Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.08 KB, 21 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU
1.1. Tổng quan về BHXH
1.1.1. Khái niệm về BHXH
1.1.1.1 Khái niệm
BHXH dần được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XIX, từ khi cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất nổ ra, nền sản xuất hàng hóa bước đầu được hình thành
và phát triển. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Liên Hợp Quốc đã phê chuẩn
nhiều công ước có liên quan đến BHXH và các chính sách ASXH thì hoạt động BHXH
có quy mô hoạt động tương đối rộng và được hơn 100 nước trên thế giới tổ chức thực
hiện. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay thì chưa có khái niệm chuẩn về BHXH,
phần lớn là những khái quát, cách nhìn nhận của nhiều nhà khoa học khác nhau. Bởi vì,
hiện nay giữa các nhà khoa học và các nhà quản lý vẫn còn nhiều quan điểm, cách nhìn
khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy, người ta bắt đầu nghiên cứu lại
và liên hệ với thực tế thế giới tư bản thời đó để từ đó có thể đưa ra một khái niệm hoàn
chỉnh về BHXH, người ta nghiên cứu luận điểm của C.Mác:
Từ bảo hiểm xã hội được ghép lại từ hai từ bảo hiểm và xã hội. Theo C.Mác thì
quá trình tái sản xuất xã hội là quá trình sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu
cầu con người, quá trình này diễn ra trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất nhất định
(quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa con người với tự nhiên) toàn bộ mối quan
hệ đó hợp thành xã hội bởi vậy phạm trù xã hội nhìn nhận từ góc độ kinh tế là rất rộng,
rất cơ bản. Từ bảo hiểm cũng xuất phát từ mối quan hệ sản xuất mà ra: cụ thể với tư
cách là thu nhập, tư cách là thành phần giá trị rơi vào tư bản, công nhân nhưng không
được dùng hết mà tích lũy lại để lấy lỗ hổng trong quá trình tái sản xuất do các yếu tố
ngẫu nhiên chi phối.
Theo C.Mác thì: “Vấn đề này ngay cả Chủ nghĩa tư bản không tồn tại thì loài
người vẫn phải làm”. Hiện tượng này C.Mác gọi là bảo hiểm cho loài người trước
những biến động dữ dội của tự nhiên tác động đến mối quan hệ giữa người với người.
Với ý nghĩa đó, bảo hiểm được chia thành hai phần: Bảo hiểm cho những lỗ hổng trong
quá trình tái sản xuất và bảo hiểm cho lỗ hổng trong đời sống xã hội loài người. Dựa
vào các luận điểm của C.Mác mà các nhà khoa học, các nhà quản lý đưa ra một số khái
niệm như sau:


Nếu trên góc độ tài chính (Tài chính công): “BHXH là quá trình san sẻ rủi ro,
san sẻ tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất pháp luật của nhà
nước”.
Nếu đứng trên góc độ pháp lý: “BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ cho
người lao động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao
động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao động và người
sử dụng lao động được nhà nước bảo trợ để trợ cấp vật chất cho người lao động tham
gia bảo hiểm và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro.”
Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với
tất cả các thành viên của mình với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc
giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết,
việc cung cấp y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con”.
Ngày nay còn có khái niệm về BHXH: “BHXH là tổng thể các mối quan hệ kinh
tế xã hội giữa nhà nước với người lao động và chủ sử dụng lao động trên cơ sở hình
thành quỹ tiền tệ tập trung để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ khi người lao
động tham gia BHXH gặp phải rủi ro và sự kiện bảo hiểm dẫn tới việc giảm hoặc mất
thu nhập, mất việc làm nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia
đình họ từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội”.
Theo luật BHXH Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006: “Bảo
hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN, thất nghiệp, hết
tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”.
Ở Việt Nam, BHXH là một trong những nội dung lớn nằm trong chính sách đảm
bảo an sinh xã hội của mỗi nước. Thực hiện tốt chính sách này không những góp phần
bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
thúc đẩy công cuộc đổi mới, mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc vốn là
một trong những điểm ưu việt của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.1.2. Bản chất
Dù định nghĩa như thế nào đi chăng nữa thì bản chất của BHXH cũng được thể
hiện rõ ở những nội dung chủ yếu sau đây:

BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp trong quá trình tái sản xuất
và trong đời sống xã hội loài người, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa phát
triển, mối quan hệ thuê mướn lao động đã đạt đến một mức độ nào đó. Khi nền sản xuất
hàng hóa ngày càng phát triển thì mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ trở lên căng
thẳng, làm cho sản xuất bị đình đốn gây thiệt hại cho cả hai giới. Vì vậy, BHXH ra đời
và phát triển là tất yếu khách quan của xã hội.
Mối quan hệ giữa các bên tham gia bảo hiểm là mối quan hệ kinh tế xã hội phát
sinh trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ trong quản lí xã hội. Mối quan hệ dựa trên
cơ sở lao động chính là người lao động với người chủ sử dụng lao động, người lao động
với Nhà nước. Còn mối quan hệ quản lý là quan hệ giữa Nhà nước với cơ quan BHXH,
Nhà nước với chủ sử dụng lao động. Cụ thể các mối quan hệ diễn ra giữa ba bên: bên
tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động và Nhà nước hoặc cả người
lao động, người chủ sử dụng lao động và Nhà nước. Trong đó, người lao động và người
sử dụng lao động là chủ yếu, bởi vì họ là những chủ thể quản lý trong cả quan hệ lao
động và quan hệ xã hội.
Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà
nước lập ra và bảo trợ. Cơ quan này được tổ chức và hoạt động theo khuôn khổ pháp
luật của từng nước.
Bên được BHXH chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện
ràng buộc cần thiết để hưởng các chế độ BHXH.
Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH là quỹ tài
chính BHXH, vì nguồn quỹ này do cả ba bên đóng góp. Mức đóng góp của mỗi bên để
hình thành quỹ và sử dụng quỹ đều được ba bên quyết định trước khi được luật hóa,
mức đóng này phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Nếu đứng trên quan điểm xã hội, BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) để đảm bảo an toàn về mặt kinh tế cho người lao động và cho xã
hội. Quỹ tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính giữa
các bên tham gia. Trong BHXH thì cụm từ “san sẻ” ở đây được hiểu là:
“San sẻ” giữa người lao động, người sử dụng lao động với Nhà nước. Mọi người lao

động và người chủ sử dụng lao động phải đóng phí BHXH để thành lập lên quỹ BHXH.
Quỹ này chủ yếu để chi trả các chế độ cho người lao động khi họ không may gặp rủi ro
hoặc các sự kiện bảo hiểm, số người lao động được nhận trợ cấp thấp hơn số người
tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Ngày nay, hệ thống BHXH thực hiện dựa trên sự
đóng góp của các bên tham gia đã góp phần làm giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà
nước. San sẻ ở đây chủ yếu là giữa những người lao động với nhau, giữa người chủ sử
dụng với nhau hay giữa người lao động và người chủ sử dụng lao động. Vì BHXH thực
hiện san sẻ cả về mặt không gian và thời gian.
“San sẻ” cả về mặt không gian và thời gian. Điều này được thể hiện ở những
doanh nghiệp, những vùng, những ngành kinh tế trong một thời kỳ có mức rủi ro thấp,
kinh tế phát triển nhưng vẫn đóng góp BHXH cao. Tuy nhiên, ở những nơi, có những
vùng, có những thời kỳ kinh tế kém phát triển, tỷ lệ lao động bị thất nghiệp cao nên cần
có sự san sẻ rủi ro của các doanh nghiệp với nhau, san sẻ rủi ro giữa các thời kỳ, các
ngành kinh tế khác nhau.
“San sẻ tài chính” và “San sẻ rủi ro” thể hiện ngay trong nội bộ người lao động
và người sử dụng lao động. San sẻ này còn thể hiện khi tất cả người lao động đóng góp
vào quỹ BHXH nhưng chỉ có một số người không may gặp rủi ro mới được nhận trợ
cấp từ quỹ BHXH. Ví dụ, san sẻ giữa lao động nam với lao động nữ: chỉ có lao động nữ
sinh con, lao động nữ hay bị ốm đau, tai nạn lao động. Giữa những người lao động trẻ
khỏe với những người lao động hay bị ốm đau, hay người đang trong độ tuổi lao động
với những người già yếu đã nghỉ hưu.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất đi khi gặp phải các rủi ro
hoặc sự kiện BHXH sẽ được quỹ tài chính bù đắp, thay thế. Song mức độ bù đắp, thay
thế thường thấp hơn mức thu nhập trước đó của họ nhưng vẫn phải đảm bảo cuộc sống
tối thiểu cho người lao động và gia đình họ. Có như vậy, mới kích thích người lao động
mới hăng hái tham gia lao động sản xuất và hạn chế tối đa những hiện tượng lợi dụng
chính sách BHXH. Khi thực hiện chi trả trợ cấp bằng với mức thu nhập họ đi làm điều
đó dẫn tới sự ỷ lại vào quỹ BHXH, ví dụ như người lao động bị mất việc làm nếu được
nhận trợ cấp bằng thu nhập trước kia của họ sẽ không muốn tìm việc mới vì họ vẫn
nhận được số thu nhập mà không phải đi làm.

Những rủi ro hoặc sự kiện BHXH làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trong BHXH có thể là ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người,
như là: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc cũng có thể là những trường
hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: lao động nữ sinh đẻ, đến tuổi về hưu…
Đồng thời chúng có thể diễn ra trong quá trình lao động hoặc ngoài quá trình lao động.
Ví dụ như chế độ tử tuất người lao động chết khi không làm việc hoặc chết vì bệnh tật
thì vẫn được hưởng trợ cấp tử tuất.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những yêu cầu cần thiết của người lao
động và gia đình họ trong trường hợp người lao động tham gia BHXH bị giảm hoặc
mất thu nhập, mất việc làm. Mục đích này được Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cụ
thể như sau (trong công ước 102):
- Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ và gia đình họ;
- Chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật;
- Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt
của người già, người tàn tật và trẻ em.
Những mục tiêu BHXH nói trên đều nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho
mỗi nước. Vì vậy, chính sách BHXH luôn được coi là chính sách chủ yếu “nòng cốt”
của chính sách an sinh xã hội.
1.1.2 Vai trò của BHXH
BHXH ra đời và phát triển đã ngày càng khẳng định được vai trò của mình trên
nhiều phương diện khác nhau trong cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế - xã
hội. Vai trò của BHXH được thể hiện ở các phương diện sau:
1.1.2.1 Đối với người lao động
BHXH trực tiếp góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ
khi người lao động gặp phải rủi ro và các sự kiện bảo hiểm như: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm hoặc về già,… Vì BHXH thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi người lao động không may gặp rủi
ro.
BHXH còn là chỗ dựa về mặt tâm lý để người lao động yên tâm làm việc, gắn bó

với đơn vị công tác, tạo niềm tin cho họ vào cuộc sống. Vì khi xảy ra những rủi ro xảy
ra thì đã có quỹ BHXH trợ cấp cho phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm đó. Từ đó giúp
người lao động nâng cao được năng suất lao động cá nhân của mình và góp phần tăng
thu nhập trong tương lai.
Thông qua BHXH còn góp phần đoàn kết giữa những người lao động trong nội
bộ cơ quan doanh nghiệp và kích thích những người lao động chưa tham gia BHXH
hăng hái tham gia BHXH.
1.1.2.2 Đối với người sử dụng lao động
Mặc dù phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định để đóng BHXH
cho người lao động mà mình sử dụng, điều đó làm cho người sử dụng lao động bị mất
một khoản thu nhập nhưng song về lâu dài lợi ích từ BHXH mà người người sử dụng
lao động nhận được sẽ là:
Khi thực hiện tốt chính sách BHXH cho người lao động sẽ giúp họ yên tâm, phát
huy hết khả năng của mình từ đó tăng năng suất lao động cá nhân đồng thời giúp cho
doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn. Ngoài ra, còn giúp cho người lao động gắn bó
với cơ quan, doanh nghiệp hơn.
Nếu chính sách BHXH được thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế các hiện tượng
đình công, bãi công, biểu tình và từ đó góp phần làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh
diễn ra liên tuc và ổn định.
Ngoài ra, khi rủi ro xảy ra đối với nhiều người lao động cùng một lúc, ở phạm vi
rộng thì người lao động sẽ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để chi trả cho người
lao động mà lúc này hậu quả của những rủi ro sẽ do quỹ BHXH gánh vác. Mặt khác,
khi những rủi ro xảy ra thì chủ sử dụng lao động không phải gánh chịu toàn bộ mà rủi
ro được phân tán cả theo không gian và thời gian cho tất cả các bên tham gia.
Thông qua chính sách BHXH, người sử dụng lao động thể hiện được nghĩa vụ và
trách nhiệm của mình đối với người lao động và đối với xã hội. Khi tham gia BHXH
chủ sử dụng lao động còn thể hiện sự quan tâm của mình đối với người lao động không
chỉ lúc họ khỏe mạnh mà cả khi họ già yếu.
1.1.2.3 Đối với nền kinh tế
Chính sách BHXH góp phần tạo lập mối quan hệ gắn bó chủ - thợ, từ đó làm cho

các mối quan hệ trên thị trường lao động trở lên lành mạnh hơn, những mâu thuẫn vốn
có trong quan hệ lao động về cơ bản được giải tỏa. Đây là tiền đề về mặt tâm lý, để kích
thích tính tự giác, sáng tạo của người lao động, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao
động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Nhờ có chính sách BHXH mà quỹ BHXH đã được hình thành. Nguồn quỹ này
ngày càng được tồn tích lại theo thời gian và thực sự trở thành một khâu tài chính trung
gian rất quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia. Phần quỹ nhàn rỗi sẽ được đem
đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
1.1.2.4 Đối với xã hội
Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH thể hiện tính xã hội hóa, tính nhân
đạo và nhân văn cao cả của chính sách BHXH. Mặc dù động lực và mục đích tham gia
của mỗi bên tham gia là khác nhau nhưng BHXH ra đời có ý nghĩa rất lớn về mặt xã
hội, cụ thể:
Người lao động tham gia BHXH là nhằm bảo vệ quyền lợi trực tiếp cho chính
mình, đồng thời còn góp phần thực hiện trách nhiệm của mình đối với cộng đồng xã
hội.
Người sử dụng lao động tham gia BHXH là để quan tâm, chia sẻ rủi ro với người
lao động nhưng cũng gián tiếp bảo vệ lợi ích cho chính cơ quan, doanh nghiệp của mình
phát triển ổn định bền vững.
Nhà nước tham gia BHXH nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho các thành viên
trong xã hội, đảm bảo công bằng xã hội, nhưng cũng là trách nhiệm trong quản lý xã
hội của Nhà nước.
Nhờ có quỹ tài chính BHXH mà những khó khăn do giảm hoặc mất thu nhập của
người lao động được trang trải một phần chính từ sự đóng góp của họ. Từ đó làm giảm
gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện để Nhà nước tập trung vào những
mục đích khác nhằm đem lại ấm no hạnh phúc cho mọi người dân trong xã hội.
1.1.3 Chức năng và tính chất của BHXH
1.1.3.1 Chức năng
Theo cách thức tổ chức và hoạt động thì BHXH có những chức năng chủ yếu sau
đây:

Thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi
bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự thay thế,
bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì con người có giới hạn sinh học về độ tuổi và sức
khỏe. Khi người lao động còn trẻ khỏe thì họ sẽ có thể tạo ra thu nhập nhưng đến khi
hết tuổi lao động, già yếu thì họ phải dựa vào khoản trợ cấp từ quỹ BHXH.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn cả người sử dụng lao
động và có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước để hình thành lên quỹ BHXH hoạt động theo
nguyên tắc dân chủ, công khai, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước và được Nhà
nước bảo trợ. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, thực hiện được nguyên tắc “số đông
bù số ít” và BHXH còn thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều
ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và người có thu nhập
thấp, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ
việc. Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng
suất lao động cá nhân và nâng cao năng suất lao động xã hội. Đều này thể hiện khi
người lao động khỏe mạnh tham gia hoạt động sản xuất thì người chủ sử dụng lao động
phải trả tiền công, tiền lương cho người lao động. Khi bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp bị giảm hoặc mất thu nhập thì có quỹ BHXH trợ cấp. Vì thế cuộc sống của
họ và người thân luôn được đảm bảo ổn định. BHXH là chỗ dựa vững chắc giúp người
lao động yên tâm sản xuất, gắn bó tận tình với công việc, nâng cao năng suất lao động
và hiệu quả kinh tế. Chức năng này thể hiện như đòn bẩy kinh tế kích thích người lao
động nâng cao năng suất cá nhân từ đó góp phần nâng cao năng suất xã hội và tạo ra sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao
động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người chủ sử dụng
lao động luôn có những mâu thuẫn về tiền lương, tiền công, thời gian lao động,…
Thông qua BHXH sẽ giúp cho mâu thuẫn này được điều hòa và giải quyết. Đặc biệt, cả

hai bên thấy được lợi ích của mình khi tham gia BHXH. Ngoài ra, khi thực hiện tốt
chính sách BHXH còn thể hiện sự quan tâm của người sử dụng lao động tới người lao
động không chỉ khi họ khỏe mạnh mà ngay cả khi họ già yếu không làm việc được. Đối
với Nhà nước và xã hội, chi phí cho BHXH là cách thức tiết kiệm và có hiệu quả nhất
nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ,
góp phần làm cho sản xuất ổn định kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an
toàn.
1.1.3.2 Tính chất
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất
cơ bản sau:
Tính chất khách quan trong đời sống. Trong quá trình lao động sản xuất người
lao động có thể gặp những biến cố bất ngờ hay những rủi ro khi đó người sử dụng lao
động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián
đoạn, vấn đề tuyển dụng và thiếu lao động lành nghề,…từ đó làm cho sản xuất bị đình
đốn, làm cho nền kinh tế phát triển chậm lại. Khi nền sản xuất hàng hóa phát triển thì
những rủi ro xảy ra đối với người lao động ngày càng trở lên phổ biến và gây nhiều khó
khăn cho chủ sử dụng lao động. Từ đó, làm cho mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ
càng trở lên sâu sắc hơn. Vì vậy để giải quyết các mâu thuẫn đó, Nhà nước đứng ra can
thiệp thông qua BHXH.
BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không
gian. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để
hình thành quỹ BHXH. Những rủi ro xảy đến với người lao động là hoàn toàn ngẫu
nhiên và trong điều kiện được bảo hiểm thì người lao động mới được hưởng các chế độ
của BHXH nhưng có những trường hợp không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên như chế độ
hưu trí hay chế độ thai sản. BHXH phát sinh không đồng đều theo thời gian và không
gian như có những vùng, địa phương, ngành nghề có số người lao động bị biến cố nhiều
và hưởng nhiều chế độ BHXH trong cùng một thời gian,…Hay mức trợ cấp BHXH
theo từng chế độ cho người lao động.
BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời có tính dịch vụ:
- Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ: quỹ BHXH muốn hình thành, bảo toàn và

tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải phải được quản lý chặt
chẽ, sử dụng đúng mục đích. Người lao động có tham gia đóng góp mới được hưởng,
đồng thời về cơ bản đóng góp nhiều thì được hưởng nhiều. Đồng thời tính kinh tế còn
được thể hiện: Người lao động có mức đóng thấp hơn nhiều so với quyền lợi mà họ
nhận được khi gặp rủi ro; chủ sử dụng lao động thì yên tâm khi những rủi ro xảy ra thì
đã có BHXH chịu trách nhiệm. Mặt khác, khi tham gia BHXH thì chủ sử dụng còn thể
trách nhiệm và sự quan tâm của mình đối với người lao động mà họ sử dụng; Đối với
Nhà nước, còn góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước và còn có nguồn
vốn đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội.
- Tính xã hội: BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội. Vì vậy,
mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH và BHXH phải có trách
nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ
tuổi lao động hay khi họ đã hết tuổi lao động.
- Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế -
xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày
càng cao khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì người chủ sử dụng sẽ tham gia
BHXH ngày càng đầy đủ hơn cho người lao động, mức đóng và mức hưởng BHXH
tăng theo sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.4 Đặc trưng của BHXH
Mỗi loại hình Bảo hiểm điều có những đăc trưng khác nhau, BHXH có những
đặc trưng cơ bản sau:

×