Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.07 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI
TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, một nền kinh tế đang trên đà phát triển
mạnh, các doanh nghiệp đã dần ý thức được sự cần thiết cũng như lợi thế của
các khoản vay của NHTM, người dân cũng thấy được tiện ích khi gửi những
khoản tiền nhàn rỗi của mình trong ngân hàng thay vì giữ tiền mặt tại nhà như
trước đây, cho nên, như một điều tất yếu, ngành ngân hàng đang phát triển rất
mạnh ở nước ta, đặc biệt là trong những năm gần đây.
Nói một cách chung nhất, ta có thể hiểu, Ngân hàng thương mại là một tổ
chức tín dụng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc thực hiện nhiệm
vụ cơ bản nhất của ngân hàng là đi vay và cho vay. Ngoài ra, NHTM còn cung
cấp nhiều dịch vụ tài chính quan trọng khác như thanh toán, mua bán ngoại tệ,
ủy thác…
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Từ khái niệm về NHTM nêu trên ta có thể thấy được tầm quan trọng của
NHTM đối với toàn nền kinh tế là rất lớn, từ đó việc nghiên cứu vai trò của nó
là cần thiết để rút ra được sự cần thiết của hoạt động cho vay tài trợ ngoại
thương.
a. NHTM cung cấp vốn cho nền kinh tế
Nền kinh tế của một quốc gia muốn phát triển thì các doanh nghiệp thành
viên trong nền kinh tế đó phải hoạt động hiệu quả, tạo ra lợi nhuận đóng góp
vào thu nhập quốc dân. Vốn là một trong những yếu tố cơ bản quan trọng bậc
nhất tạo nên hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà có
thể nói, vốn là quan trọng để phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, trong nền kinh
tế, vốn được phân phối không đồng đều. Có những chủ thể có vốn nhàn rỗi
nhưng không có kế hoạch đầu tư, ngược lại, có những chủ thể có phương án đầu
tư hiệu quả, nhưng không thể thực hiện được vì thiếu vốn. Sự gặp nhau giữa các
chủ thể này trong nền kinh tế là rất khó khăn do những hạn chế về không gian
và thời gian. Chính vì vậy, với hoạt động huy động vốn từ các chủ thể có vốn


nhàn rỗi và sử dụng vốn đó cho các chủ thể thiếu vốn vay đã mang lại cho
NHTM một vai trò to lớn trong việc điều tiết vốn trong nền kinh tế. Hay chúng
ta có thể hiểu một cách đơn giản hơn NHTM chính là đầu mối cung cấp vốn cho
toàn bộ nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp thực hiện được các phương án đầu
tư hiệu quả, tăng thu nhập cho doanh nghiệp, ngân hàng nói riêng và toàn bộ
nền kinh tế nói chung.
b. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường
Một doanh nghiệp không thể hoạt động nếu nó không có mối liên hệ với
thị trường. Thị trường vừa là nơi cũng cấp những nguyên vật liệu, hàng hóa,
máy móc đầu vào cho doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là nơi tiêu thụ những
sản phẩm mà doanh nghiệp đó làm ra. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị
trường được thiết lập thông qua các hoạt động tìm kiếm đối tác, marketing, hoạt
động bán hàng, phân phối sản phẩm…Những hoạt động này chỉ thực sự tốt và
mang lại hiệu quả cao khi doanh nghiệp có cơ sở về vốn. Rõ ràng là không phải
bất kì một doanh nghiệp nào cũng có đủ vốn để thực hiện những hoạt động đó.
Khi đó, NHTM với vai trò là người tài trợ vốn sẽ giúp các doanh nghiệp tháo gỡ
khó khăn để thiết lập mối quan hệ gắn bó với thị trường, tạo điều kiện cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của họ được trơn tru, mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
c. NHTM là cầu nối tài chính quốc gia với tài chính quốc tế
Trong thời đại hội nhập này, một quốc gia không thể tồn tại nếu không có
sự giao lưu về kinh tế và tài chính với các quốc gia khác trên thế giới. NHTM
với ưu thế là một tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ trên thị trường tài chính sẽ
là cầu nối hữu hiệu với nền tài chính quốc tế. Thông qua các nghiệp vụ như
thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng đại lý, ủy thác…đã tạo thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong nước giao lưu kinh tế với các doanh nghiệp
nước ngoài, đồng thời cũng giúp các luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào và
ngược lại được thuận lợi.
d. NHTM là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
Hệ thống ngân hàng luôn nắm giữ một phần rất lớn tổng lượng tiền tệ lưu

thông trên thị trường. Do đó, khi thực hiện các chính sách tiền tệ, việc tác động
của Nhà nước vào NHTM rất có hiệu quả. Thông qua các nghiệp vụ chiết khấu
và tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc...tác đông vào NHTM mà Nhà nước có thể
điều tiết được lượng tiền lưu thông trên thị trường từ đó làm giảm lạm phát,
góp phần giúp nền kinh tế phát triển bền vững. Ngoài ra, thông qua NHTM,
Nhà nước còn có thể quản lý được tỷ giá, lãi suất thị trường…
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà, cung cấp vốn cho nền
kinh tế. Vai trò đó được thể hiện rõ nét thông qua các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
a. Hoạt động huy động vốn
Cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác, NHTM cũng
cần có nguyên vật liệu đầu vào để đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của
mình, đó là tiền. Huy động vốn chính là hoạt động thu hút “nguyên vật liệu” đó. Các
hoạt động NHTM đều cần dùng rất nhiều vốn, tuy nhiên vốn tự có của ngân hàng
không thể đáp ứng được cho các hoạt động đó. Do đó huy động vốn nhàn rỗi từ các
tổ chức cá nhân là hoạt động rất quan trọng có ý nghĩa sống còn với NHTM. NHTM
có thể huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát
hàng kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, cổ phiếu, trái phiếu, đi vay các tổ chức khác…
Huy động vốn tốt sẽ tạo cho ngân hàng cơ sở để mở rộng hoạt động, nâng cao chất
lượng dịch vụ, từ đó tạo uy tín cho ngân hàng trên thị trường. Tuy nhiên, NHTM
phải trả lãi cho các khoản vốn huy động được, vì vậy, các NHTM cần xem xét
phương hướng hoạt động của mình để có chính sách huy động cho thích hợp nếu
không muốn chi phí huy động bị độn lên quá cao, ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân
hàng.
b. Hoạt động sử dụng vốn
Nếu như huy động vốn là hoạt động tìm đầu vào cho NHTM thì sử dụng vốn là
hoạt động tìm đầu ra, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn của
NHTM rất đa dạng, bao gồm các hoạt động cơ bản sau.
Một là hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động truyền thống và cũng là hoạt động quan trọng nhất của

NHTM. Nguồn thu từ lãi vay là một nguồn quan trọng để trang trải chi phí từ hoạt
động huy động vốn. Nhưng cho vay cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất
cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng luôn chú trọng đến việc xây dựng một quy trình
cho vay khoa học, hợp lý để hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận. Các hình thức cho
vay của NHTM rất đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu về thời hạn, giá trị vốn vay,
mục đích…cho mọi đối tượng khách hàng.
Hai là hoạt động đầu tư
Nếu như trong hoạt động cho vay ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ của các
doanh nghiệp thì trong hoạt động đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ sở hữu của
doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư không những giúp tăng nguồn thu mà còn giúp
ngân hàng san sẻ rủi ro trong hoạt động của mình. Ngân hàng có thể đầu tư vào một
doanh nghiệp thông qua việc góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc mua cổ phiếu
của doanh nghiệp đó. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của ngân hàng có thể còn được
hiểu bao gồm cả những khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng của chính ngân hàng nhằm
phục vụ tốt quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
Ba là hoạt động ngân quỹ
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, do đó, ngân hàng không chỉ quan
tâm đến vấn đề nâng cao lợi nhuận mà còn tập trung vào vấn đề hạn chế rủi ro. Ngân
hàng luôn sử dụng một phần vốn huy động được để bổ sung vào ngân quỹ, tạo tính
thanh khoản cho ngân hàng. Thông qua hoạt động này, ngân hàng đảm bảo được
tính an toàn trong kinh doanh, đây là một yếu tố quan trọng thể hiện chất lượng hoạt
động, và là cơ sở để nâng cao uy tín cho ngân hàng.
c. Hoạt động khác
Ngoài các hoạt động trên, NHTM còn triển khai nhiều hoạt động khác góp
phần hiện đại hóa hệ thống tài chính như thanh toán, nhờ thu, ủy nhiệm chi, các dịch
vụ e-banking, môi giới, mua bán chứng khoán…Các dịch vụ mang lại những tiện
ích lớn cho khách hàng, giúp khách hàng giảm chi phí cũng như thời gian một cách
đáng kể. Những hoạt động này ít rủi ro, và mang lại lợi nhuận khá lớn cho ngân
hàng, do đó, xu thế chung của các NHTM là tăng dần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động
này trong tổng thu nhập của toàn ngân hàng.

1.2. Chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu
1.2.1.1. Tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu
Đã qua từ lâu rồi cái thời các quốc gia đóng của, “bế quan tỏa cảng” không
giao thương với thế giới, trong thời đại này, cho dù là một cường quốc, hay là
một quốc gia nhỏ bé thì cũng không thể phát triển nếu không có sự giao lưu,
trao đổi ra bên ngoài. Theo lý lợi thế cạnh tranh của David Ricardo, mỗi nước
muốn tối đa hóa lợi ích của quốc gia mình thì phải xuất khẩu những mặt hàng
có giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia khác, và ngược lại. Có
nghĩa là các nước cần phải tham gia vào hoạt động ngoại thương nếu muốn phát
triển.
Tầm quan trọng của hoạt động ngoại thương thể hiện ở vai trò của nó, là
một lĩnh vực kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa giữa các nước, các
chức năng cơ bản của ngoại thương: Một là, tạo vốn cho quá trình mở rộng đầu
tư trong nước. Hai là, chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất
của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và
thích ứng với nhu cầu của tiêu dùng và tích lũy. Thứ ba, góp phần nâng cao hiểu
quả cuẩ nền kinh tế bằng việc tạo môi trường cho sản xuất, kinh doanh.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những
nét đặc thù riêng đó là nước ta đang trong quá trình đi lên từ một nền sản xuất
nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế có nhiều thành phần tham gia, cơ sở hạ
tầng còn thấp kém, công nghệ lạc hậu… Tất cả những điều này cho thấy hoạt
động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn.
1.2.1.2. Nhu cầu và các nguồn tài trợ xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp
Từ những lý luận trên, một lần nữa ta có thể khẳng định hoạt động xuất
nhập khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh tế quốc dân.
Tỷ trọng xuất nhập khẩu trong tổng thu nhập quốc dân ngày càng tăng và tăng
nhanh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang tích cực tham gia vào hoạt

động này.
Với vai trò to lớn, rõ ràng nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp là rất lớn, và rất đa dạng.
♦ Các doanh nghiệp xuất khẩu
Bất kỳ một loại hàng hóa nào xuất khẩu cùng phải mất nhiều thời gian, cho
dù Nhà nước đã có nhiều chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu
phát triển, nhưng với đặc thù của nó, thời gian xuất khẩu vẫn thường diễn ra
trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Nhu cầu tài trợ thường nảy sinh trong
những giai đoạn sau.
- Phân tích, tìm kiếm thị trường, giới thiệu sản phẩm: Đây là một giai đoạn
quan trọng, nó thể hiện đường lối phát triển của doanh nghiệp. Để thành công
thì doanh nghiệp cần phải sản xuất ra những sản phẩm mà thị trường cần, phải
có kế hoạch sản xuất cụ thể, phải quảng bá được sản phẩm, và phải tìm kiếm
được đối tác. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, khả năng về tài chính còn yếu
thì chi phí cho giai đoạn này là tương đối lớn.
- Ký kết hợp đồng: Giai đoạn này, những nhà xuất khẩu nhỏ, hoặc chưa có
quan hệ thường xuyên với khách hàng, thì khách hàng thường yêu cầu họ phải
có những hợp đồng bảo lãnh như bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh chất lượng sản phẩm...với những hợp đồng có giá trị
lớn thì chi phí bảo lãnh là không nhỏ.
- Chuẩn bị sản xuất: Giai đoạn này thường phát sinh rất nhiều chi phí ngoài
dự kiến đặc biệt là đối với những hợp đồng lớn.
- Cung ứng sản phẩm: Tùy vào điều kiện gaio hàng theo thỏa thuận của hai
bên mà nhà xuất khẩu trong giai đoạn này vẫn phải chịu những chi phí như chi
phí vận chuyển, bảo hiểm...
- Lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Ngoài những chi phí lắp đặt, chạy
thử, nhà xuất khẩu còn phải đối mặt với chi phí thực hiện nghĩa vụ khi có bảo
lãnh chất lượng sản phẩm cho nhà nhập khẩu.
- Bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo
hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.

- Thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận
lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán về
chiết khấu, hoặc cho nhà nhập khẩu thanh toán chậm. Trong thời gian chờ được
thanh toán nhà xuất khẩu vẫn có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá
trình tái sản xuất tiếp theo. Do đó, để đảm bảo sản xuất liên tục, nhà xuất khẩu
rất cần được tài trợ trong giai đoạn này.
♦ Doanh nghiệp nhập khẩu
Đối với nhà nhập khẩu, nhu cầu tài trợ cũng được thể hiện ở rất nhiều giai
đoạn.
- Trước khi kí kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có
những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu cũng
như khả năng tài chính của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, nhà nhập khẩu cần
được tài trợ để đặt cọc, tạm ứng cho nhà xuất khẩu.
- Sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có
thể phải thực hiện những khoản thanh toán theo thỏa thuận cho nhà xuất khẩu
hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư. Giai đoạn
này là một trong những giai đoạn cần tài trợ nhất của nhà nhâp khẩu.
- Cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá
có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập
khẩu.
-Nhận hàng hoá: Thông thường những nhà xuất khẩu yêu cầu nhà nhập
khẩu thanh toán theo tiến độ cung ứng hàng hóa. Khi đó, nhà nhập khẩu chỉ có
thể nhận được hàng hóa khi nhà nhập khẩu đã thanh.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với những nhà nhập khẩu hoạt
động trong lĩnh vực thương mại thì họ còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho
khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi nhận được tiền bán hàng hoá, vì
trong thời gian này nhà nhập khẩu vẫn cần vốn để nhập những mặt hàng khác,
đảm bảo cho việc kinh doanh được thông suốt.
1.2.2. Những vấn đề cơ bản của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM

1.2.2.1. Khái niệm và phân loại cho vay ngân hàng
Cho vay là một bộ phận rất lớn và quan trọng trong tín dụng ngân hàng. Tín
dụng bao gồm cho vay, bảo lãnh và cam kết cho vay. Trong một số ngữ cảnh cụ
thể, có thể đồng nghĩa thuật ngữ cho vay với tín dụng. Mặt khác, do cho vay
luôn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tín dụng ngân hàng, cho nên nhiều lúc khi
nói đến tín dụng ngân hàng nhiều người sẽ hiểu ngay là cho vay. Do đó, để hiểu
thế nào là cho vay của NHTM, chúng ta cần nghiên cứu khái niệm tín dụng
ngân hàng.
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà
có những cách định nghĩa khác nhau. Cách được hiểu chung nhất: Tín dụng
ngân hàng là một hoạt động của NHTM mà trong đó, NHTM cấp cho khách hàng
một khoản vốn (hoặc cam kết cấp vốn trong những điều kiện nhất định) với cam
kết từ phía khách hàng sẽ trả đầy đủ cả vốn và lãi khi đến hạn.
Cho vay là một bộ phận của tín dụng, và trong một khía cạnh nào đó người
ta có thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Tóm lại, cho vay được hiểu hẹp
hơn so với tín dụng. Hoạt động cho vay của NHTM là việc ngân hàng giao cho
người vay một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định, và người vay
phải trả cả gốc và lãi vô điều kiện khi đến hạn thanh toán.
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa
trên các tiêu thức nhất định. Có rất nhiều cơ sở để phân loại cho vay:
Theo mục đích, cho vay thường được chia thành các loại sau:
* Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, mua
sắm, để trang trải những chi phí thông thường của đời sống.
* Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
* Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực này.
* Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải những chi phí liên
quan đến nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, cây con giống, thức ăn gia

súc, lao động, chuồng trại...
* Cho vay các tổ chức tài chính là các khoản cho vay đối với các ngân
hàng khác, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ
tín dụng, và các định chế khác.
* Cho thuê bao gồm cho thuê vận hành và cho thuê tài chính, tài sản được
cho thuê bao gồm cả động sản và bất động sản trong đó chủ yếu là máy móc
thiết bị.
Theo thời hạn vay,
* Cho vay ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn dưới 12 tháng.
* Cho vay trung hạn là những khoản vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến
5 năm(theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam).
* Cho vay dài hạn là những khoản vay có thời hạn trên 5 năm có thể lên
đến 20-30 năm, thậm chí là 40 năm.
Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, theo cơ sở này, cho vay
được chia làm hai loại:
* Cho vay không bảo đảm, loại này thương được áp dụng với những khách
hàng quen thuộc, có uy tín, và khả năng tài chính mạnh.
* Cho vay có bảo đảm áp dụng đối với những khách hàng không có uy tín
cao đối với ngân hàng.
Theo phương pháp hoàn trả,
* Cho vay có thời hạn là loại cho vay có thảo thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng.
* Cho vay không có thời hạn cụ thể , đối với loại cho vay này, ngân hàng
có thể yêu cầu hoặc người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo
trước một thời gian hợp lý, được thỏa thuận trong hợp đồng.
Theo xuất xứ tín dụng,
* Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng, và
khách hàng trực tiếp hoàn trả cho ngân hàng.
* Cho vay gián tiếp bao gồm các nghiệp vụ: chiết khấu thương phiếu, cho
vay trả góp, nghiệp vụ factoring...

1.2.2.2. Khái niệm, phân loại và vai trò của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Từ căn cứ khái niệm về cho vay ngân hàng đã nêu trên ta có thể định nghĩa
cho vay tài trợ xuất nhập khẩu như sau: Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của
NHTM là hình thức cho vay nhằm tài trợ cho hoạt động ngoại thương, kỳ hạn
gắn liền với thời gian thực hiện hợp đồng kinh tế, đối tượng tài trợ là các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc ủy thác.
Như đã phân tích ở trên, sự phát triển của hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
là khách quan, do nó có tầm quan trọng rất lớn với nên kinh tế. Với vai trò là
một trong những nguồn tài trợ quan trọng nhất, hoạt động cho vay tài trợ xuất
nhập khẩu của NHTM cũng thể hiện được những vai trò riêng biệt. Nó được thể
hiện qua những mặt sau.
• Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
* Nguồn cho vay của NHTM còn là công cụ để làm nâng cao lợi nhuận và
hiệu quả của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
cũng là một khoản giảm trừ thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc
sử dụng hợp lý nguồn vốn này là một công cụ rất hiệu quả để nâng cao lợi nhận
cho các doanh nghiệp. Mặt khác, việc sử dụng nguồn, cũng tạo động lực để các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, bởi vì các doanh nghiệp vẫn phải trả
lãi cho việc sử dụng nguồn này, và buộc các doanh nghiệp phải quan tâm hơn
đến vấn đề hiệu quả kinh doanh.
* Do cũng là một trong những nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu, cho nên
cũng giống những nguồn khác, cho vay của NHTM là một nguồn để tài trợ cho
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mua sắm nguyên vật liệu đầu vào,
mua sắm máy móc, công nghệ, sản xuất, tiêu thụ hàng hóa...
* Với sự tham gia của các NHTM, là những tổ chức có những cán bộ giàu
kinh nghiệm, chuyên môn, hiểu biết về hoạt động xuất nhập khẩu, thanh toán
quốc tế, cũng như nền tài chính quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ được diễn
ra một cách thuận lợi, nhanh chóng và an toàn hơn.
• Đối với toàn bộ nền kinh tế
Những vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp có tác động gián tiếp

đến nền kinh tế. Cụ thể là nguồn cho vay của NHTM đối với hoạt động ngoại
thương góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, tăng thêm
thu nhập, tăng hàng hóa tiêu dùng trong nước, góp làm nâng cao đời sống nhân
dân, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia khác... Bên cạnh đó,
NHTM còn là nơi phân phối các nguồn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế,
vì những nguồn này đều được ủy thác qua NHTM. Vai trò của nguồn tài trợ này
còn được thể hiện ở chỗ, nó là một công cụ để Nhà nước điều tiết sự phát triển

×