóa lu ậ n ..........................................................................

2

Cơ sở lý lu ậ n ...........................................................................................

3

2.1.

Các khái niệm sử dụng trong khóa lu ậ n .................................

3

2.2.

Quan điểm và chính sách về tiêm an to à n ..............................


7

Cơ sờ thực tiễ n .......................................................................................

16

3.1.

Thực trạng tiêm an toàn tại một số địa phư ơ ng.....................

16

3.2.

Thực trạng tiêm an tồn tại BVĐK tinh Hịa B ìn h ................

21

Đề xuất các giải p h á p ............................................................................

32

4.1.

Giảm thiểu các mũi tiêm mà điều dưỡng phải thực h iệ n .......

32

4.2.


Đảm bảo xe tiêm c h u ẩn .............................................................

32

4.3.

Đảm bảo đúng thuốc và công khai hợp l ý ...............................

33

4.4.

Tăng cường kiến thức về tiêm an to à n .....................................

33

4.5.

Đảm bảo công tác vô khuẩn trong thực hành T A T ................

33

4.6.

Giảm và tránh các thương tổn do vật sắc n h ọ n .......................

33

Kết lu ậ n ....................................................................................................


35

5.1.

Phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho T A T ..........................

35

5.2.

Kiến thức, thực hành TAT của Điều d ư ỡ n g ............................

35

5.3.

Các yếu tố k h á c .........................................

36

5.4.

Các giải pháp được đưa ra nhằm tăng cường T A T ................

36

Tài liệu tham khảo

37



DANH MỤC CHỮ VIÉT TẮT

Tên đầy đủ

Tên viết tắt
BKT

Bơm tiêm, kim tiêm

BT

Bơm tiêm

BVĐK

Bệnh viện đa khoa

CTSN

Chất thải sắc nhọn

ĐDV

Điều dưỡng viên

KBCB

Khám bệnh, chữa bệnh


KT

Kim tiêm

KSNK

Kiểm soát nhiễm khuẩn

NB

Người bệnh

NVYT

Nhân viên y té

PPE

Phương tiện phịng hộ cá nhân

SK

Sát khuẩn

TAT

Tiêm an tồn

VST


Vệ sinh tay

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

SIGN

Mạng lưới TAT toàn cầu

VSN

Vật sắc nhọn

I
m

tu « l í 1


DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

Hình 1: Đậy nắp kim khơng dùng hai bàn tay
Hình 2: 5 thời điểm chính vệ sinh tay
Hình 3: Góc độ kim trong các loại tiêm
Hình 4: Thùng kháng thủng chuẩn
Hình 5: lọ kháng thủng tự tạo
Hình 6: Máy cắt kim sau tiêm
Hình 7: Xe tiêm sắp xếp khơng họp lý
Hình 8: Hộp đựng bơng gạc tẩm cồn dùng sát khuẩn vùng tiêm không đúng



1.

ĐẶT VÁN ĐÈ
Tiêm là một trong các biện pháp để đưa thuốc, chất dinh dưỡng vào cơ thể

nhằm mục đích chẩn đốn, điều trị và phịng bệnh. Trong điều trị, tiêm có vai trị rất
quan trọng, đặc biệt trong trường hợp người bệnh cấp cứu, người bệnh nặng. Trong
lĩnh vực phịng bệnh, tiêm chủng đã có tác động mạnh vào việc giảm tỷ lệ mắc và tỷ
lệ tử vong đối với 6 bệnh truyền nhiễm có thể phịng bàng vắc xin ở trẻ em. Trong
bệnh viện, thủ thuật tiêm do điều dưỡng viên, hộ sinh viên khối lâm sàng dảm
nhiệm chính.
Hàng năm, tồn thế giới có khoảng 16 tỉ mũi tiêm, 90% - 95% mũi tiêm nhằm
mục đích điều trị, chỉ 5% - 10% mũi tiêm dành cho dự phòng. Tuy vậy, khoảng
70% các mũi tiêm sử dụng trong điều trị khơng thực sự cần thiết và có thể thay thế
được bằng thuốc uống[201’[22]. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), có tới 50% mũi
tiêm tại các nước đang phát triển là khơng an tồn và tiêm khơng an tồn có thể gây
ra những biến chứng như: áp xe, teo cơ tại vùng tiêm, sốc phản vệ và đặc biệt là
nguy cơ lây truyền các Virus qua đường máu như viêm gan B, viêm gan

c và HIV

cho cả người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng. Thống kê năm 2000 của WHO cho
thấy tiêm khơng an tồn gây ra 32% số ca nhiễm HBV mắc mới, 40% số ca nhiễm
HCV mắc mới, 5% số ca nhiễm HIV mắc mới trên toàn cầu. Các tác nhân gây bệnh
đường máu cũng góp phần gây bệnh ờ nhân viên y tế. Ước tính: 4,4% ca nhiễm
HIV, 39% ca nhiễm HBV và HCV là do tổn thương nghề nghiệptl91’í23k Nhiễm
khuẩn chéo sang nhân viên y tế khác và sang người bệnh (NB) có thể từ tay nhân
viên y tế (NVYT), thuốc, thiết bị và dụng cụ y tế hoặc bề mặt môi trường. Do đó,

các kỹ thuật và quy trình tiêm an tồn góp phần đảm bảo an tồn cho NB và
NVYT[18].
Tại Việt Nam, trong những năm qua đã có nhiều nghiên cứu về kiến thức và
thực hành tiêm tại các bệnh viện và kết quả đã chỉ ra rằng kiến thức và nhất là thực
hành tiêm an toàn của các điều dưỡng viên tại các bệnh viện còn rất nhiều hạn ché,
tỷ lệ mũi tiêm đạt đầy đủ các tiêu chí mũi tiêm an toàn dao động từ 2,88% đến
35,3%. Trong 1 nghiên cứu tại BVĐK tỉnh Hịa Bình[9], thì tỷ lệ thực hành mũi tiêm
an toàn đạt 22%. Tuy nhiên, các nghiên cửu trên sử dụng bộ công cụ đo lường kiến
1


thức, thực hành TAT của điều dưỡng viên tương đối khác nhau, một số nội dung
chưa cập nhật. Trong nghiên cứu mới đây của Hà Thị Kim Phượng'14), thực hiện tại
3 bệnh viện (hạng I, II, III) của thành phố Hà Nội, có xây dựng bộ cơng cụ đo lường
theo hướng dẫn mới nhất về thực hành tiêm an toàn tại các cơ sở y tế của Bộ y tế
ban hành thì tỷ lệ thực hành tiêm an tồn cũng là 32,1%. Khi phân tích kết quả của
các nghiên cứu thì thấy rằng, tỷ lệ thực hành mũi tiêm an toàn đạt thấp là do một số
bước trong hướng dẫn mới cập nhật thêm và một số yếu tố liên quan khác như: Các
mũi tiêm khơng cần thiết có thể thay thế bằng thuốc uống hoặc thuốc bôi; tỷ lệ nhân
viên điều dưỡng được cập nhật các thông tin về tiêm an toàn chưa cao; tỷ lệ diều
dưỡng viên sử dụng hộp kháng thủng còn thấp; tỷ lệ điều dưỡng viên dùng hai tay
để đóng nắp kim trước và sau khi tiêm còn khá cao; tỷ lệ điều dưỡng viên tuân thù
vệ sinh tay trước và sau khi thực hiện mũi tiêm cịn thấp; chuẩn bị bơng aạc có tẩm
cồn cho việc sát khuẩn da khi tiêm khơng đúng cịn cao...
Đến thời điểm hiện nay, tại BVĐK tỉnh Hịa Bình đã và đang thực hiện việc
giám sát cũng như đánh giá sự tuân thủ thực hiện mũi tiêm an toàn của điều dưỡng
trong toàn bệnh viện theo hàng tuần, hàng tháng và hàng quý. Kết quả thu được,
hầu hết các mũi tiêm đều được thực hiện theo đúng hướng dẫn về tiêm an toàn trong
các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh - ban hành kèm theo quyết định 3671/QĐ-BYT
ngày 27 tháng 9 năm 2012 của Bộ y tế. Tuy nhiên, vẫn cịn có một sổ bước trong

quy trình, ở một số thời điểm và một số điều dưỡng thực hiện chưa thật đầy đủ. Do
vây, trong báo cáo chuyên đề về TAT này, tôi xin được đưa ra một số nhận xét về
việc thực hiện tiêm an toàn của Điều dưỡng BVĐK tinh Hịa Bình trong 6 tháng đầu
năm 2016 nhằm thực hiện
1.



m ục tiêu:

tả thực trạng tiêm an tồn của điều dưỡng tại BVĐK tỉnh Hò

trong 6 tháng đầu năm 2016.
2.

Đ ề xuất một số giải pháp để nâng cao thực hiện tiêm an toàn của điều

dưỡng tạiB V Đ K tỉnh Hịa Bình trong 6 tháng đầu năm 2016.

2


2.

C ơ SỞ LÝ LUẬN

2.1. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
Khái niệm về tiêm an toàn
Theo WHO[I9l, tiêm an tồn là một quy trình tiêm khơng gây nguy hại cho
người nhận mũi tiêm, không gây phơi nhiễm cho người thực hiện mũi tiêm và

không tạo chất thải nguy hại cho người khác và cộng đồng.
Mũi tiêm an toàn
Mũi tiêm an tồn mà BVĐK tỉnh Hịa Bình đang triển khai thực hiện là mũi
tiêm đạt đủ 29 tiêu chí thực hành trong bảng kiểm đánh giá thực hành tiêm an tồn
(phụ lục).
Mũi tiêm khơng an tồn
Mũi tiêm khơng an tồn trong nghiên cứu là mũi tiêm có từ một tiêu chí thực
hành khơng đạt trở lên bao gồm những đặc tính sau: dùng bơm tiêm, kim tiêm
(BKT) khơng vơ khuẩn, tiêm không đúng thuốc theo chỉ định; không thực hiện
đúng các bước của quy trình tiêm; các chất thải, đặc biệt là chất thải sắc nhọn sau
khi tiêm không phân loại và cô lập ngay theo quy chế quản lý chất thải của Bộ y
tếra.
Chất sát khuẩn
Các chất chống vi khuẩn (ngăn ngừa nhiễm khuẩn với mô sống hoặc da). Chất
này khác với chất kháng sinh sử dụng để tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của vi
khuẩn một cách đặc hiệu và khác với chất khử khuẩn dụng cụ. Một số loại chất sát
khuẩn (SK) là chất diệt khuẩn thực sự, có khả năng tiêu diệt vi khuẩn trong khi một
số loại chất SK khác chỉ có tính năng kìm hãm, ngăn ngừa và ức chế sự phát triển
của chúng[1].
Dung dịch sát khuẩn tay có chứa cồn
Dịch pha chế có chứa cồn dưới dạng chất lỏng, gel hoặc kem bọt dùng để
xoa/chà tay nhằm tiêu diệt hoặc làm giảm sự phát triển của vi sinh vật. Các loại
dung dịch này có thể chứa một hoặc nhiều loại cồn pha theo công thức được công
nhận của các hãng dược phẩm.
Dự phòng sau phoi nhiễm
3


Biện pháp ngăn ngừa lây truyền các tác nhân gây bệnh đường máu sau phơi
nhiễm.

Kỹ thuật vô khuẩn
Là các kỹ thuật không làm phát sinh sự lan truyền của vi khuẩn trong quá trình
thực hiện như: vệ sinh tay (VST), mang trang phục phòng hộ cá nhân, sử dụng chất
khử khuẩn da, cách mở các bao gói vơ khuẩn, cách sử dụng dụng cụ vô khuẩn.
Phoi nhiễm nghề nghiệp
Phơi nhiễm nghề nghiệp là sự tiếp xúc trực tiếp mới máu, dịch tiết cơ thể, chất
bài tiết (trừ mồ hơi) có chứa tác nhân gây bệnh trong khi nhân viên y tế thực hiện
nhiệm vụ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm bệnh[|].
Phương tiện phòng hộ cá nhân
Phương tiện phòng hộ cá nhân bao gồm: găng tay, khẩu trang, áo khốc phịng
thí nghiệm, áo chồng, tạp dề, bao giầy, kính bảo hộ, kính có tấm chắn bên, mặt nạ.
Mục đích sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân là để bảo vệ nhân viên y tế, người
bệnh, người nhà người bệnh khỏi bị nguy cơ phơi nhiễm và hạn chế phát tán mầm
bệnh ra mơi trường bên ngồi. WHO khơng khuyến cáo sử dụng khẩu trang, găng
tay, kính bào vệ mắt, quần áo bào vệ trong thực hiện tiêm[19l. Các phương tiện
phòng hộ cá nhân này chỉ sử dụng trong trường hợp người tiêm có nguy cơ phơi
nhiễm với máu, dịch tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi).
Bông gạc tẩm cồn sát khuẩn
Sử dụng bông gạc vô khuẩn thấm Ethanol 70%
Vật sắc nhọn
Bất cứ vật nào có thể gây tổn thương xâm lấn da hoặc qua da; vật sắc nhọn
bao gồm kim tiêm, đầu kim truyền dịch, dao mổ, thủy tinh vỡ, ống mao dẫn vỡ và
đầu dây nẹp nha khoa bị phơi nhiễm.
Thùng đựng chất thải sắc
Còn gọi là “hộp đựng chất thải sắc nhọn”, “hộp kháng thủng” hay “hộp an
toàn”. Hộp đựng chất thải sắc nhọn được sản xuất bằng chất liệu cứng, chống thủng,
chống rò ri được thiết kế để chứa chất thải sắc nhọn một cách an toàn trong quá

4



trình thu gom, hủy bỏ và tiêu hủy. Thùng này phải được thiết kế và quản lý theo
đúng quy chế Quản lý chất thải y tế của Bộ y tế[6].
Đậy nắp kim tiêm
Kỹ thuật đậy nắp kim một tay: NVYT cầm bơm kim tiêm một tay và đưa đầu
nhọn của kim vào phần nắp được đặt trên một mặt phẳng, sau đó dùng hai tay đậy
nắp.

Hình 1: Đậy nắp kim bằng kỹ thuật núc 1 tay
Xử lý các vật sắc nhọn sau khi tiêm
Phân loại chất thải ngay tại nguồn, cô lập ngay các vật sắc nhọn vào thùng
kháng thủng đủ tiêu chuẩn, không đậy nắp kim, không uốn cong hoặc bẻ gãy kimm .
Vệ sinh tay
Việc rửa tay bằng nước và xà phòng hoặc các chất sát khuẩn. Khuyển cáo áp
dụng khi thực hiện kỹ thuật vô khuẩn[I].
Theo WHO, nhân viên y té cần tuân thủ rửa tay ở 05 thời điểm:
1. Trước khi tiếp xúc với người bệnh
2. Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn
3. Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể
4. Sau khi chăm sóc người bệnh
5. Sau khi đụng chạm vào những vùng xung quanh người bệnh

5


Tiêm bắp
Đưa mũi tiêm vào phần thân của cơ bắp với góc kim từ 60°-90° so với mặt da
(khơng ngập hết phần thân kim tiêm), thường chọc các vị trí sau:
-


Cánh tay: 1/3 trên mặt trước ngoài cánh tay

-

Vùng đùi: 1/3 giữa mặt trước ngồi đùi

-

Vùng mơng; Va trên ngồi mơng hoặc 1/3 trên ngồi đường nối từ gai
chậu trước trên với mỏm xương cụt.

Tiêm dưói da
Là kỹ thuật tiêm sử dụng bơm kim tiêm để đưa thuốc vào mô liên két dưới da
của người bệnh, kim chếch 30°-45° so với mặt da. Vị trí tiêm thường 1/3 £Ìữa mặt
trước ngoài cánh tay (đường nối từ mỏm vai đến mỏm khuvu chia làm 3 phần) hav
1/3 giữa mặt trước ngoài đùi (đường nối từ gai chậu trước trên đến bờ ngoài xương
bánh chè) hoặc dưới da bụng (xung quanh rốn, cách rốn 5 cm).
Tiêm trong da
Mũi tiêm nông giữa lớp thượng bì và hạ bì, đâm kim chếch với mặt da 10°15°, tiêm xong tạo thành một cục sẩn như da cam trên mặt da. Thường chọc kim nơi
vùng da mỏng, ít va chạm, trắng, khơng có sẹo, khơng có lơng. Vị trí thường là 1/3
trên mặt trước trong cẳng tay.

Hình 3: Góc kim trong các loại tiêm
Tiêm, truyền tĩnh mạch
Là kỹ thuật dùng bơm kim tiêm đưa thuốc, dịch vào tĩnh mạch với góc tiêm
30° so với mặt da. Khi tiêm chọn tĩnh mạch nổi rõ, mềm mại, không di động, da
vùng tiêm nguyên vẹn.
6



2.2.

Quan điềm và chính sách về tiêm an tồn

2.2.1. Trên thế giói
Trên thế giới, tiêm được ứng dụng trong điều trị từ những năm 1920 và thịnh
hành từ chiến tranh thế giới thứ II sau khi Penicilline được phát minh và đưa vào sử
dụng rộng rãi. WHO ước tính hằng năm tại các nước đang phát triển có khoảng 16
tỷ mũi tiêm, trong đó 95% mũi tiêm với mục đích điều trị, 3% mũi tiêm là tiêm
chủng, 1% mũi tiêm với mục đích kế hoạch hóa gia đình, 1% mũi tiêm dược sử
dụng trong truyền máu và các chế phẩm của máut2l].
Thực tế đã cho thấy, tiêm là một thủ thuật phổ biển có vai trị rất quan trọna
trong các lĩnh vực phòng bệnh và chữa bệnh. Tuy nhiên, tiêm cũng gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho cả người nhận mũi tiêm, người thực hiện mũi tiêm và cộng dồng
nếu như khơng có những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện mũi tiêm an toàn1'1.
Theo nghiên cứu “gánh nặng toàn cầu của bệnh do tiêm bị ô nhiễm được đưa
ra trong các thiết lập chăm sóc sức khỏe” của Hauri và cộng sự cho thấy trung bình
mỗi người nhận 3,4 mũi tiêm, trong đó 39,3% sử dụng bơm tiêm dùng lại. Trong
năm 2000, nhiễm khuẩn do tiêm gây ra ước tính khoảng 21 triệu ca nhiễm HBV, 2
triệu ca nhiễm HCV và 260.000 ca nhiễm HIV tương ứng chiếm tỷ lệ 32%, 40% và
5%, các ca bệnh nhiễm trùng mới này cho một gánh nặng 9.177.679 DAILYs giữa
năm 2000 đến năm 203 ot20).
Mặc dù những hậu quả do tiêm không an toàn gây ra rất nghiêm trọng tuy
nhiên, theo Trung tâm kiểm sốt bệnh tật Hoa Kỳ và WHO, có tới 80% tổn thương
do kim tiêm có thể phịng ngừa được bằng các biện pháp hết sức đơn giản như sử
dụng trang thiết bị tiêm vô khuẩn và thực hiện đúng quy trình tiêm. Sự mất an tồn
trong tiêm có thể được giảm nhẹ đi rất nhiều khi ta hiểu rõ những hình thức tiêm
khơng an tồn, ngun nhân của các hiện tượng đó và các biện pháp kiểm sốt
chúng. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) và an
tồn trong tiêm, những khó khăn của các nước thành viên và sự ừách nhiệm của

mình trước sự an tồn trong chăm sóc y tế, WHO đã thành lập mạng lưới TAT toàn
cầu (SIGN) vào năm 1999. Mục đích của SIGN là giảm tần số tiêm và thực hiện
TAT, cải thiện chính sách, quy trình kỹ thuật tiêm, thay đổi hành vi của người sử
7


dụng và người cung cấp dịch vụ tiêm. Có 5 nội dung chính trong chính sách TAT:
áp dụng hợp lý các biện pháp điều trị tiêm; ngăn ngừa việc sử dụng lại bom kim
tiêm; hủy bơm tiêm và kim tiêm đã qua sử dụng ngay tại nơi sử dụng; phân tách
chất thải tại nơi phát sinh chất thải; xử lý an toàn và tiêu hủy dụng cụ tiêm đã qua sử
dụng. Các tổ chức trên cũng đã xây dựng chiến lược tồn cầu vì mũi tiêm an tồn
bao gồm: (1) thay đổi hành vi của cán bộ y tế, NB và cộng đồng; (2) đảm bảo có sẵn
vật tư, trang thiết bị; (3) quản lý chất thải an tồn thích hợp. Các biện pháp KSNK
do tiêm khơng an tồn được chia thành 5 nhóm chính: (1) loại bỏ nguy cơ; (2) biện
pháp kỹ thuật; (3) biện pháp kiểm soát hành chính; (4) biện pháp kiểm sốt tập qn
làm việc; (5) dụng cụ bảo hộ cá nhân[1].
Tại Hội nghị thường niên lần thứ 11 của SIGN được tổ chức tháng 10/2008 tại
Moscow, TS. Steffen Groth, Giám đốc chương trình kỹ thuật y tế thiết yếu
(Essential Health Technologies, WHO/HQ) tại trụ sở chính ở Thụy Sĩ nhấn mạnh
trong bài phát biểu khai mạc: Trong những can thiệp nhằm đạt được mũi tiêm an
tồn và thích họp thì việc tác động vào những hành vi tiêm an toàn thườns; hiệu quả
hơn là tác động vào việc làm giảm mũi tiêm không cần thiết. Bên cạnh việc biện
pháp tuyên truyền cho người cán bộ y tế và người bệnh để giảm mũi tiêm thì nên
kết hợp thực hiện những can thiệp làm tăng sự an tồn cho mũi tiêm thơng qua việc
tăng cung cấp phương tiện tiêm an toàn và giáo dục cho người cung cấp dịch vụ
tiêm những biện pháp an toàn là cần thiết.
Từ đó đến nay, SIGN đã xây dựng và ban hành chiến lược an toàn trong tiêm
trên toàn thế giới và nhiều tài liệu hướng dẫn liên quan đến tiêm. Với chính sách
của SIGN đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong nhận thức, hành vi của NB và cộng
đồng, đặc biệt với chiến lược hỗ trợ về truyền thông, kỹ thuật và thiết bị cho các

nước chậm phát triển đã dần nâng cao tỷ lệ TAT và góp phần giảm thiểu các nguy
cơ và gánh nặng của tiêm khơng an tồn tại mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.

8


2.2.2. Tại Việt Nam
Thực hiện khuyến cáo và được sự hỗ trợ kỹ thuật của WHO năm 2010, Bộ
trưởng Bộ y tế Việt Nam ra quyết định số 2642/QĐ-BYT ngày 21 tháng 7 năm
2011 thành lập ban soạn thảo các tài liệu hướng dẫn KSNK, trong đó có hướng dẫn
TAT. Ban soạn thảo tài liệu gồm các thành viên có kinh nghiệm lâm sàng, giảng
dạy và quản lý liên quan đến tiêm như điều dưỡng viên, Bác sỹ, Dược sỹ, chuyên
gia KSNK, chuyên gia quản lý khám, chữa bệnh và đại diện Hội điều dưỡng Việt
Nam. Tài liệu được biên soạn trên cơ sở tham khảo chương trình, tài liệu dào tạo
TAT do cục Quản lý khám, chữa bệnh phối họp với Hội điều dường Việt Nam xây
dựng và áp dụng thí điểm tại 15 BV trong tồn quốc trong hai năm 2009 - 2010;
tham khảo các két quả khảo sát thực trạng TAT của Hội điều dường Việt Nam các
năm 2005, 2008, 2009; tham khảo kết quả rà soát các tài liệu về tiêm, vệ sinh tay,
quản lý chất thải y tế và KSNK Việt Nam và các tổ chức WHO, CDC, UNDP, tài
liệu hướng dẫn TAT của một số Bộ y tế các nước, các trường đào tạo diều dườno, y
khoa, các tạp chí an tồn cho người bệnh và KSNK của khu vực và của toàn thể
giới111.
Ngày 27 tháng 9 năm 2012, Bộ y tế đã ban hành hướng dẫn TAT tại quyết
định số 3671/QĐ-BYT với nhiều nội dung cập nhật so với quy trình tiêm hiện đang
được thực hiện và yêu cầu: (a) các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sử dụng tài liệu này
để tập huấn, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc cung ứng phương tiện tiêm, thuốc
tiêm và thực hành TAT tại đơn vị minh; (b) các cơ sở đào tạo điều dưỡng, các
trường đại học, cao đẳng và trung học y té sử dụng tài liệu này để cập nhật chương
trình, tài liệu đào tạo; (c) các cá nhân liên quan đến thực hành tiêm, cung ứng
phương tiện và thuốc tiêm, các nhân viên thu gom chất thải y tế sử dụng tài liệu này

trong thực hành, kiểm tra, giám sát nội dung tiêm, truyền tĩnh mạch ngoại vi[1].
Ngày 02 tháng 8 năm 2013, Cục quản lý khám, chữa bệnh, Bộ y tế cũng đã có
cơng văn số 671/KCB-ĐDV u cầu các đơn vị trực thuộc trong toàn quốc tổ chức,
thực hiện nghiêm túc Hướng dẫn TAT.

9


2.2.3. Một số nội dung cập nhật trong hướng dẫn thực hiện tiêm an toàn
Giảm hoặc loại bỏ các mũi tiêm không cần thiết
Cần tiến hành các biện pháp cả hành chính và tuyên truyền nhằm tăng cường
nhận thức của người bệnh và nhân viên y tế về tác hại của lạm dụng tiêm. Biện pháp
hành chính: giám sát việc kê đơn thuốc cho người bệnh theo đúng quy định tại điều
3, khoản 6, mục b của thông tư 23/2011/TT-BYT ngày 10/6/2011 về việc hướng
dẫn sử dụng thuốc trong cơ sở khám, chữa bệnh có giường bệnh là “bác sỹ chỉ kê
đơn thuốc tiêm khi người bệnh không uống được thuốc hoặc khi sử dụng thuốc theo
đường uống không đáp ứng yêu cầu điều trị hoặc với thuốc chỉ dùng đường tiêm”171.
Phương thức tuyên truyền gồm: tổ chức các lớp tập huấn về TAT, tổ chức hội nghị,
hội thảo khoa học để báo cáo các kết quả nghiên cứu, kết quả khảo sát liên quan đến
tiêm; in ấn các tờ rơi, pano áp phích, xây dựng những đoạn băng video để tuyên
truyền tại các cơ sở y tế và trên các phương tiện truyền thông giáo dục sức khỏe và
tác hại lạm dụng thuốc tiên và tiêm khơng an tồn.
Bảo đảm đầy đủ các phương tiện, dụng cụ, thuốc cho kỹ thuật tiêm
Cung cấp đủ phương tiện tiêm như: bơm tiêm vơ khuẩn, sử dụng một lần, dcảm
bảo đủ kích cỡ, yêu cầu chuyên môn và lưu ý đến an toàn cho nguờitiàn,cộnơđồno.
Trang bị đủ các phương tiện vệ sinh tay như: lắp đặt đủ các bồn rửa tay ở
buồng bệnh, buồng thủ thuật. Cung cấp đủ nước và xà phòng, khăn lau tay sạch cho
mỗi lần rửa tay hoặc dung dịch sát khuẩn tay nhanh có chứa cồn treo hoặc đặt sẵn
trên các xe tiêm.
Khuyến khích cung cấp gạc miếng tẩm cồn dùng cho một lần thay thế hộp

chứa bông cồn như hiện nay. WHO khuyến cáo, không sát khuẩn da trước tiêm cịn
tốt hơn sử dụng bơng tẩm cồn không sạch để sát khuẩn da.
Các phương tiện thu gom chất thải y tế sau tiêm theo đúng quy định tại thông
tư liên tịch 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT của liên bộ Bộ y tế và Bộ Tài nguyên và
môi trường ban hành quy chế Quản lý chất thải y tế[61.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của điều dưỡng trưởng và mạng lưới
KSNK và tuân thủ vệ sinh tay, tuân thủ quy trình tiêm, truyền dịch và KSNK.
10


về thực hiện quy trình kỹ thuật tiêm
Vệ sinh tay
Trước đây theo quy trình tiêm của các trường đào tạo điều dưỡng, ĐDV trước
khi thực hiện chuẩn bị dụng cụ và thực hiện kỹ thuật tiêm phải rửa tay. Tuy nhiên,
trên thực tế việc này khơng khả thi vì khơng phải tất cả các nơi thực hiện kỹ thuật
tiêm đều có phương tiện rửa tay, hơn nữa việc rửa tay như vậy sẽ làm mất nhiều
thời gian khi ĐDV cứ phải chạy đi chạy lại để thực hiện rửa tay. Hướng dẫn TAT
đã hướng dẫn vệ sinh tay theo quy định tại hướng dẫn phòng nỉùra chuẩn bao eồm
các thời điểm, chỉ định và cách thức vệ sinh tay. ĐDV chỉ thực hiện rửa tay trong
trường họp tay dính dịch, máu và các vết bẩn có thể nhìn thấv được, các trường hợp
khác chỉ cấn thực hiện vệ sinh tay bằng dung dịch chứa cồn có sẵn trên xe tiêm[ll*f5l.
Phương tiện phòng hộ
Sử dụng khẩu trang: Trước đây trong các quy trình tiêm ĐDV bát buộc phải
mang khẩu trang khi tiêm hoặc truyền tĩnh mạch. Tuy nhiên, trên thực tế việc mang
khẩu trang như vậy nhiều trường họp không mang lại hiệu quả và thực hiện lại có
hại cho bản thân ĐDV. Hiện nay trên thế giới chưa có nghiên cứu nào chứng minh
việc không mang khẩu trang trong thực hiện kỹ thuật là nguyên nhân dẫn đển tăng
tỷ lệ nhiễm khuẩn do tiêm. Việc mang khẩu trang như vậy khơng có tác dụng bảo
vệ ĐDV khỏi các tác nhân gây bệnh đường hơ hấp như Virus Sởi, Lao... vì để

phòng lây nhiễm các bệnh này cần phải mang khẩu trang y tế mới có tác dụng chứ
khơng phải là loại khẩu trang thông thường như hiện nay ĐDV vẫn thường sử dụng
khi đi tiêm. Việc đeo khẩu trang làm giảm hiệu quả giao tiếp giữa ĐDV và NB
trong quá trình thực hiện tiêm, hơn nữa việc đeo khẩu trang cả ngày và bảo quản
khẩu trang không tốt là nguyên nhân dẫn đến lây nhiễm bệnh cho chính bản thân
ĐDV. Do vậy, trong hướng dẫn TAT, Bộ y tế đã có chủ trương: Khẩu ừang, kính
bảo vệ mắt và các loại quần áo bảo vệ khác không được chỉ định sử dụng trong quy
trình tiêm bắp, trong da, dưới da, tĩnh mạch ngoại biên. Tuy nhiên, trường hợp có
nguy cơ bị lây nhiễm do máu bắn và tiêm truyền tĩnh mạch trung tâm phải mang
găng vô trùng và khẩu trang y tế. Trường họp tiêm cho NB mắc bệnh lây nhiễm qua

11


đường hô hấp như Rubella, Sởi, AIDS nhiễm Lao cần mang khẩu trang y tế phòng
lây truyền tác nhân gây bệnh qua đường hô hấp.
Sử dụng găng tay: Việc sử dụng găng tay khi tiêm truyền tĩnh mạch là quy
định bắt buộc đối với ĐDV khi thực hiện tiêm, truyền tĩnh mạch ở các quy trình
tiêm cũ. Tuy nhiên, việc mang găng như vậy vẫn vừa dẫn đén hao tốn kinh phí vật
tư tiêu hao và lại làm giảm độ chính xác của kỹ thuật tiêm, truyền. Việc sử dụng
găng tràn lan khơng đúng mục đích cịn dẫn đến hiện tượng Đ DV sử dụng một đôi
găng tay để khám hoặc chăm sóc cho nhiều người bệnh, đây cũng là nsuvên nhân
dẫn đến lây truyền bệnh cho NB và cho chính bản thân Đ DV do giẩn nở găns dẫn
đến hiện tượng thấm ngược các dịch, máu chứa tác nhân gây bệnh. Hướng dẫn TAT
đã quy định: Mục đích mang găng tay trong tiêm là dự phòng phơi nhiễm với máu
và dịch tiết của người bệnh. Do vậy, chỉ mang găng tay sạch khi có nguy có tiếp xúc
với máu và dịch tiết của người bệnh, hoặc da tay của Đ DV bị tổn thương (viêm da,
thương tổn da, vết cắt, vết xước). Nếu da tay của Đ DV bị tổn thương, cần băns phủ
vết thương hoặc mang găng khi thực hiện quy trình tiêm[1h
Sát khuẩn da và chuẩn bị vùng da tiêm

Trong quy trình kỹ thuật tiêm trước đây đã được học, ĐDV phải dùng kẹp
không mấu để gắp bông gạc tẩm cồn sát khuẩn da vùng tiêm cho NB. Tuy nhiên,
trên thực té việc chỉ sát khuẩn theo phương pháp này là không khả thi do các bệnh
viện không thể bảo đảm cung cấp cho mỗi mũi tiêm một chiếc kẹp không mấu đề
gắp bông tẩm cồn sát khuẩn. Qua kiểm tra công tác điều dưỡng và thực hiện quy
trình tiêm tại các BV của Phịng điều dưỡng - tiết chế, Bộ y tế cho thấy hiện tượng
dùng một chiếc kẹp để gắp bông gạc tẩm cồn để sát khuẩn da vùng tiêm cho nhiều
NB diễn ra phổ biến, thậm chí tại một số BV, Đ DV đã dùng chung một chiếc kẹp
không mấu để thực hiện sát khuẩn da vùng tiêm cho nhiều người bệnh trong cả
ngày. Việc dùng chung kẹp để sát khuẩn (có thể đã dính máu, dịch chứa tác nhân
gây bệnh từ NB này sang NB khác trong quá trình thực hiện thao tác) là nguyên
nhân làm lây truyền tác nhân lây bệnh qua đường máu. Hướng dẫn TAT đã đưa ra
ba phương pháp sát khuẩn da vùng tiêm và những quy định cụ thể khi thực hiện
thao tác này để các BV và Đ DV lựa chọn:
12


1) Sử dụng bông hoặc gạc thấm dung dịch chứa côn Isopropyl hay Ethanol
70%. Không dùng cồn Methanol hoặc cồn Metylic vì khơng an tồn cho
người. Khơng dùng bơng cồn chứa trong lọ hoặc hộp lưu cữu. có thể sử dụng
một trong những cách thức sau:
a. Sử dụng kẹp không mấu vô khuẩn để gắp bông gạc thấm cồn, khi sát
khuẩn không được chạm kẹp vào da người bệnh.
b. Dùng tay (sau khi đa vệ sinh tay) để cầm bông cồn SK. Khi SK,
không được chạm tay vào phàn bông tiếp xúc với da vùns; tiêm.
c. Sử dụng tăm bông: khi SK, không chạm tay vào bôns
2) SK da vùng tiêm hình xốy ốc từ trong ra ngồi dường kính khoảng 10 cm
đến khi sạch
3) Thời gian SK trong 30 giây, để da tự khơ hồn tồn rồi mới tiêm.
4) Không chạm tay hoặc vật dụng không vỏ khuẩn vào vùng da đã được SK.

Không đựng bông, gạc thấm cồn lưu trong hộp, lọ chứa vì cồn sẽ bốc hơi chỉ cịn lại
nước.
Khơng sát khuẩn da vùng tiêm bằng cồn sau tiêm chủng
Lấy thuốc vào bơm tiêm
Thực hiện 4 không: không sử dụng một BKT đã lấy thuốc để dùng cho nhiều
NB (bảo đảm 1 kim tiêm, một bơm tiêm, một NB); không tái sử dụng bơm, kim
tiêm (BKT); không sử dụng một BKT pha thuốc duy nhất để pha cho nhiều lọ
thuốc; khơng kết họp thuốc cịn thừa lại để dùng cho lần sau.
- Lấy thuốc tiêm từ lọ thuốc: nên sử dụng Lọ thuốc đơn liều cho từng NB, cho
mỗi mũi tiêm để giám nguy cơ lây nhiễm chéo cho các NB. Có thể sử dụng lọ thuốc
đa liều nếu khơng cịn sự lựa chọn nào khác nhưng chỉ mở một lọ thuốc cụ thể tại
một thời điểm tại mỗi khu vực chăm sóc NB.
- Khơng dùng một BKT lấy thuốc cho nhiều lọ thuốc đa liều
- Không cắm BKT đã sử dụng vào lọ thuốc nếu lọ thuốc đó sẽ tiếp tục được sử
dụng cho cùng một NB hoặc cho NB khác
- Không sử dụng túi hoặc chai dịch truyền tĩnh mạch để pha thuốc hoặc tiêm
cho nhiều NB (trừ trường họp các nhà thuốc sử dụng tủ vô trùng)[1].
13


Các biện pháp bảo vệ người tiêm
Trong các quy trình tiêm cũ, các biện pháp để bảo vệ người nhận mũi tiêm rất
được chú trọng như: thực hiện tốt 5 đúng, phịng và chống sốc, phịng tránh xơ hóa
cơ... Tuy nhiên, trong hướng dẫn TAT thì ngồi việc bảo đảm an tồn cho người
nhận mũi tiêm thì cịn phải bảo đảm an tồn cho người thực hiện mũi tiêm. Đó là:
- Không dùng tay đậy nắp kim tiêm sau tiêm, nếu cần hãy sử dụng một tay và
múc nắp kim tiêm đặt trên một mặt phẳng rồi mới đậy nắp kim.
- Không tháo rời kim tiêm ra khỏi bơm tiêm sau khi tiêm.
- Bỏ BKT, kim truyền vào hộp đụng chất thải sắc nhọn ngay sau khi tiêm.
- Không để vật sắc nhọn đầy quá 3/4 hộp. Đậy nắp và niêm phong hộp kháng

thủng để vận chuyển tới nơi an tồn.
- Khơng mở hộp, khơng làm rỗng để sử dụng lại hộp kháng thùng sau khi dã
đậy nắp hoặc niêm phong hộp.
- Khi bị phơi nhiễm do vật sắc nhọn, cần xử lý và khai báo ngay theo hướng
dẫn.
- Phòng ngừa nguy cơ đổ lỗi cho người tiêm: thông báo, giải thích rõ cho người
bệnh hoặc người nhà NB trước khi tiêm thuốc; kiểm tra chắc chắn y lệnh ghi trong
bệnh án; đánh giá tình trạng NB trước, trong và sau khi tiêm; pha thuốc và lấy thuốc
tiêm trước sự chứng kiến của NB hoặc người nhà NB; ghi phiếu chăm sóc thuốc đã
sử dụng , phản ứng của NB, xử lý chăm sóc trước trong và sau khi tiêm.
Các biện pháp nhằm không gây nguy hại cho cộng đồng
- Chuẩn bị hộp đựng chất thải sắc nhọn hoặc máy cắt kim tiêm. Các đơn vị khi
sử dụng hộp hoặc lọ đựng chất thải sắc nhọn tự tạo phài bảo đảm tiêu chuẩn hộp
đựng chất thải sắc nhọn theo quy định tại quyết định 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT
về quy chế quản lý chất thải y tế và tài liệu hướng dẫn quản lý chất thải y tế từ các
hoạt động liên quan đến tiêm ở cơ sở y tế tuyến huyện của WHO, 2006.
- Tạo thành thói quen cho người tiêm: Bỏ BKT vào hộp kháng thủng ngay sau
khi tiêm.
mThu gom và bảo quản BKT đã sử dụng theo đúng quy chế quản lý chất thải y
tếra.
14


H4. Hộp kháng thủng chuẩn

H5. Lọ kháng thủng tự tạo

H6. Máy cắt kim sau tiêm




1

15


3. c ơ SỞTHựCTIẺN
3.1.

Thực trạng tiêm an toàn tại một số địa phương trong nước

Năm 2009, trong nghiên cứu của Phan Thị Dung và cộng sự t'11 tiến hành điều
tra cắt ngang bằng phiếu quan sát các chỉ số tiêm an tồn với các chỉ tiêu: loại mũi
tiêm; vị trí tiêm; loại bơm kim tiêm; trên xe tiêm có hộp kháng thủng đựng VSN;
hộp chống sốc đúng quy định, rửa tay/sát khuẩn tay trước và sau khi tiêm; sát khuẩn
vị trí bẻ ống thuốc/nắp cao su của lọ thuốc; sát khuẩn vị trí tiêm đúng quy định; xác
định đúng vị trí tiêm; dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm., tại 12 khoa làm sàng của
bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Kết quả báo cáo cho thấy 51 % không rứa tay/sát
khuẩn tay nhanh trước khi tiêm; 66,6% không sát khuẩn vị trí bẻ ống thuốc/sát
khuẩn nắp cao su lọ thuốc; 3,1% sát khuẩn da vị trí tiêm khơng dúna kỹ thuật;
45,7% dùng 2 tay đậy lại nắp kim tiêm; 38,7% khơng rửa tay/sát khuẩn tay nhanh
sau tiêm.
Và, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp:
-

Tổ chức đào tạo lại liên tục về tiêm an toàn cho đội ngũ điều dưỡng cùa bệnh
viện

-


Tăng cường giám sát, kiểm ừa việc thực hiện quy trình tiêm, truyền

-

Tăng cường truyền thơng giáo dục về nguy cơ tiêm truyền khơng an tồn

-

Tăng cường công tác phân loại, thu gom và quản lý chất thải y tế (đặc biệt là
rác thải y tế là vật sắc nhọn nhiễm bẩn)
Phan Cảnh Chương và cộng sự đã tiến hành đánh giá thực trạng tiêm an toàn

tại bệnh viện Trung Ương Huế năm 2010[10], qua quan sát ngẫu nhiên 1000 mũi
tiêm tại 30 khoa lâm sàng - Bệnh viện Trung Ương Huế từ 01/7/2010 đến
31/7/2010 theo các tiêu chí: sử dụng dụng cụ thích hợp, an tồn; khơng gây nguy
hại cho người tiêm; khơng gây nguy cơ phơi nhiễm cho người thực hiện mũi tiêm;
không tạo chất thải nguy hại cho người khác. Kết quả cho thấy, trung bình có 5456
mũi- tiêm/ngày thực hiện tại bệnh viện Trung Ương Huế và có trung bình 16,8 mũi
tiêm/điều dưỡng (lớn hơn rất nhiều so với nghiên cứu của Hội Điều dưỡng Việt
Nam năm 2005 là 10 mũi tiêm/điều dưỡng/ngày) cho thấy nguy cơ rất lớn khi thực
hành tiêm. Tiêm tĩnh mạch chiếm tỷ lệ cao nhất (75,7%) trong các đường tiêm. Các
16


dụng cụ phương tiện để thực hành tiêm an toàn đã được chuẩn bị đầy đủ hơn so với
tỷ lệ khảo sát lần 01 ngay sau khi kết thúc tập huấn. Điều dưỡng đã thay đổi hành vi
và các thói quen không đúng khi thực hành tiêm: Rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước
khi chuẩn bị dụng cụ (91,7%); kiểm tra sự nguyên vẹn của bơm tiêm (94,8%); rút
thuốc không chạm tay vào vùng vơ khuẩn (92,6%); sát khuẩn vị trí tiêm đúng quy
định (94,8%); điều dưỡng đã giao tiếp, quan sát người bệnh trước, trong và sau khi

tiêm (95,7%); rửa tay ngay sau khi kết thúc mũi tiêm (93,3%); không dùng tay dậy
nắp kim (95,8%). Kỹ thuật tiêm do điều dưỡng thực hiện là rất tốt song cũng cần
khuyến cáo với các tỷ lệ qua nghiên cứu này: Kim tiêm chưa đàm bào vô khuẩn cho
đến khi tiêm (7,4%); thời gian bơm thuốc (lm l/10 giây) chưa đúng quy định
(17,7%).
Công tác kiểm tra, giám sát thực hành tiêm an toàn tại các khoa lâm sàng đã mang
lại kết quả tốt.
Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp tăng cường TAT: (1) dưa chương
trình TAT vào nội dung giảng dạy tại các trường đào tạo điều dưỡng; (2) đưa tiêu
chuẩn TAT vào đánh giá, kiểm tra chất lượng bệnh viện hàng năm; (3) tăng cường
kiểm soát việc kê đơn của bác sỹ nhằm giảm chỉ định thuốc tiêm không cần thiết
thông qua các hoạt động đi buồng của trưởng khoa, Giám đốc hoặc bình bệnh án;
(4) cung cấp đủ các phương tiện phục vụ thực hiện TAT; (5) thiết lập và duy trì hệ
thống báo cáo tai nạn rủi ro nghề nghiệp do VSN; (6) tăng cường công tác kiểm tra
giám sát, kiểm tra thực hành TAT tại các khoa lâm sàng của Điều dưỡng trường
khoa và phòng Điều dưỡng; (7) tăng cường công tác huấn luyện, đào tạo TAT cho
nhân viên điều dưỡng mới tuyến dụng.
Theo một nghiên cứu của BVĐK tỉnh Ninh Bình năm 2011,“đánh giá thực
trạng tiêm an toàn tại các khoa lâm sàng BVĐK tinh Ninh Bình năm 201 l ”[l3], tiến
hành trên 323 điều dưỡng của các khoa lâm sàng, với mục tiêu: đánh giá kiến thức,
thực hành về tiêm an toàn của Điều dưỡng; đánh giá tỷ lệ rủi ro do VSN đâm vào
tay khi thực hiện các mũi tiêm của Điều dưỡng; xác định các yếu tố liên quan đến
TAT. Kết quả cho thấy: các tiêu chuẩn đánh giá về tiêm an toàn đều đạt khá cao, an
toàn cho người nhận mũi tiêm 84%, an tồn cho ngpời.thưo hiơn mũi ■tiệm |à 95%,
TRƯƠNG tAl HỌC IIEU IUƠNG
NAM ĐỊNH

17

THƯ VIỆN

SỐ.-.G.K.M..


an toàn cho cộng đồng là 97%, sử dụng dụng cụ thích hợp 99%; tỷ lệ về kiến thức
TAT là 72%, tỷ lệ thực hành TAT là 80,5%; tỷ lệ VSN đâm vào tay là 2,2% nhỏ
hơn nghiên cứu của bệnh viện Nhi Trung ư ơ n g và BV huyện Kim Sơn tỉnh Ninh
Bình năm 2008 là 37,8%; những điều dưỡng dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm thì
nguy cơ bị VSN đâm vào tay cao gấp 9,323 lần điều dưỡng sử dụng kỹ thuật núc
nắp kim tiêm rồi đậy nắp lại; những điều dưỡng được tập huấn về TAT thì biết cách
xử lý VSN đâm vào tay cao gấp 17,11 lần điều dưỡng không được tập huấn. Đặc
biệt có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thực hiện mũi tiêm an toàn giữa điều
dưỡng được tập huấn TAT và điều dưỡng không được tập huấn, những Điều dưỡng
được tập huấn TAT thì thực hiện TAT cao gấp 22,32 lần những diều dưỡng không
được tập huấn.
Và, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp để triển khai thực hiện tốt hơn
nữa TAT: tăng cường công tác đào tạo, tập huấn về TAT để cung cấp kiến thức và
thông tin mới cho điều dưỡng từ đó giúp điều dưỡng thực hiện tốt về TAT; tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát điều dưỡng trong việc thực hiện TAT.
Phan Văn Tường và cộng sựt151 đã tiến hành đánh giá thực hiện tiên an toàn tại
BVĐK Hà Đông, Hà Nội năm 2012 trên 109 điều dưỡng đang công tác tại các khoa
lâm sàng và quan sát 436 mũi tiêm được thực hiện. Kết quả cho thấy: trung bình
mỗi ngày cơ 1062 mũi tiêm, mỗi NB nhận 3,1 mũi tiêm, số mũi tiêm trung bình mỗi
khoa là 46 mũi, số mũi tiêm tĩnh mạch chiếm tỷ lệ cao nhất (85,1%), tiêm bắp
(3,6%); 37,6 % điều dưỡng bị chấn thương do VSN, nguyên nhân gây chấn thương
nhiều nhất do sơ xuất chiếm 75,6%, các chấn thương do VSN ừong khi tiêm phần
lớn ở vị trí ngón tay (97,6%); có 82,6% điều dưỡng có kiến thức về TAT, thực hành
đúng về TAT đạt 22,2%; các yếu tố liên quan đến thực hành TAT của điều dưỡng là
nhóm tuổi (O R=3,l; p<0,05) và thâm niên cơng tác (OR=2,8; p<0,05), ngồi ra cịn
một só yếu tố như thời điểm thực hiện mũi tiêm, đường tiêm, thứ tự thực hiện mũi
tiêm cũng có liên quan đến tỷ lệ TAT (P<0,05).

Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số khuyến nghị dựa trên kết quả nghiên cứu
nhằm thực hiện TAT tốt hơn nữa: tăng cường cơng tác vơ khuẩn, phịng ngừa nguy
cơ lây nhiễm do tai nạn thương tích; tăng cường đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ
18


năng, truyền thông giáo dục nâng cao kién thức, nhận thức và ý thức về nguy cơ của
tiêm; cần có chương trình giám sát và đánh giá TAT thường xuyên, các kết quả và
thông tin liên quan phải được báo cáo lãnh đạo và phổ biến tới toàn thể nhân viên
trong bệnh viện; tăng cường kiểm tra giám sát và các chế tài thưởng phạt, khen
thưởng, tiến hành các nghiên cứu đánh giá về TAT; nội dung đào tạo/tập huấn về
TAT cần chú trọng các nguyên tắc vô khuẩn, vệ sinh tay trước khi tiêm, vô khuẩn
khi lấy thuốc và vô khuẩn kim tiêm, tăng cường các kỹ năng giao tiếp, ứng xử với
người bệnh.
Trong một nghiên cứu của bệnh viện Da liễu Trung Ương về “tình hình tổn
thương do vật sắc nhọn, kiến thức và thực hành tiêm an toàn tại bệnh viện Da liễu
Trung ương năm 2012”[,6] cho thấy: (1) số mũi tiêm trung bình trong ngày một điều
dưỡng cần thực hiện là 23,82 mũi tiêm/ngày làm việc. 92% diều dưỡng bị chấn
thương do VSN trong năm vừa qua, nguyên nhân nhiều nhất là do vỏ lọ thuổc/lọ
nước cất 61,5%, tổn thương do kim vô khuẩn chiếm 30,6% và do kim nhiễm khuẩn
chiếm 7,9%; tình huống bị thương cho điều dưỡng trong năm chiếm lệ cao nhất là
khi điều dưỡng lấy thuốc 97,8%, trong khi dọn dụng cụ chiếm 73,9%, khi rút kim ra
khỏi người bệnh là 30,4%, đóng nắp và tách kim tiêm bẩn ra khỏi bơm tiêm là
21,7%; (2) kiến thức có liên quan khá chặt chẽ với thực hành TAT của điều dưỡng
(r = 0,42; p< 0,01). số mũi tiêm phải thực hiện càng nhiều thì thực hành TAT nói
chung và an tồn cho NB của điều dưỡng càng kém với hệ số tương quan đều là 0,39 (P<0,01).
Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp: (*) vì số lượng mũi tiêm trong
ngày làm việc của Điều dưỡng là rất lớn và có mối liên quan rõ ràng giữa thực hành
TAT với số lượng mũi tiêm. Vì vậy, để bảo vệ cả NB lẫn NVYT đề nghị bệnh viện
có giám sát phù hợp để hạn chế việc kê đơn thuốc tiêm không cần thiết; (**) bệnh

viện cần chú trọng cơng tác phịng tránh tai nạn thương tích do VSN và xử lý, theo
dõi kip thời sau phơi nhiễm cho NVYT; (***) trong nghiên cứu cũng chi ra mối liên
quan chặt chẽ giữa kiến thức và thực hành tiêm an toàn của Điều dưỡng, do vậy
bệnh viện nên chú trọng đến công tác đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức cho
Điều dưỡng.
19


Trong các nghiên cứu trên, dù được tiến hành tại các bệnh viện thuộc tuyến
Trung Ưcmg, tuyến Tỉnh hay tuyến Huyện nhưng kết quả cũng đều đưa ra một số
các bước trong quy trình, một số yếu tố làm mất an toàn trong khi thực hiện mũi
tiêm như: số mũi tiêm trung bình trong ngày mà một ĐDV phải thực hiện là rất lớn;
không sát khuẩn tay nhanh trước khi thực hiện tiêm; sát khuẩn da vùng tiêm không
đúng; dùng hai tay đậy nắp kim tiêm; kim tiêm không đảm bảo vô khuẩn đến lúc
tiêm;

20


×