Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.63 KB, 36 trang )

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NGUỒN
THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
HÀ NỘI
3.1/ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ
NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP.
Thuế GTGT hiện là nguồn thu lớn của NSNN. Hơn nữa thuế GTGT
còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, có tác dụng rộng lớn đến mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vì sự kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT còn chưa đạt mục tiêu đề ra, chưa bao quát hết các đối tượng
nộp thuế, đối tượng chịu thuế cũng như các giao dịch kinh tế trong nền
kinh tế, do vậy cần phải tăng cường kiểm soát nguồn thu từ thuế GTGT.
Song kiểm soát có nhiệm vụ tuân thủ các mục tiêu của quản lý Nhà nước
cũng như định hướng phát triển, nuôi dưỡng các nguồn thu, vì vậy trước
hết, theo tác giả, việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải xuất phát từ
những định hướng, những quan điểm cơ bản về quản lý thu thuế GTGT đối
với các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Trong giai đoạn 2001 -2010, kinh tế trở thành lĩnh vực trung tâm, chi
phối mọi hoạt động trong xã hội. Xu hướng hình thành nền kinh tế tri thức
ngày càng bộc lộ rõ nét, làm thay đổi cơ bản về phương thức làm việc và
quản lý truyền thống. Hội nhập quốc tế sẽ diễn ra mạnh mẽ cả về bề rộng
và chiều sâu, cuộc cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ trở nên gay gắt, nhất
là sau năm 2006 khi phải tuân thủ các cam kết quốc tế. Chính sách tài chính
- tiền tệ trở thành công cụ chủ chốt điều tiết vĩ mô nền kinh tế, một phần do
bản chất kinh tế của các công cụ của chính sách tài chính - tiền tệ như thuế,
chi tiêu NSNN, lãi suất, tỉ giá...Trong nền kinh tế thị trường, một phần do
xu hướng thay đổi chức năng và nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước từ
sử dụng những công cụ trực tiếp sang gián tiếp, từ can thiệp sâu và rộng
sang nới lỏng sự can thiệp. Trong bối cảnh đó, thuế trở thành công cụ quan
trọng trong quản lý Nhà nước, khối lượng đối tượng quản lý thuế tăng,
1
1


phương thức quản lý thuế cũng thay đổi cho phù hợp với sự tiến bộ của
khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
Quan điểm cơ bản của chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2001 - 2010
là tiếp tục hoàn thiện các mục tiêu của cải cách thuế bước II. Việc động
viên qua thuế và phí vào NSNN phải vừa giải quyết hài hoà về lợi ích kinh
tế giữa Nhà nước và Xã hội, vừa bảo đảm nguồn thu tài chính để Nhà nước
thực hiện chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách
xã hội, bảo vệ an ninh, quốc phòng.
Với quan điểm cơ bản đó, mục tiêu yêu cầu của cải cách thuế trong
giai đoạn 2001 - 2010 là:
Thứ nhất - Thuế bảo đảm nguồn thu vững chắc cho NSNN để đáp
ứng đầy đủ nhu cầu chi thường xuyên và phần cơ bản của chi đầu tư thuộc
NSNN. Thuế và phí là nguồn thu chủ yếu của NSNN, mức huy động chiếm
từ 20% đến 21% GDP.
Thứ hai - Thuế góp phần điều chỉnh các cơ cấu kinh tế theo hướng
khuyến khích xuất khẩu, phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế trang trại
để tăng khối lượng sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích hoạt động chế
biến nông sản để sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước phục vụ cho mục
tiêu đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành
có lợi thế, giải quyết nhiều lao động, các vùng trọng điểm phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba - Chính sách thuế bảo đảm bình đẳng, công bằng giữa các
thành phần kinh tế, bảo đảm tính rõ ràng, ổn định.
Thứ tư - Chính sách thuế bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo
điều kiện thuận lợi thực hiện hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Thứ năm - Cải cách thuế phải nâng cao năng lực bộ máy quản lý thuế
và hoàn thiện thủ tục hành chính thuế cho phù hợp với các yêu cầu của xã
hội nhằm tăng cường sự tuân thủ nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế.
2
2

Quá trình thực hiện các mục tiêu này sẽ làm cơ cấu thuế nước ta thay
đổi theo chiều hướng:
- Thuế nhập khẩu giảm dần tỉ trọng trong tổng nguồn thu NSNN và
không còn là nguồn thu lớn nhất trong NSNN.
- Thuế GTGT và Thuế TNDN trở thành 2 loại thuế đóng góp nhiều
nhất trong NSNN, chiếm khoảng 50% tổng thu từ thuế.
- Thuế thu nhập cá nhân giữ một vị trí ngày càng quan trọng, góp
phần nhiều hơn vào quá trình điều hoà thu nhập xã hội.
- Tỷ trọng các sắc thuế khác biến động không đáng kể trong tổng
nguồn thu NSNN.
Theo tiến trình Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, đến
năm 2006 Việt Nam đã cơ bản hoàn thành việc thực hiện cắt giảm thuế
quan (CEPT) để gia nhập đầy đủ về Thương mại với các nước ASEAN.
Khi đó thuế suất thuế nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu chỉ còn tối đa là 5%;
Việt Nam tiếp tục mở rộng và tham gia hội nhập với khu vực và trên thế
giới. Trong giai đoạn này, các ngành dịch vụ sẽ phát triển; đầu tư nước
ngoài tăng, đặc biệt là các ngành sản xuất, chế biến, chế tạo...Tổng sản
phẩm nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20% -25% trên tổng GDP, lao động
trong ngành này chỉ chiếm 55-60% tổng lao động toàn xã hội. Vì vậy, mục
tiêu cụ thể của chính sách thuế GTGT trong giai đoạn này là:
* Về mặt tài chính Ngân sách.
Thu về thuế GTGT là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà
nước. Do đó thuế GTGT phải hình thành một nguồn thu tập trung, ổn định,
đem lại số thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước. Số thuế GTGT thu
được ngày càng tăng qua các năm cả về tỉ trọng trong tổng số thuế gián thu
nói riêng và thu Ngân sách Nhà nước nói chung để bảo đảm phù hợp với
tình hình cắt giảm thuế nhập khẩu trong quá trình tham gia hội nhập.
* Về mặt kinh tế.
3
3

Chính sách thuế GTGT phải bảo đảm mức động viên hợp lý đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh, có tác dụng khuyến khích, thúc đẩy sản
xuất phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chính sách thuế phải tăng cường chế độ hạch toán kinh tế tại các
doanh nghiệp, buộc tất cả các cơ sở kinh doanh phải tuân thủ đúng tiêu
chuẩn định mức, triệt để thực hành tiết kiệm, nhằm giảm tối đa giá thành
của hàng hoá tiêu thụ. Bên cạnh đó, chính sách thuế cũng hỗ trợ thiết thực
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào kinh doanh,
khuyến khích sáng kiến cải tiến kỹ thuật, từng bước nâng dần chất lượng
của hàng hoá sản xuất trong nước.
Thuế GTGT phải phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng mọi
năng lực sản xuất, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần
kinh tế trên cơ sở bình đẳng về động viên đóng góp thuế, thúc đẩy việc tổ
chức và sắp xếp lại sản xuất, chuyển mạnh các doanh nghiệp sang hạch
toán kinh doanh, cổ phần hoá các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Việc áp dụng thuế GTGT phải gắn với cải cách hệ thống thuế hiện
hành ở nước ta, tạo thành một cơ cấu thuế hợp lý có tính tương đồng với hệ
thống thuế tiên tiến của thế giới tạo tiền đề thực hiện điều chỉnh thu Ngân
sách Nhà nước bằng hệ thống thuế hữu hiệu phù hợp với cơ chế thị trường,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
* Về mặt xã hội.
Thuế GTGT phải góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng giữa các
doanh nghiệp, giữa các đối tượng nộp thuế. Mặt khác, thuế cũng phải bảo
đảm tính trung lập, thực sự là một công cụ sắc bén để quản lý nền kinh tế vĩ
mô. Với chính sách thuế GTGT phải tạo được lòng tin của mọi tầng lớp,
mọi thành phần kinh tế trong xã hội vào đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.
* Về mặt nghiệp vụ.
4
4

Thuế GTGT phải được sửa đổi để tiến tới đơn giản, dễ hiểu, dễ làm,
dễ kiểm tra, các văn bản phải bảo đảm tính nghiêm minh, tính khách quan,
tính chặt chẽ, không chồng chéo, không gây khó khăn cho các doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện. Chính sách thuế phải bảo đảm việc quản
lý thu thuế chặt chẽ, chống trốn lậu thuế, nâng cao hiệu quả công tác quản
lý thu thuế của ngành Thuế với doanh nghiệp và các đối tượng nộp thuế.
3.2/ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KIỂM SOÁT THU THUẾ
GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.2.1 - Xác định mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới.
Thực chất của kiểm soát thu thuế nói chung, thu thuế GTGT nói
riêng là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực thuế (chủ yếu là ngành Thuế) với các đối tượng nộp thuế -
các doanh nghiệp nhằm đặt các mục tiêu của quản lý thu thuế. Do vậy, giải
pháp trước tiên cần phải nhằm giải quyết tận gốc mối quan hệ giữa Cơ
quan Thuế với các doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, phải xác định
được mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới.
Qua 2 năm thực hiện Luật Thuế GTGT, mô hình quản lý thu thuế
theo phương thức doanh nghiệp tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp tiền
thuế vào Kho bạc Nhà nước về cơ bản đã thể hiện được đặc tính ưu việt của
nó. Theo mô hình này, doanh nghiệp đã tự ý thức được nghĩa vụ của mình
với Nhà nước, đã nâng cao được sự tự giác, tự nguyện. Mô hình này còn
thể hiện được tính pháp lý của việc nộp thuế, theo đó doanh nghiệp không
kê khai và nộp thuế cũng đồng nghĩa với việc vi phạm Pháp luật của Nhà
nước. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, theo tác giả vẫn thực hiện theo mô
hình doanh nghiệp tự tính, tự kê khai và nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước.
Tuy vậy, chúng ta cần hoàn thiện mô hình này để kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT thực sự đạt được hiệu quả cao. Mục tiêu của nghiệp vụ quản lý thuế
trong giai đoạn tới là: thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện các quy định về thuế
của đối tượng nộp thuế, tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế và công
tác thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện tự động hoá công tác xử lý thông tin

5
5
thuế, phát hiện nhanh các trường hợp vi phạm về thuế nhằm hạn chế
tình trạng trốn thuế, bảo đảm tăng thu cho NSNN. Với mục tiêu trên,
phương hướng hoàn thiện mô hình này thể hiện chủ yếu trên những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn sẽ thực hiện việc tự
tính, tự kê khai thuế và tự nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước.
Thứ hai, việc nộp thuế phải được xác nhận của Kho bạc Nhà nước.
Đồng thời hệ thống Kho bạc phải có sự thông tin liên tục và cập nhật hàng
ngày với Cơ quan Thuế để xác định số thuế phải nộp, số thuế đã nộp của
các đối tượng nộp thuế.
Thứ ba, bộ phận xử lý tờ khai, chứng từ thanh toán thuế của cơ quan
Thuế, nhập tờ khai thuế và chứng từ thanh toán thuế để phát hiện các
trường hợp không nộp tờ khai thuế hoặc không nộp đủ thuế, phát hành
thông báo nhắc nhở và cung cấp thông tin cho bộ phận thanh tra thuế,
cưỡng chế thuế.
Thứ tư là xử lý các vi phạm về thuế. Bộ phận Thanh tra thuế lựa chọn
các đối tượng có hiện tượng nghi vấn để thực hiện thanh tra, kiểm tra và
tiến hành xử lý các hành vi vi phạm về thuế. Bộ phận cưỡng chế thuế sẽ
thực hiện các biện pháp xử lý thu thuế đối với những doanh nghiệp cố tình
không nộp thuế, trốn thuế.
Mô hình này đòi hỏi phải có sự phối, kết hợp giữa 3 bộ phận cấu
thành là Cơ quan Thuế, Kho bạc và Đối tượng nộp thuế. Trong đó, Cơ quan
Thuế là người chịu trách nhiệm trực tiếp với Nhà nước và do vậy phải được
nâng cao quyền tự chủ, tự quyết theo quy định của pháp luật. Cơ quan Thuế
và Kho bạc Nhà nước qua quy trình quản lý thu thuế sẽ phát hiện những vi
phạm pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, công tác thanh
tra, kiểm tra phải được tăng cường. những vi phạm của đối tượng nộp thuế
sẽ được xử lý nghiêm minh bằng một hệ thống Luật và văn bản dưới Luật

đầy đủ và chặt chẽ.
6
6
3.2.2 - Hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế và tổ chức bộ máy.
3.2.2.1- Hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế.
Như phần trước đã trình bày, Quy trình quản lý thu thuế hiện nay có
những thủ tục rườm rà, chưa loại bỏ hoàn toàn tình trạng cán bộ chuyên
quản thuế và việc ra thông báo thuế có nhiều vướng mắc. Do vậy, theo tác
giả, cần hoàn thiện quy trình quản lý thu thuế theo hướng như sau:
Thứ nhất, là cần xoá bỏ triệt để chế độ chuyên quản thuế. Xoá bỏ chế
độ chuyên quản thuế sẽ hạn chế thấp nhất tình trạng tiêu cực, thông đồng
của cán bộ thuế với doanh nghiệp trong việc trốn thuế, tránh thuế. Tuy vậy,
khi xoá bỏ chế độ chuyên quản thuế sẽ phát sinh nhiều vấn đề. Trong đó,
ngành Thuế sẽ có thể không nắm được tình hình sản xuất kinh doanh, tình
hình tài chính của doanh nghiệp để khai thác triệt để các nguồn thu cũng
như giải quyết không thoả đáng những thắc mắc, khiếu nại về thuế của
doanh nghiệp. Do vậy, khi xoá bỏ hoàn toàn chế độ chuyên quản thuế cũng
phải kết hợp với biện pháp khác là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
thuế, mặt khác trên góc độ pháp luật, ngành Thuế cần thành lập bộ phận
độc lập để giải quyết những khiếu nại về thuế của đối tượng nộp thuế.
Thứ hai, là xoá bỏ chế độ ra thông báo thuế của Cơ quan Thuế. Việc
xoá bỏ thông báo thuế không có nghĩa là làm giảm tính bắt buộc, tính pháp
lý của việc nộp thuế, trái lại nó khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện
tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế. Mặt khác, bãi bỏ chế độ ra thông báo thuế còn
làm giảm chi phí, nguồn lực cho Cơ quan Thuế.
Thứ ba, bên cạnh việc xoá bỏ thông báo thuế, ngành Thuế cần kết
hợp cơ chế kê khai thuế đồng thời với việc thanh toán thuế. Cơ chế này tạo
điều kiện cho việc thông báo thuế một cách tự động, đồng thời giảm bớt thủ
tục cho doanh nghiệp khi kê khai và nộp thuế. Để thực hiện cơ chế này,
ngành Thuế cần ấn định một ngày cụ thể trong tháng hoặc đầu tháng sau

mà trước thời gian đó, doanh nghiệp phải nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước.
7
7
Điều này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế.
Thứ tư, trong giai đoạn 2001 - 2005, ngành Thuế cần rà soát lại toàn
bộ các thủ tục hành chính thuế được quy định rải rác tại các Luật thuế, các
văn bản dưới Luật để nghiên cứu xây dựng hệ thống thủ tục quản lý hành
chính thuế thống nhất để đến giai đoạn 2006 - 2010, chính thức ban hành
Luật về thủ tục hành chính thuế. Luật về thủ tục hành chính thuế sẽ có nội
dung cơ bản là quy định cụ thể, chi tiết chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm
và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Đồng thời, Luật này cũng quy định những
thủ tục mà doanh nghiệp phải thực hiện khi kê khai và nộp thuế trong quy
trình quản lý thu thuế. Với sự ra đời của Luật về thủ tục hành chính thuế,
việc nộp thuế sẽ trở nên khách quan, công bằng đối với mọi doanh nghiệp
và tạo ra sự bình đẳng giữa cơ quan quản lý Nhà nước về thuế với các
doanh nghiệp trước pháp luật.
Thứ năm, quy trình quản lý thu thuế phải chú trọng tới việc phối kết
hợp giữa các Cục thuế tại các địa phương .Sự phối kết hợp này cần phân
định một cách rõ ràng các đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, nhất
là các doanh nghiệp hạch toán toàn ngành, các Tổng công ty thuộc đối
tượng quản lý thu thuế của từng địa phương. Mặt khác, Quy trình quản lý
thu thuế cũng cần quy định sự kết hợp giữa các Cơ quan Thuế ở các địa
phương khác nhau trong việc thu thuế, phát hiện hoá đơn giả, mua bán hoá
đơn, cũng như trong việc cưỡng chế thuế đối với các đối tượng nộp thuế.
Với những biện pháp nêu trên, Quy trình quản lý thu thuế sẽ từng
bước được hoàn thiện, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của kiểm soát thu
thuế GTGT.
3.2.2.2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức ngành Thuế.

Phần lớn các hệ thống quản lý thuế trên thế giới đều hoạt động theo
nguyên tắc tự tính thuế và nộp thuế trên cơ sở tính tự giác của đối tượng
8
8
nộp thuế. Mục tiêu cơ bản của hệ thống này là giảm tới mức tối thiểu mối
quan hệ trực tiếp với những đối tượng nộp thuế chấp hành đúng quy định
về thuế. Bằng cách đó, với lực lượng cán bộ có hạn của bộ máy quản lý
thuế, có thể tập trung vào việc kiểm tra, phát hiện và xử lý những trường
hợp vi phạm.
Trong thời gian tới, số lượng các đối tượng nộp thuế sẽ tăng lên
nhanh chóng. Những thay đổi này sẽ làm cho kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT ngày càng khó khăn hơn. Vì vậy, điều thiết yếu là phải cải tổ hệ
thống quản lý thuế nhằm giúp cho hệ thống này theo kịp chuyển đổi của
nền kinh tế.
Một bộ máy quản lý thuế có hiệu lực phải đáp ứng các mục tiêu sau:
- Phải xác định rõ và đầy đủ nhiệm vụ của Cơ quan Thuế.
- Phải nâng cao hơn nữa quyền hạn và tính chủ động của tổ chức bộ
máy Cục thuế Hà Nội.
- Phải sửa đổi tổ chức bộ máy để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ
được giao, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý thuế.
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành bộ máy quản lý thuế, theo
tác giả, trước mắt Chính phủ cần ban hành một Nghị định mới thay thế
Nghị định 281/HĐBT ngày 7/8/1990 của Hội đồng bộ trưởng về thành lập
Hệ thống thu thuế Nhà nước, chuẩn bị bước đệm để ban hành Luật về thủ
tục Hành chính thuế.
Trên địa bàn Hà Nội, bộ máy Cục thuế cần được sửa đổi theo hướng:
nâng cao khả năng quản lý đối tượng nộp thuế của bộ máy, tức là khi số
lượng đối tượng nộp thuế tăng lên thì nhân lực cũng không cần tăng tỷ lệ
thuận với số lượng đối tượng nộp thuế, bộ máy phải tạo điều kiện áp dụng
công nghệ hiện đại vào quản lý thuế, thực hiện chuyên môn hoá cao trong

các khâu công việc.
9
9
Cục trưởng và các Cục phó cục thuế
Phòng Dịch vụ đối tượng nộp thuế
Phòng Thanh tra và điều tra thuế (theo đối tượng)
Phòng Đốc thu và Cưỡng chế thuếPhòng Xử lý tờ khai thuế Các Phòng quản lý nội bộ
Vì vậy, trong giai đoạn tới Cục thuế Hà Nội cần phát triển hệ thống
tuyên truyền thuế, dịch vụ phục vụ đối tượng nộp thuế, hình thành riêng
Phòng xử lý tờ khai thuế, phòng thu các trường hợp chậm nộp, gian lận và
cưỡng chế thuế; sắp xếp lại các Phòng Quản lý hiện nay để thực hiện chức
năng của các Phòng Thanh tra, kiểm tra. Mô hình tổ chức sẽ chuyển hẳn
sang cơ chế quản lý theo hệ thống tự tính thuế hoàn toàn và bộ máy quản lý
được tổ chức theo chức năng công việc.
Cơ cấu bộ máy Cục thuế được tổ chức theo mô hình sau:
Sơ đồ 3 : CƠ CẤU BỘ MÁY CỤC THUẾ THEO CHỨC NĂNG CÔNG
VIỆC
Mô hình này đáp ứng được các yêu cầu, mục tiêu được đưa ra ở trên,
cụ thể là:
- Mô hình này cho phép tăng cường hiệu suất quản lý, tạo điều kiện
cho cán bộ phát triển chuyên môn theo chức năng (tính thuế, theo dõi,
cưỡng chế thu nộp, thanh tra), Cơ quan Thuế có thời gian để tập trung vào
việc phát hiện những hiện tượng vi phạm và kịp thời xử lý. Hơn nữa cũng
hạn chế được tiêu cực do giảm việc tiếp xúc giữa cán bộ thuế với đối tượng
nộp thuế.
- Mô hình này không gây áp lực về nhân lực quản lý khi trong tương
lai, số lượng đối tượng nộp thuế tăng lên.
- Mô hình này được tổ chức theo chức năng, do đó bảo đảm Cơ quan
Thuế hoạt động hữu hiệu hơn, tạo điều kiện hiện đại hoá công tác quản lý
bằng việc ứng dụng máy tính hoàn toàn các khâu quản lý.

Tại các Chi cục thuế, bộ máy Chi cục thuế sẽ được củng cố theo
hướng: phát triển hệ thống tổ chức thông tin tuyên truyền thuế, dịch vụ
phục vụ đối tượng nộp thuế thông qua các tổ nghiệp vụ ở các chi cục.
10
10
Bên cạnh việc xây dựng mô hình bộ máy tổ chức, Cục thuế Hà Nội
cần quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ thuế thông qua đào tạo
từ trình độ cơ bản, chuyên sâu đến nâng cao. Cán bộ thuế phải giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ, giỏi về kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ
năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ; Cán bộ thuế phải có phẩm
chất đạo đức tốt và có tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Với
mục tiêu đó, việc đào tạo cán bộ thuế phải được thực hiện theo hướng sau:
- Đào tạo cán bộ theo hướng chuyên môn hoá sâu theo từng chức
năng công việc, phù hợp với mô hình quản lý theo phương pháp tự tính, tự
khai, tự nộp thuế.
- Trang bị kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn, bảo đảm cán bộ
có khả năng tốt trong việc phân tích, đánh giá khả năng thực thi của chính
sách thuế làm cơ sở cho hoạch định chính sách thuế cũng như đề xuất các
biện pháp quản lý thu.
- Đào tạo một lực lượng cán bộ thực sự giỏi, cán bộ đầu ngành, nhiều
kinh nghiệm quản lý để đảm đương công việc mũi nhọn của ngành và các
lĩnh vực quản lý thuế phức tạp, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công tác cán
bộ trong quá trình hội nhập khu vực.
3.2.3 - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Thanh tra, kiểm tra thuế: về mặt nhận thức, công tác thanh tra, kiểm
tra hiện nay được coi là mặt công tác chủ yếu, quan trọng hàng đầu của
kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Tuy vậy, công tác thanh tra trên thực tế
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự kê khai và nộp thuế của các doanh
nghiệp, các hiện tượng trốn lậu thuế, thất thu thuế vẫn là vấn đề nhức nhối
của toàn hệ thống thuế nói chung và Cục thuế Hà Nội nói riêng. Do vậy,

theo tác giả, ngành Thuế phải rà soát lại toàn bộ các hoạt động, định hướng
lại các mục tiêu và xây dựng quy trình thanh tra, kiểm tra thuế một cách
độc lập. Và đây phải là công tác trọng tâm của việc kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT trong giai đoạn tới.
11
11
Trên góc độ kiểm soát, thanh tra, kiểm tra thuế là một hoạt động
ngoại kiểm do Cơ quan thế với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực thuế tiến hành. Vì vậy, để củng cố và hoàn thiện công tác thanh
tra, kiểm tra thuế, trước tiên cần xác định rõ mục tiêu của hoạt động thanh
tra, kiểm tra thu thuế GTGT.
Mục tiêu chung nhất mà mọi cuộc thanh tra thuế phải đạt tới là:
- Phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm của doanh nghiệp trong
việc tuân thủ các quy định pháp luật về thuế GTGT.
- Phát hiện và xử lý những vi phạm của doanh nghiệp trong việc chấp
hành chế độ tài chính - kế toán do Nhà nước quy định.
- Thu thập thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp nhằm cung cấp cho bộ phận xây dựng chính sách thuế để
có những điều chỉnh kịp thời về chính sách thuế cũng như về biện pháp
quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp.
Tiếp theo việc xác định mục tiêu, công tác thanh tra cần xác định
trình tự của một cuộc kiểm soát. Ở đây, cần xác định trong kiểm soát thu
thuế GTGT, đối tượng cụ thể của kiểm soát là thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, các phần hành kiểm soát có thể là quan hệ thanh toán,
nghiệp vụ kinh doanh hay nghiệp vụ về TSCĐ... Khách thể của kiểm soát
là các doanh nghiệp, chủ thể của kiểm soát là Cơ quan Thuế. Trong kiểm
soát thu thuế GTGT, phạm vi của kiểm soát bao gồm kiểm soát về thông
tin và kiểm soát tính quy tắc.
Theo đó, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải hướng vào việc đánh
giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu kế toán và đánh giá tình

hình thực hiện các thể lệ, chế độ, Luật pháp về thuế GTGT của doanh
nghiệp. Với những yếu tố trên, trình tự của một cuộc thanh tra phải bao
gồm 3 bước cơ bản là:
12
12
- Bước 1: Chuẩn bị kiểm soát bao gồm tất cả các công việc khác nhau
nhằm tạo ra cơ sở pháp lý và nguồn lực con người, phương tiện cho việc
kiểm soát.
- Bước 2: Tiến hành kiểm soát.
- Bước 3: Kết thúc kiểm soát và đưa ra kết luận thanh tra, đưa ra các
biện pháp xử lý vi phạm.
Với ba bước như trên, việc xây dựng một Quy trình thanh tra, kiểm
tra thu thuế GTGT là nhu cầu vô cùng cần thiết. Theo tác giả, Quy trình
thanh tra có thể được mô tả trên sơ đồ 4.
* Thu thập thông tin: ở bước chuẩn bị thanh tra, việc thu thập thông
tin cần hướng đến việc đưa ra quyết định về thanh tra mà chưa đặt ra mục
đích thu thập bằng chứng để đưa ra kết luận thanh tra. Các thông tin được
đưa ra nói chung phản ánh chiều rộng của đối tượng thanh tra hơn là chiều
sâu. Do vậy, nó phát hiện những dấu hiệu của việc vi phạm Luật thuế mà
những tiêu chuẩn để phát hiện chính là các quy định pháp luật về thuế.
Ở giai đoạn này, các dấu hiệu vi phạm sẽ được phát hiện bởi Phòng
Xử lý tờ khai thuế (khi doanh nghiệp có dấu hiệu kê khai không đúng
thuế), Phòng Thống kê, máy tính (khi doanh nghiệp tính sai thuế suất và
thuế phải nộp hoặc còn nợ đọng thuế), Phòng Thanh tra và điều tra thuế
(khi doanh nghiệp có tiền án tiền sự về vi phạm Luật thuế).
* Xác định mục tiêu và phạm vi thanh tra:
Trên cơ sở những dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp, Phòng Thanh
tra và Điều tra thuế sẽ xác định mục tiêu của cuộc thanh tra. Mục tiêu đó có
thể là kiểm tra sau hoàn thuế, kiểm tra quyết toán thuế, khấu trừ thuế hay
kiểm tra việc sử dụng hoá đơn, chứng từ cũng như việc tuân thủ chế độ

hạch toán kế toán và luân chuyển chứng từ của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
một cuộc thanh tra thuế thường bao gồm tất cả các mục tiêu trên và thường
13
13
kết hợp thanh tra cùng một lúc với việc chấp hành các Luật Thuế GTGT và
Luật thuế TNDN.
Bên cạnh việc xác định mục tiêu thanh tra, cần xác định phạm vi của
việc thanh tra. Việc thanh tra có thể tiến hành trên một hay một nhóm các
doanh nghiệp có cùng dấu hiệu vi phạm. Phạm vi thanh tra còn phải xác
định được thời gian thực hiện các nghiệp vụ cần thanh tra. Trên khía cạnh
này, phạm vi thanh tra có thể là tháng, quý hoặc năm tài khoá mà doanh
nghiệp thực hiện quyết toán.
Các mục tiêu và phạm vi của cuộc thanh tra thường kết hợp chặt chẽ
với nhau, thể hiện ở 2 hình thức: thanh tra định kỳ và thanh tra đột xuất.
Thanh tra định kỳ (ví dụ thanh tra quyết toán thuế hàng năm của doanh
nghiệp) sẽ hướng tới việc tạo lập nền nếp tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế.
Ngược lại, thanh tra đột xuất thường gắn liền với việc xử lý các vụ việc cụ
thể hay nghiên cứu tìm hiểu các dấu hiệu vi phạm cụ thể được thể hiện trên
một nhóm đối tượng doanh nghiệp.
* Lập kế hoạch thanh tra.
Sau khi đã xác định được các mục tiêu và phạm vi của cuộc thanh
tra, Phòng Thanh tra và điều tra thuế sẽ lập ra kế hoạch thanh tra, bao gồm
các bước công việc cụ thể. Kế hoạch thanh tra phải quy định cụ thể chức
năng, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của từng cán bộ khi kiểm tra doanh
nghiệp. Để một cuộc thanh tra bảo đảm tính pháp lý, Cơ quan Thuế cần ra
Quyết định thanh tra. Nội dung của Quyết định thanh tra bao gồm :
+ Căn cứ pháp lý để thanh tra, kiểm tra.
+ Nội dung, yêu cầu, phạm vi của cuộc thanh tra, kiểm tra.
+ Thời hạn thanh tra, kiểm tra.
+ Thành viên Đoàn thanh tra, kiểm tra và quyền hạn, trách nhiệm của

Đoàn thanh tra, kiểm tra.
+ Quyền và nghĩa vụ của đối tượng được thanh tra, kiểm tra.
14
14

×