Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp ốm đau tại BHXH giai đoạn 2005-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.84 KB, 71 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội ở nước ta là một trong những chính sách quan trọng hàng đầu
của Đảng và Nhà nước. Bản chất của BHXH chính là sự tương trợ cộng đồng, đoàn
kết đùm bọc chia sẻ rủi ro cho nhau, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Trong
quá trình thực hiện các chế độ, chính sách về BHXH không ngừng được bổ sung, sửa
đổi để phù hợp với từng thời kỳ và từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước
nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH.
Chi trả các chế độ bảo hiểm là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của BHXH Việt Nam, làm tốt công tác chi trả sẽ giúp ổn định thu nhập cho người lao
động, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Trong thời gian qua, công tác chi trả
các chế độ BHXH đang không ngừng được hoàn thiện, tuy nhiên, vấn đề chi đúng,
chi đủ, chi kịp thời và cải tiến, hoàn thiện công tác chi vẫn còn gặp một số vướng
mắc. Nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay khiến đời
sống người lao động càng gặp nhiều khó khăn nên cần phải chăm lo đời sống cho
người lao động, giúp họ ổn định thu nhập, đảm bảo cuộc sống. Do vậy, yêu cầu đặt ra
là hoạt động quản lý chi cần được hoàn thiện hơn, khắc phục những hạn chế nhằm đả
bảo công tác chi trả, thực hiện tốt các chế độ BHXH cho người lao động và người thụ
hưởng.
Xuất phát từ nhận thức trên, trong quá trình thực tập tại Vụ Bảo hiểm xã hội-
Bộ Lao động -Thương binh & Xã hội Việt Nam đã tạo cơ hội cho em chọ đề tài :
“Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp ốm đau tại BHXH giai đoạn 2005-2009”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nhằm vào ba mục đích chính:
- Hệ thống và làm rõ các lý luận cơ bản về BHXH và công tác quản lý chi trả
các chế độ trợ cấp ốm đau
- Phân tích thực trạng công tác quản lý và tổ chức chi trả chế độ trợ cấp ốm
đau; các thành quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn tác động đến công tác quản lý chi
trả chế độ trợ cấp ốm đau, từ đó đưa ra giải pháp và một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện công tác quản lý chi.
3. Phạm vi nghiên cứu
Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì phân ra thành chế độ
BHXH ngắn hạn và dài hạn. Song đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vào công tác tổ
chức và quản lý chi trả các chế độ trợ cấp ốm đau, trong giai đoạn từ năm 2005 đến
2009.
4. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài được chia thành 3 phần chính, cụ thể:
Chương I: Lý luận chung về BHXH và chế độ trợ cấp ốm đau.
Chương II: Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp ốm đau tại BHXH Việt
Nam
Chương III: Giải pháp hoàn thiện chế độ ốm trợ cấp ốm đau trong các
chế độ của BHXH Việt Nam
Trong quá trình viết đề tài em đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều từ các thầy
cô trong khoa và đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn T.S Nguyễn
Hải Đường và các anh chị, các cô chú và các bác tại Vụ Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Do còn nhiều hạn chề về kiến thức cũng như trình độ nhận thức nên bài viết vẫn còn
nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn
CHƯƠNG I
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU
1.1. Tổng quan về BHXH
1.1.1. Khái niệm về BHXH
1.1.1.1 Khái niệm

BHXH dần được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XIX, từ khi cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất nổ ra, nền sản xuất hàng hóa bước đầu được
hình thành và phát triển. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Liên Hợp Quốc
đã phê chuẩn nhiều công ước có liên quan đến BHXH và các chính sách ASXH thì
hoạt động BHXH có quy mô hoạt động tương đối rộng và được hơn 100 nước trên
thế giới tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay thì chưa có khái
niệm chuẩn về BHXH, phần lớn là những khái quát, cách nhìn nhận của nhiều nhà
khoa học khác nhau. Bởi vì, hiện nay giữa các nhà khoa học và các nhà quản lý vẫn
còn nhiều quan điểm, cách nhìn khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì
vậy, người ta bắt đầu nghiên cứu lại và liên hệ với thực tế thế giới tư bản thời đó để
từ đó có thể đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về BHXH, người ta nghiên cứu luận
điểm của C.Mác:
Từ bảo hiểm xã hội được ghép lại từ hai từ bảo hiểm và xã hội. Theo C.Mác
thì quá trình tái sản xuất xã hội là quá trình sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn
nhu cầu con người, quá trình này diễn ra trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất nhất
định (quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa con người với tự nhiên) toàn bộ
mối quan hệ đó hợp thành xã hội bởi vậy phạm trù xã hội nhìn nhận từ góc độ kinh tế
là rất rộng, rất cơ bản. Từ bảo hiểm cũng xuất phát từ mối quan hệ sản xuất mà ra: cụ
thể với tư cách là thu nhập, tư cách là thành phần giá trị rơi vào tư bản, công nhân
nhưng không được dùng hết mà tích lũy lại để lấy lỗ hổng trong quá trình tái sản xuất
do các yếu tố ngẫu nhiên chi phối.
Theo C.Mác thì: “Vấn đề này ngay cả Chủ nghĩa tư bản không tồn tại thì loài
người vẫn phải làm”. Hiện tượng này C.Mác gọi là bảo hiểm cho loài người trước
những biến động dữ dội của tự nhiên tác động đến mối quan hệ giữa người với
người. Với ý nghĩa đó, bảo hiểm được chia thành hai phần: Bảo hiểm cho những lỗ
hổng trong quá trình tái sản xuất và bảo hiểm cho lỗ hổng trong đời sống xã hội loài
người. Dựa vào các luận điểm của C.Mác mà các nhà khoa học, các nhà quản lý đưa
ra một số khái niệm như sau:
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
3

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nếu trên góc độ tài chính (Tài chính công): “BHXH là quá trình san sẻ rủi ro,
san sẻ tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất pháp luật của nhà
nước”.
Nếu đứng trên góc độ pháp lý: “BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ cho
người lao động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao
động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao động và
người sử dụng lao động được nhà nước bảo trợ để trợ cấp vật chất cho người lao
động tham gia bảo hiểm và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro.”
Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối
với tất cả các thành viên của mình với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng
hoặc giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và
chết, việc cung cấp y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con”.
Ngày nay còn có khái niệm về BHXH: “BHXH là tổng thể các mối quan hệ
kinh tế xã hội giữa nhà nước với người lao động và chủ sử dụng lao động trên cơ sở
hình thành quỹ tiền tệ tập trung để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ khi
người lao động tham gia BHXH gặp phải rủi ro và sự kiện bảo hiểm dẫn tới việc
giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người
lao động và gia đình họ từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội”.
Theo luật BHXH Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006: “Bảo
hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”.
Ở Việt Nam, BHXH là một trong những nội dung lớn nằm trong chính sách
đảm bảo an sinh xã hội của mỗi nước. Thực hiện tốt chính sách này không những góp
phần bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội, thúc đẩy công cuộc đổi mới, mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu
sắc vốn là một trong những điểm ưu việt của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.1.2. Bản chất
Dù định nghĩa như thế nào đi chăng nữa thì bản chất của BHXH cũng được

thể hiện rõ ở những nội dung chủ yếu sau đây:
BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp trong quá trình tái sản xuất
và trong đời sống xã hội loài người, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa phát
triển, mối quan hệ thuê mướn lao động đã đạt đến một mức độ nào đó. Khi nền sản
xuất hàng hóa ngày càng phát triển thì mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ trở lên
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
căng thẳng, làm cho sản xuất bị đình đốn gây thiệt hại cho cả hai giới. Vì vậy, BHXH
ra đời và phát triển là tất yếu khách quan của xã hội.
Mối quan hệ giữa các bên tham gia bảo hiểm là mối quan hệ kinh tế xã hội
phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ trong quản lí xã hội. Mối quan hệ
dựa trên cơ sở lao động chính là người lao động với người chủ sử dụng lao động,
người lao động với Nhà nước. Còn mối quan hệ quản lý là quan hệ giữa Nhà nước
với cơ quan BHXH, Nhà nước với chủ sử dụng lao động. Cụ thể các mối quan hệ
diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động và Nhà nước hoặc cả người
lao động, người chủ sử dụng lao động và Nhà nước. Trong đó, người lao động và
người sử dụng lao động là chủ yếu, bởi vì họ là những chủ thể quản lý trong cả quan
hệ lao động và quan hệ xã hội.
Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do
Nhà nước lập ra và bảo trợ. Cơ quan này được tổ chức và hoạt động theo khuôn khổ
pháp luật của từng nước.
Bên được BHXH chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều
kiện ràng buộc cần thiết để hưởng các chế độ BHXH.
Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH là quỹ tài
chính BHXH, vì nguồn quỹ này do cả ba bên đóng góp. Mức đóng góp của mỗi bên
để hình thành quỹ và sử dụng quỹ đều được ba bên quyết định trước khi được luật
hóa, mức đóng này phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Nếu đứng trên quan điểm xã hội, BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng

sản phẩm quốc nội (GDP) để đảm bảo an toàn về mặt kinh tế cho người lao động và
cho xã hội. Quỹ tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro, san sẻ tài
chính giữa các bên tham gia. Trong BHXH thì cụm từ “san sẻ” ở đây được hiểu là:
“San sẻ” giữa người lao động, người sử dụng lao động với Nhà nước. Mọi người
lao động và người chủ sử dụng lao động phải đóng phí BHXH để thành lập lên quỹ
BHXH. Quỹ này chủ yếu để chi trả các chế độ cho người lao động khi họ không may
gặp rủi ro hoặc các sự kiện bảo hiểm, số người lao động được nhận trợ cấp thấp hơn
số người tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Ngày nay, hệ thống BHXH thực hiện
dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia đã góp phần làm giảm gánh nặng cho
Ngân sách Nhà nước. San sẻ ở đây chủ yếu là giữa những người lao động với nhau,
giữa người chủ sử dụng với nhau hay giữa người lao động và người chủ sử dụng lao
động. Vì BHXH thực hiện san sẻ cả về mặt không gian và thời gian.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
“San sẻ” cả về mặt không gian và thời gian. Điều này được thể hiện ở những
doanh nghiệp, những vùng, những ngành kinh tế trong một thời kỳ có mức rủi ro
thấp, kinh tế phát triển nhưng vẫn đóng góp BHXH cao. Tuy nhiên, ở những nơi, có
những vùng, có những thời kỳ kinh tế kém phát triển, tỷ lệ lao động bị thất nghiệp
cao nên cần có sự san sẻ rủi ro của các doanh nghiệp với nhau, san sẻ rủi ro giữa các
thời kỳ, các ngành kinh tế khác nhau.
“San sẻ tài chính” và “San sẻ rủi ro” thể hiện ngay trong nội bộ người lao
động và người sử dụng lao động. San sẻ này còn thể hiện khi tất cả người lao động
đóng góp vào quỹ BHXH nhưng chỉ có một số người không may gặp rủi ro mới được
nhận trợ cấp từ quỹ BHXH. Ví dụ, san sẻ giữa lao động nam với lao động nữ: chỉ có
lao động nữ sinh con, lao động nữ hay bị ốm đau, tai nạn lao động. Giữa những
người lao động trẻ khỏe với những người lao động hay bị ốm đau, hay người đang
trong độ tuổi lao động với những người già yếu đã nghỉ hưu.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất đi khi gặp phải các rủi
ro hoặc sự kiện BHXH sẽ được quỹ tài chính bù đắp, thay thế. Song mức độ bù đắp,

thay thế thường thấp hơn mức thu nhập trước đó của họ nhưng vẫn phải đảm bảo
cuộc sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ. Có như vậy, mới kích thích
người lao động mới hăng hái tham gia lao động sản xuất và hạn chế tối đa những
hiện tượng lợi dụng chính sách BHXH. Khi thực hiện chi trả trợ cấp bằng với mức
thu nhập họ đi làm điều đó dẫn tới sự ỷ lại vào quỹ BHXH, ví dụ như người lao động
bị mất việc làm nếu được nhận trợ cấp bằng thu nhập trước kia của họ sẽ không
muốn tìm việc mới vì họ vẫn nhận được số thu nhập mà không phải đi làm.
Những rủi ro hoặc sự kiện BHXH làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trong BHXH có thể là ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người,
như là: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc cũng có thể là những trường
hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: lao động nữ sinh đẻ, đến tuổi về hưu…
Đồng thời chúng có thể diễn ra trong quá trình lao động hoặc ngoài quá trình lao
động. Ví dụ như chế độ tử tuất người lao động chết khi không làm việc hoặc chết vì
bệnh tật thì vẫn được hưởng trợ cấp tử tuất.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những yêu cầu cần thiết của người lao
động và gia đình họ trong trường hợp người lao động tham gia BHXH bị giảm hoặc
mất thu nhập, mất việc làm. Mục đích này được Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cụ
thể như sau (trong công ước 102):
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu sinh sống thiết yếu của họ và gia đình họ;
- Chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật;
- Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc
biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Những mục tiêu BHXH nói trên đều nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội
cho mỗi nước. Vì vậy, chính sách BHXH luôn được coi là chính sách chủ yếu “nòng
cốt” của chính sách an sinh xã hội.
1.1.2 Vai trò của BHXH

BHXH ra đời và phát triển đã ngày càng khẳng định được vai trò của mình
trên nhiều phương diện khác nhau trong cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế -
xã hội. Vai trò của BHXH được thể hiện ở các phương diện sau:
1.1.2.1 Đối với người lao động
BHXH trực tiếp góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình
họ khi người lao động gặp phải rủi ro và các sự kiện bảo hiểm như: ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm hoặc về già,… Vì BHXH thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi người lao động không may
gặp rủi ro.
BHXH còn là chỗ dựa về mặt tâm lý để người lao động yên tâm làm việc, gắn
bó với đơn vị công tác, tạo niềm tin cho họ vào cuộc sống. Vì khi xảy ra những rủi ro
xảy ra thì đã có quỹ BHXH trợ cấp cho phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm đó. Từ đó
giúp người lao động nâng cao được năng suất lao động cá nhân của mình và góp
phần tăng thu nhập trong tương lai.
Thông qua BHXH còn góp phần đoàn kết giữa những người lao động trong
nội bộ cơ quan doanh nghiệp và kích thích những người lao động chưa tham gia
BHXH hăng hái tham gia BHXH.
1.1.2.2 Đối với người sử dụng lao động
Mặc dù phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định để đóng
BHXH cho người lao động mà mình sử dụng, điều đó làm cho người sử dụng lao
động bị mất một khoản thu nhập nhưng song về lâu dài lợi ích từ BHXH mà người
người sử dụng lao động nhận được sẽ là:
Khi thực hiện tốt chính sách BHXH cho người lao động sẽ giúp họ yên tâm,
phát huy hết khả năng của mình từ đó tăng năng suất lao động cá nhân đồng thời giúp
cho doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn. Ngoài ra, còn giúp cho người lao động
gắn bó với cơ quan, doanh nghiệp hơn.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nếu chính sách BHXH được thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế các hiện tượng

đình công, bãi công, biểu tình và từ đó góp phần làm cho hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra liên tuc và ổn định.
Ngoài ra, khi rủi ro xảy ra đối với nhiều người lao động cùng một lúc, ở phạm
vi rộng thì người lao động sẽ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để chi trả cho
người lao động mà lúc này hậu quả của những rủi ro sẽ do quỹ BHXH gánh vác. Mặt
khác, khi những rủi ro xảy ra thì chủ sử dụng lao động không phải gánh chịu toàn bộ
mà rủi ro được phân tán cả theo không gian và thời gian cho tất cả các bên tham gia.
Thông qua chính sách BHXH, người sử dụng lao động thể hiện được nghĩa vụ
và trách nhiệm của mình đối với người lao động và đối với xã hội. Khi tham gia
BHXH chủ sử dụng lao động còn thể hiện sự quan tâm của mình đối với người lao
động không chỉ lúc họ khỏe mạnh mà cả khi họ già yếu.
1.1.2.3 Đối với nền kinh tế
Chính sách BHXH góp phần tạo lập mối quan hệ gắn bó chủ - thợ, từ đó làm
cho các mối quan hệ trên thị trường lao động trở lên lành mạnh hơn, những mâu
thuẫn vốn có trong quan hệ lao động về cơ bản được giải tỏa. Đây là tiền đề về mặt
tâm lý, để kích thích tính tự giác, sáng tạo của người lao động, từ đó góp phần nâng
cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Nhờ có chính sách BHXH mà quỹ BHXH đã được hình thành. Nguồn quỹ này
ngày càng được tồn tích lại theo thời gian và thực sự trở thành một khâu tài chính
trung gian rất quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia. Phần quỹ nhàn rỗi sẽ
được đem đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho
người lao động.
1.1.2.4 Đối với xã hội
Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH thể hiện tính xã hội hóa, tính nhân
đạo và nhân văn cao cả của chính sách BHXH. Mặc dù động lực và mục đích tham
gia của mỗi bên tham gia là khác nhau nhưng BHXH ra đời có ý nghĩa rất lớn về mặt
xã hội, cụ thể:
Người lao động tham gia BHXH là nhằm bảo vệ quyền lợi trực tiếp cho chính
mình, đồng thời còn góp phần thực hiện trách nhiệm của mình đối với cộng đồng xã
hội.

Người sử dụng lao động tham gia BHXH là để quan tâm, chia sẻ rủi ro với
người lao động nhưng cũng gián tiếp bảo vệ lợi ích cho chính cơ quan, doanh nghiệp
của mình phát triển ổn định bền vững.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nhà nước tham gia BHXH nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho các thành
viên trong xã hội, đảm bảo công bằng xã hội, nhưng cũng là trách nhiệm trong quản
lý xã hội của Nhà nước.
Nhờ có quỹ tài chính BHXH mà những khó khăn do giảm hoặc mất thu nhập
của người lao động được trang trải một phần chính từ sự đóng góp của họ. Từ đó làm
giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện để Nhà nước tập trung vào
những mục đích khác nhằm đem lại ấm no hạnh phúc cho mọi người dân trong xã
hội.
1.1.3 Chức năng và tính chất của BHXH
1.1.3.1 Chức năng
Theo cách thức tổ chức và hoạt động thì BHXH có những chức năng chủ yếu
sau đây:
Thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm
khi bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự thay
thế, bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì con người có giới hạn sinh học về độ tuổi và
sức khỏe. Khi người lao động còn trẻ khỏe thì họ sẽ có thể tạo ra thu nhập nhưng đến
khi hết tuổi lao động, già yếu thì họ phải dựa vào khoản trợ cấp từ quỹ BHXH.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn cả người sử dụng lao
động và có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước để hình thành lên quỹ BHXH hoạt động theo
nguyên tắc dân chủ, công khai, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước và được
Nhà nước bảo trợ. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, thực hiện được nguyên tắc

“số đông bù số ít” và BHXH còn thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc
và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và người
có thu nhập thấp, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm
yếu phải nghỉ việc. Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện
công bằng xã hội.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao
năng suất lao động cá nhân và nâng cao năng suất lao động xã hội. Đều này thể hiện
khi người lao động khỏe mạnh tham gia hoạt động sản xuất thì người chủ sử dụng lao
động phải trả tiền công, tiền lương cho người lao động. Khi bị ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp bị giảm hoặc mất thu nhập thì có quỹ BHXH trợ cấp. Vì thế
cuộc sống của họ và người thân luôn được đảm bảo ổn định. BHXH là chỗ dựa vững
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chắc giúp người lao động yên tâm sản xuất, gắn bó tận tình với công việc, nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này thể hiện như đòn bẩy kinh tế
kích thích người lao động nâng cao năng suất cá nhân từ đó góp phần nâng cao năng
suất xã hội và tạo ra sự phát triển kinh tế - xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao
động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người chủ sử
dụng lao động luôn có những mâu thuẫn về tiền lương, tiền công, thời gian lao động,
… Thông qua BHXH sẽ giúp cho mâu thuẫn này được điều hòa và giải quyết. Đặc
biệt, cả hai bên thấy được lợi ích của mình khi tham gia BHXH. Ngoài ra, khi thực
hiện tốt chính sách BHXH còn thể hiện sự quan tâm của người sử dụng lao động tới
người lao động không chỉ khi họ khỏe mạnh mà ngay cả khi họ già yếu không làm
việc được. Đối với Nhà nước và xã hội, chi phí cho BHXH là cách thức tiết kiệm và
có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao
động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định kinh tế, chính trị và xã hội
được phát triển và an toàn.
1.1.3.2 Tính chất

BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính
chất cơ bản sau:
Tính chất khách quan trong đời sống. Trong quá trình lao động sản xuất người
lao động có thể gặp những biến cố bất ngờ hay những rủi ro khi đó người sử dụng lao
động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián
đoạn, vấn đề tuyển dụng và thiếu lao động lành nghề,…từ đó làm cho sản xuất bị
đình đốn, làm cho nền kinh tế phát triển chậm lại. Khi nền sản xuất hàng hóa phát
triển thì những rủi ro xảy ra đối với người lao động ngày càng trở lên phổ biến và gây
nhiều khó khăn cho chủ sử dụng lao động. Từ đó, làm cho mâu thuẫn giữa giới chủ
và giới thợ càng trở lên sâu sắc hơn. Vì vậy để giải quyết các mâu thuẫn đó, Nhà
nước đứng ra can thiệp thông qua BHXH.
BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không
gian. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia
để hình thành quỹ BHXH. Những rủi ro xảy đến với người lao động là hoàn toàn
ngẫu nhiên và trong điều kiện được bảo hiểm thì người lao động mới được hưởng các
chế độ của BHXH nhưng có những trường hợp không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên
như chế độ hưu trí hay chế độ thai sản. BHXH phát sinh không đồng đều theo thời
gian và không gian như có những vùng, địa phương, ngành nghề có số người lao
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
động bị biến cố nhiều và hưởng nhiều chế độ BHXH trong cùng một thời gian,…Hay
mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động.
BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời có tính dịch vụ:
- Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ: quỹ BHXH muốn hình thành, bảo toàn
và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải phải được quản lý
chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Người lao động có tham gia đóng góp mới được
hưởng, đồng thời về cơ bản đóng góp nhiều thì được hưởng nhiều. Đồng thời tính
kinh tế còn được thể hiện: Người lao động có mức đóng thấp hơn nhiều so với quyền
lợi mà họ nhận được khi gặp rủi ro; chủ sử dụng lao động thì yên tâm khi những rủi

ro xảy ra thì đã có BHXH chịu trách nhiệm. Mặt khác, khi tham gia BHXH thì chủ sử
dụng còn thể trách nhiệm và sự quan tâm của mình đối với người lao động mà họ sử
dụng; Đối với Nhà nước, còn góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước và
còn có nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội.
- Tính xã hội: BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội. Vì vậy,
mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH và BHXH phải có
trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang
trong độ tuổi lao động hay khi họ đã hết tuổi lao động.
- Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh
tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng
ngày càng cao khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì người chủ sử dụng sẽ
tham gia BHXH ngày càng đầy đủ hơn cho người lao động, mức đóng và mức hưởng
BHXH tăng theo sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.4 Đặc trưng của BHXH
Mỗi loại hình Bảo hiểm điều có những đăc trưng khác nhau, BHXH có những
đặc trưng cơ bản sau:
Thời hạn bảo hiểm rất dài, là một quá trình diễn ra liên tục từ khi người lao
động tham gia BHXH đến khi chết, bảo hiểm cho người lao động cả trong quá trình
lao động và ngoài quá trình lao động. Điều này được thể hiện, khi người lao động
tham gia vào quỹ BHXH thì quỹ này có nhiệm vụ là bù đắp hoặc thay thế một phần
thu nhập cho người lao động và khi họ thực hiện hết nhiệm vụ của mình với xã hội
thì quỹ BHXH làm nhiệm vụ chi trả lương hưu cho họ tới khi họ chết. Khi tham gia
BHXH còn có nghĩa là người lao động tự tiết kiệm cho mình khi về già. Còn đối với
chủ sử dụng lao động, thời hạn bắt đầu tham gia bảo hiểm từ khi họ thuê mướn một
số lượng lao động nhất định cho đến khi doanh nghiệp hay tổ chức của họ không còn
tồn tại như: phá sản, giải thể, …
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
BHXH chủ yếu được thực hiện dưới hình thức bắt buộc, cho nên đối tượng

tham gia và đối tượng thụ hưởng trợ cấp BHXH ngày càng lớn. Khi số lượng tham
gia tăng thì nguyên tắc “số đông bù số ít” trong hoạt động bảo hiểm phát huy tối đa
tác dụng. Người lao động và chủ sử dụng lao động đóng góp để hình thành lên quỹ
BHXH nhung quỹ này chỉ dùng để trợ cấp cho những trường hợp gặp rủi ro hoặc sự
kiện bảo hiểm xảy ra. Bên cạnh đó thì việc tổ chức quản lý, điều hành bộ máy đòi hỏi
chặt chẽ hơn, tổ chức có khoa học hơn để đảm bảo công bằng cho người lao động,
người chủ sử dụng tham gia.
Những rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm trong BHXH thể hiện phạm vi của
BHXH. Vì thế, nó được pháp luật khống chế và thể hiện ở hệ thống các chế độ
BHXH. Những rủi ro sự kiện bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của người
lao động làm giảm hoặc mất thu nhập làm ảnh hưởng tới đời sống của người lao
động và gia đình họ. Vì vậy, BHXH còn thể hiện tính chất tiết kiệm trong khi khắc
phục hậu quả của rủi ro mà còn thể hiện khi người lao động già yếu. Khi người lao
động trẻ khỏe người lao động đóng BHXH để khi về già có thu nhập để trang trải chi
phí sinh hoạt.
Phí BHXH mà người lao động và người sử dụng lao động tham gia phải đóng
góp thường được nộp định kỳ hàng tháng (nếu tham gia BHXH tự nguyện thì mức
phí này có thể nộp theo quý, tháng hay sáu tháng một lần). Mức phí này chịu sự tác
động tổng hợp của rất nhiều các yếu tố như:
- Số lượng đối tượng tham gia BHXH;
- Tuổi thọ bình quân của người lao động;
- Mức độ rủi ro;
- Hiệu quả đầu tư quỹ nhàn rỗi;
- Khả năng bảo trợ của Nhà nước;
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội.
Phí BHXH được pháp luật quy định cụ thể và thay đổi theo từng thời kỳ cho
phù hợp với hoạt động thực tế của hệ thống BHXH và tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Ngoài ra, phí BHXH còn chịu sự tác động của chính sách lao động
và chính sách tiền lương tối thiểu, các chính sách khác của mỗi nước.
BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và Nhà nước là người đứng

ra bảo hộ cho các hoạt động BHXH. Đặc biệt mỗi lần bổ sung và hoàn thiện mảng
chính sách này đều có sự đồng ý của các bên tham gia trên cơ sở pháp luật. Quỹ
BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động
vì vậy để đảm bảo sự công bằng cho người lao động. Mặt khác, quỹ BHXH được tồn
tích theo thời gian, từ thế hệ này đến thế hệ khác, cho nên chịu sự tác động rất lớn
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của các yếu chính trị, kinh tế và xã hội. Nếu không có sự bảo hộ của Nhà nước, hoạt
động BHXH sẽ không thể bền vững và mục tiêu của BHXH sẽ khó thực hiện được.
1.1.5. Các quan điểm cơ bản về BHXH
BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của một quốc gia.
Nó thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức quản
lý của đất nước. Khi thực hiện BHXH, các nước đều phải lựa chọn hình thức tổ chức,
cơ chế quản lý và mức độ thỏa mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả
năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước mình, đồng thời
phải nhận thức thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây:
Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng
nhất trong chính sách xã hội.
Hệ thống chính sách BHXH ra đời và phát triển luôn nhằm mục đích đảm bảo
đời sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Thực chất đây là một trong những loại
chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển
nhiên của con người, an toàn xã hội… Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn
minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia,
nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội trong một chuẩn mực nhất định.
Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm
năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Đây cũng là một trong những chính sách lớn trong hệ thống chính sách an sinh
xã hội mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện cho mọi người lao động, mọi

tầng lớp nhân dân.
Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người
lao động
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp hoặc các
cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ phải đóng góp vào quỹ BHXH
và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà họ
sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát
triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu tư máy móc, công nghệ tiên tiến
còn phải chăm lo tay nghề, đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người
lao động làm việc bình thường thì phải trả lương thỏa đáng cho họ. Khi họ gặp phải
các rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm như: bị tai nạn lao động, bị ốm đau, bị bệnh nghề
nghiệp, già yếu, thai sản, … trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
động, với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì người sử dụng lao
động phải có trách nhiệm bảo hiểm cho họ. Có như vậy người lao động mới yên tâm,
tích cực lao động sản xuất phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần tăng năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. Đồng thời, khi tham gia BHXH
thì chủ sử dụng cũng yên tâm hơn khi những rủi ro lớn xảy ra với doanh nghiệp mình
thì họ không phải bỏ một số tiền lớn để chi trả cho người lao động mà đã có sự đảm
bảo của quỹ BHXH.
Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi với BHXH
Mọi người lao động đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã
nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi được trợ cấp BHXH.
Khi những rủi ro không mong muốn xảy ra với người lao động thì họ là người trực
tiếp chịu tác động của rủi ro đó. Vì thế, nếu muốn được hưởng BHXH tức là muốn
nhiều người khác hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác
thì trước hết tự mình phải gánh chịu một phần rủi ro. Điều đó có nghĩa là bản thân
người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.

Tuy nhiên, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động về BHXH còn tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội, các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và lịch sử của
mỗi đất nước. Điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới mức đóng và mức
hưởng của người lao động, khi nền kinh tế phát triển thu nhập của người lao động
tăng, mức đóng BHXH tăng dẫn tới mức hưởng sẽ tăng.
Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tính trạng mất đi khả năng lao động
- Tiền lương lúc đang đi làm
- Ngành công tác và thời gian công tác
- Tuổi thọ bình quân của người lao động
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương đang
đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu. Để khuyến khích
người lao động đi làm việc trở lại tránh sự ỷ lại và trục lợi BHXH.
Quan điểm này phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc
phân phối lại quỹ BHXH cho những người lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH
là loại trợ cấp thay thế tiền lương, thu nhập của người lao động nhưng chỉ thay thế
một phần tiền lương khi người lao động lúc đang đi làm khi đó kích thích người lao
động tích cực đi làm để có thu nhập cao hơn mức trợ cấp nhận được. Hơn nữa, cách
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả nợ cấp
BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm và nếu vậy thì chẳng khác gì người lao động
gặp rủi ro nhưng rủi ro của mình được dàn trải hết cho những người khác.
Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện
chính sách BHXH
BHXH là bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định,
vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội nên vai trò của nhà nước là rất
quan trọng. Thực tế đã cho thấy, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, nếu

không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và
người sử dụng lao động không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong
BHXH sẽ bị phá vỡ. Khi Nhà nước không quản lý tài chính BHXH sẽ không đảm bảo
việc thực hiện chính sách BHXH đúng với pháp luật quy định và không thực hiện
được mục đích của BHXH đề ra: đó là đảm bảo công bằng cho mọi người lao động
và chủ sử dụng lao động.
1.1.6. Nguyên tắc hoạt động của BHXH
Mọi người lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm đều có quyền được hưởng BHXH.
Quyền được BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ thể
của quyền con người. Khi xây dựng hệ thống BHXH thì Nhà nước phải tạo điều kiện
và môi trường kinh tế - xã hội, về chính sách và Luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản
lý cần thiết. Đồng thời, những người sử dụng lao động và người lao động phải thực
hiện đóng góp tài chính của mình. Thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH
là điều kiện cơ bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH.
Quyền hưởng BHXH của người lao động là việc họ được hưởng trợ cấp
BHXH theo các chế độ xác định. Các chế độ này gắn với các trường hợp người lao
động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc mất
nguồn sinh sống. Mức hưởng còn căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất
nước trong từng giai đoạn phát triển của BHXH.
Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH đối với
người lao động, người lao động cũng có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà nước
đóng vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Nhà
nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội, đồng thời có mọi công cụ
thiết yếu để thực hiện vai trò của mình.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với người sử dụng lao động: Người chủ sử dụng lao động muốn ổn định

và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu tư máy móc, thiết bị hiện
đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống người lao động mà
mình sử dụng.
Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương, trả công thỏa
đáng cho người lao động. Khi họ gặp phải rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, bị chết, trong đó nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động với những
điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ.
Có như vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng
năng xuất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Đối với người lao động, khi gặp phải những rủi ro không mong muốn và
không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết là rủi ro của
bản thân. Vì thế, nếu muốn BHXH chi trả tức là muốn người khác hỗ trợ cho mình, là
dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và
trước hết. Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia
BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Bảo hiểm xã hội phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham để hình thành
nên quỹ BHXH độc lập và tập trung.
Nhờ sự đóng góp của các bên tham gia mà phương thức riêng co của BHXH là
dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều
dọc và chiều ngang mới được thực hiện. Hơn nữa, nó còn tạo ra mối quan hệ ràng
buộc chặt chẽ giữa quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên tham gia, góp phần tránh
những hiện tượng tiêu cực như lợi dụng chế độ BHXH
BHXH hoạt động trên cơ sở số đông bù số ít
Bảo hiểm nói chung hoạt động trên cơ sở xác suất rủi ro theo quy luật số lớn,
tức là lấy sự đóng góp cảu số đông người tham gia san sẻ cho số ít người không may
gặp rủi ro.
Trong số đông người tham gia đóng góp BHXH, chỉ những người lao động
mới là đối tượng hưởng trợ cấp và trong số những người lao động lại chỉ những
người ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản hay tuổi già có đủ điều
kiện cần thiết mới thực sự được hưởng trợ cấp. Trong số đó có những người tham gia

đóng góp từ lâu, nhưng có nhiều người vừa mới tham gia đóng góp. Vì thế, số trợ cấp
mà họ nhận được lớn hơn rất nhiều so với số tiền đóng góp của họ. Muốn làm như
vậy không có cách nào khác là phải lấy kết quả đóng góp của số đông người tham gia
để bù cho số ít người được hưởng trợ cấp. Những người lao động chưa đủ điều kiện
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
để hưởng trợ cấp lúc này thì phần đóng góp của họ để người khác hưởng, nhưng cuộc
đời làm việc, chắc chắn họ cũng cần được hưởng trợ cấp BHXH. Khi đó, trợ cấp mà
họ được hưởng cũng do nhiều người khác đóng góp.
Phải kết hợp hài hòa giữa lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu
cầu BHXH.
Việc xác định lợi ích của các bên tham gia BHXH thì đã được làm rõ và quyền
lợi luôn đi đôi với trách nhiệm, điều đó đòi hỏi phải có một sự cân đối giữa trách
nhiệm và quyền lợi của mỗi bên tham gia, nghĩa là xác định mức đóng góp của mỗi
bên tham gia phù hợp với lợi ích mà họ nhận được từ việc họ tham gia đó. Việc thực
hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động sẽ không được thực hiện nếu như gánh
năng thuộc về bất cứ bên nào làm triệt tiêu đi lợi ích mà họ đáng được hưởng.
Đồng thời phải kết hợp giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện để đáp ứng
yêu cầu của toàn xã hội. Ở nước ta do BHXH bắt buộc chỉ được áp dụng với người
làm công ăn lương còn đối với những người lao động làm trong khu vực kinh tế phi
chính thức thì không được tham gia BHXH bắt buộc. Chính vì vậy bắt đầu từ năm
2008 trở đi, nước ta thực hiện triển khi BHXH tự nguyện cho tất cả mọi người lao
động trong nước để đảm bảo lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của người lao động.
Vì vậy, cần có sự kết hợp giữa tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện để bảo
vệ cho toàn bộ người lao động của đất nước.
Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, nhưng
thấp nhất cũng phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế tiền lương như trợ cấp ốm
đau, thai sản, hưu trí, chứ không phải loại trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp BHXH khác.

Như đã biết tiền lương là khoản tiền người chủ sử dụng lao động trả cho người lao
động khi họ thực hiện công việc nhất định, người lao động có sức khỏe bình thường,
có việc làm bình thường. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện công
việc nhất định hoặc không việc làm mà trước đó đã tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp
BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền luong do người lao động làm ra được. Nếu
trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải
cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại họ sẽ tìm mọi
cách để được hưởng trợ cấp BHXH.
Hơn nưa cách lập quỹ phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho
phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền
lương thì chẳng khác gì người lao động bị rủi ro đem rủi to của mình dàn trải cho
những người khác.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương tiền công lúc đang
đi làm, tuy nhiên, do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức trợ cấp
BHXH thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày. Chỉ khi đó
trợ cấp BHXH mới đảm bảo là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội.
Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời phải
phát huy tính đa dạng, năng động của bộ phận cấu thành.
Hệ thống BHXH của một nước thường nhiều bộ phận cấu thành. Trong đó, bộ
phận lớn nhất do nhà nước tổ chức và bảo hộ dặc biệt bao trùm toàn bộ những người
hưởng lương từ NSNN và những người lao động thuộc khu vực kinh tế quan trọng
của đất nước. Các bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và tư nhân tổ chức ra để
bảo hiểm cho một số đối tượng hạn chế do luật pháp quy định.
Để BHXH hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải bảo đảm tính thống nhất trên
những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tùy tiện, tính cục bộ hoặc những mâu
thuẫn nảy sinh. Đồng thời, cũng phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể năng
động trong hoạt động để chúng có thể bù đắp, bổ sung những ưu điểm lẫn nhau.

BHXH phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế -
xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể.
BHXH của một nước gắn chặt với trạng thái kinh tế, với các điều kiện kinh tế
- xã hội, với cơ chế và trình độ quản lý, đặc biệt là với sự đồng bộ, sự hoàn chỉnh,
của nền pháp chế của nước đó. Trong tình trạng nước ta, kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN đang hình thành, nhiều mặt kinh tế - xã hội đang chuyển động mạnh.
Vì vậy, việc xây dựng và phát triển BHXH phải đảm bảo chắc chắn, tính toán thận
trọng và phải có bước đi phù hợp.
1.2. Chế độ trợ cấp ốm đau trong hệ thống BHXH
1.2.1. Khái niệm và bản chất của chế độ trợ cấp ốm đau
 Trợ cấp ốm đau
Khái niệm về trợ cấp ốm đau thì tùy theo tình hình của mỗi nước là đưa ra các
định nghĩa khác nhau nhưng theo quy định của ILO thì trợ cấp ốm đau là : Sự bảo
đảm hoặc thay thế về thu nhập cho người lao đông người lao động và gia đình họ khi
gặp phải những sự cố về ốm đau, bệnh tật nhưng không phải do tính chất của công
việc gây ra, làm mất khả năng làm việc dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập một khoảng
thời gian theo quy định của luật pháp quốc gia.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mục đích của chế độ này là bảo vệ sự mất khả năng lao động do ốm đau gây
ra dẫn đến thu nhập bị gián đoạn. Chế độ này giúp người tham gia BHXH nhanh
chóng ổn định cuộc sống, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Để được hưởng trợ
cấp ốm đau, người được hưởng phải có xác nhận của cơ sở y tế. Đồng thời, người lao
động phải thỏa mãn thời gian đóng BHXH tối thiểu nào đó, thời gian này được quy
định khác nhau tại mỗi quốc gia.
1.2.2. Nội dung của chế độ trợ cấp ốm đau
1.2.2.1 Vị trí vai trò của chế độ ốm đau trong BHXH
Trợ cấp ốm đau có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong các chế độ của
BHXH:

- Đặc trưng chế độ trợ cấp ốm đau là chế độ trợ cấp BHXH ngắn hạn tức là
chi cho người lao động còn trong quá trình làm việc, họ chỉ hưởng trợ cấp tạm thời
trong thời gian họ nghỉ và sẽ tiếp tục trở lại làm việc. Do vậy, việc chi trợ cấp này có
ý nghĩa rất lớn đối với người lao động, có vai trò trong việc thay thế một phần thu
nhập trong thời gian nhất định khi họ nghỉ việc khi bị ốm đau …giúp người lao động
được hưởng trợ cấp sẽ có được cuộc sống ổn định, càng gắn bó, tin tưởng vào chính
sách BHXH của Nhà nước.
- Việc chi trả chế ốm đau còn có ý nghĩa rất lớn về mặt tinh thần. Việc chi trả
trợ cấp cũng như việc quan tâm đến người lao động có tác động rất lớn nhằm mục
đích giảm dần tỷ lệ ngày công ốm đau…; tăng dần tỷ lệ ngày công lao động có ích,
góp phần tăng năng suất lao động, từ đó tác động trở lại đối với chế độ BHXH làm
giảm chi, nâng cao hiệu quả quản lý quỹ BHXH.
Với vai trò,vị trí của trợ cấp ốm đau trong các chế độ của BHXH ta thấy được
việc quản lý chi trả chế độ này rất quan trọng. Việc quản lý chi trả giúp cho công tác
chi trả được thực hiện tốt, từ đó đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia
BHXH. Đồng thời công tác quản lý chi trả còn giúp quỹ BHXH thực hiện đúng mục
đích, đảm bảo chi đúng, chi đủ và kịp thời cho đối tượng hưởng, góp phần đảm bảo
cân đối quỹ BHXH.
1.2.2.2 Đối tượng hưởng của chế độ trợ cấp ốm đau
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối tượng hưởng của chế độ này là những người lao động tham gia đóng
BHXH trong một thời gian nhất định( thường là từ 4 đến 6 tháng), trong thời gian
làm việc bị ốm đau, bệnh tật dẫn đến phải nghỉ việc trong một khoảng thời gian ngắn.
Hoặc có con nhỏ trong độ tuổi quy định bị đau ốm bệnh tật thì cũng được hưởng chế
độ này.
1.2.2.3 Quản lý đối tượng hưởng trợ cấp ốm đau
Quản lý đối tượng hưởng có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý các
chế độ trợ cấp BHXH. Nếu việc tiến hành quản lý tôt có thể sẽ giúp đảm bảo sự bình

đẳng trong công tác chi trả, phòng ngừa và hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về
BHXH, tạo dựng được lòng tin của NLĐ và NSDLĐ. Quá trình quản lý đối tượng
của chế độ ốm đau cũng được thực hiện theo các nội dung của quán lý đối tượng
BHXH nói chung. Bao gồm :
Quản lý trước khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
Tức là quản lý đối tượng hưởng đang ở dạng tiềm năng: NLĐ đang tham gia
BHXH, thân nhân phụ thuộc của NLĐ: quá trình quản lý bắt đầu ngay từ khi NLĐ
đăng ký tham gia. Các thông tin về NLĐ và than nhân của họ phải được cập nhật
trong suốt quá trình NLĐ tham gia BHXH. Cơ quan BHXH có thể xây dựng hồ sơ
riêng về thân nhân và quản lý kèm với hồ sơ BHXH và sổ BHXH.
Quản lý quá trình xét hưởng và hưởng trợ cấp
Xét hưởng: Công tác xét hưởng phải đảm bảo những yêu cầu sau: phải đảm
việc xét hưởng nhanh chóng và chính xác và hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi
trục lợi nhằm đảm bảo tính chuyên môn hóa cao trong thẩm định xét duyệt hồ sơ.
Xây dựng một đội ngũ nhân viên có chuyên môn sâu, có hiểu biết và tư cách đạo đức
tốt để chịu trách nhiệm giải quyết các yêu cầu xét hưởng.Cuối cùng, công tác xét
duyệt phải đảm bảo khoa học, phù hợp.
Quy trình xét hưởng:
Lập hồ sơ hưởng: Cán bộ quản lý tập hợp các bằng chứng xác nhận quyền hường chế
độ trợ cấp ốm đau của đối tượng hưởng và quyết định mức hưởng theo hồ sơ hưởng.
Tiếp nhận và thẩm định xét duyệt hồ sơ hưởng: cán bộ trực tiếp thẩm định thực hiện,
việc thẩm định này được thực hiện trên cơ sở đánh giá các điều kiện hưởng của đối
tượng hưởng.Sau đó là xây dựng mức hưởng và ra quyết định hưởng.
Giải quyết tranh chấp kiếu nại
Sau khi được giải quyết chế độ trợ cấp ốm đau nếu thấy không thỏa đáng NLĐ có
quyền kiếu nại về: quyền được hưởng trợ cấp; mức hưởng; thời gian hưởng…Trước
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiên, NLĐ phải kiếu nại lên cơ quan trực tiếp xét hưởng, sau đó mới kiếu nại lên tòa

nếu như kiếu nại chưa được giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng.
1.2.2.4 Quản lý chi trả chế độ ốm đau
Nguyên tắc chi trả các chế độ trợ cấp
Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia BHXH và để đạt hiệu
quả cao, công tác chi trả chế độ trợ cấp ốm đau phải tuân theo một số nguyên tắc cơ
bản sau:
 Thứ nhất: đảm bảo chi đúng đối tượng
Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên và cũng là quan trọng nhất trong công tác
chi trả các chế độ. Bởi vì chi đúng đối tượng không những đảm bảo quyền lợi cho
người được hưởng mà còn giúp nguồn quỹ BHXH được đảm bảo, hệ thống BHXH
được củng cố. Không những vậy còn tạo sự công bằng, niềm tin của người dân nước
vào chính sách BHXH, vào chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, để đảm bảo
tốt nguyên tắc này cần làm tốt công tác xét duyệt hồ sơ các chế độ, phải có đủ hồ sơ
theo quy định và có xác nhận đóng đủ BHXH mới được thanh toán hưởng trợ cấp
BHXH.
 Thứ hai: đảm bảo chi đầy đủ, kịp thời
Nguyên tắc này đảm bảo cho khoản tiền trợ cấp đến tay đối tượng được
hưởng kịp thời và đầy đủ. Để làm tốt điều đó cần quản lý và sử dụng nguồn kinh phí
chi trả đúng mục đích, đồng thời cải tiến phương thức quản lý, tạo điều kiện thuận lợi
để chi trả các chế độ được thuận lợi và nhanh chóng.
 Thứ ba: đảm bảo an toàn tiền mặt
Công tác chi trả trợ cấp ốm đau cũng có liên quan tới tiền mặt nên cần tránh
các hiện tượng mất mát, thất thoát… Vì vậy, để đảm bảo an toàn về tiền mặt là một
nguyên tắc quan trọng khi tiến hành chi trả các chế độ.
 Thứ tư: Phải tuân thủ các chế độ kế toán và nguyên tắc thống kê theo quy
định của Nhà nước nói chung và theo quy định của ngành BHXH nói riêng.
 Thứ năm: Thực hiện quản lý chi trợ cấp theo phân cấp, theo đó cơ quan
BHXH cấp trên sẽ có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chi
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
21

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trả BHXH của cơ quan BHXH cấp dưới và người sử dụng lao động. Ngược lại, cơ
quan BHXH cấp dưới có trách nhiệm tổ chức chi trả trợ cấp và báo cáo lên cơ quan
BHXH cấp trên theo quy định.
Tổ chức chi trả
Thông thường, BHXH được tổ chức thành 3 cấp: BHXH cấp trung ương, cấp
khu vực và cấp địa phương, cụ thể:
Cấp trung ương: Đây là cấp cao nhất có nhiệm vụ phải bao quát và quản lý
toàn bộ hoạt động chi trả trong hệ thống, đồng thời giải quyết các tranh chấp và phi
phạm lớn xảy ra trong công tác chi trả. BHXH cấp Trung ương thường thành lập ra
ban quản lý chi trả để quản lý hoạt các hoạt động chi trả.
Cấp khu vực (bao gồm có BHXH tỉnh, thành phố): Có trách nhiệm toàn diện
về tổ thức thực hiện chi trả trên địa bàn quản lý. Tại BHXH cấp khu vực thường có
các phòng quản lý chi trả để quản lý chi trả trong toàn khu vực. Cấp khu vực có
nhiệm vụ phải quản lý, điều hành, kiểm tra, kiểm soát việc chi trả tại các cơ quan
BHXH ở cấp địa phương; ngoài ra còn trực tiếp tổ chức chi trả trợ cấp cho đối tượng
hưởng theo quy định.
Cấp địa phương (gồm BHXH các quận, huyện, thị xã…): Tổ chức chi trả và
quyết toán các chế độ cho các đối tượng được hưởng; có trách nhiệm thống kê, báo
cáo và quản lý chặt chẽ tình hình biến động tăng giảm của đối tượng hưởng và số tiền
chi trả theo đúng quy định của Nhà nước và hệ thống BHXH.
Việc tổ chức chi trả các chế độ BHXH do BHXH cấp khu vực và cấp địa
phương trực tiếp đảm nhận. BHXH cấp Trung ương có trách nhiệm quản lý chặt chẽ
tình hình biến động số đối tượng được hưởng, số tiền chỉ trả và đảm bảo quản lý
nguồn tiền mặt trong quá trình chi trả. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, thông
thường cơ quan BHXH ủy quyền cho đơn vị sử dụng lao động chi trả cho người lao
động, do vậy cần đảm bảo chi trả kịp thời, đầy đủ nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất
cho người lao động. Thực hiện thanh toán với cơ quan BHXH, quản lý lưu trữ chứng
từ kế toán theo quy định; có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ khi có yêu
cầu kiểm tra, thanh tra của cơ quan BHXH các cấp.

Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Phương thức chi trả
Tùy thuộc vào mô hình hệ thống BHXH, cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính –
ngân hàng hay bưu chính của mỗi quốc gia, mỗi địa phương mà áp dụng các phương
thức chi trả sao cho phù hợp, đảm bảo chính xác, nhanh chóng và thuận tiện cho cả
cơ quan BHXH và đối tượng hưởng. Thông thường việc tổ chức chi trả chế độ trợ
cấp ốm đau có các phương thức chi trả chủ yếu sau:
- Chi trả trực tiếp đến tay đối tượng hưởng: phương thức này có ưu điểm là cơ
quan BHXH có thể nắm bắt nhanh các thông tin về đối tượng hưởng, về những yêu
cầu và mong muốn của đối tượng hưởng để kịp thời giải quyết. Nhưng nhược điểm
của phương pháp này là mức độ an toàn tiền mặt không cao; với phương thức chi trả
trực tiếp đòi hỏi đội ngũ cán bộ BHXH lớn, có phẩm chất đạo đức và tinh thông nghề
nghiệp.
- Chi trả gián tiếp qua đơn vị sử dụng lao động: phương thức này giúp tiến độ
chi trả nhanh hơn do đơn vị sử dụng lao động chủ động thanh toán cho đối tượng,
đồng thời giảm nhẹ tăng biên chế ngành BHXH.
- Chi qua tài khoản tại Ngân hàng: với điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng
phát triển, cơ sở hạ tầng ngày được nâng cao, nhất là đối với các tỉnh, thành phố có
hệ thống Ngân hàng tốt có thể áp dụng phương thức này. Việc chi trả trực tiếp qua tài
khoản cá nhân mở tại tại ngân hàng hay chi gián tiếp qua tài khoản của chủ sử dụng
lao động tại Ngân hàng cho người lao động đều có ưu điểm là nhanh, tiết kiệm chi
phí và đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả. Tuy nhiên phương thức này
đòi hỏi một hệ thống tài chính phát triển và khả năng quản lý theo mô hình hiện đại
của cơ quan BHXH.
Nhìn chung khi lựa chọn phương thức thanh toán phải dựa vào các điều kiện
thuận lợi khi áp dụng các phương thức đó nhằm mang lại hiệu quả cao nhất, do vậy
cần cân nhắc một số nhân tố sau:
+ Sự thuận tiện đối với cơ quan BHXH và đối tượng hưởng trợ cấp.

+ Chi phí khi áp dụng phương thức đó
+ Độ an toàn khi sử dụng phương thức đó.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.3. Một số công ước quốc tế về trợ cấp ốm đau
_ Công ước 102 về an sinh xã hội (tiêu chuẩn tối thiểu) năm 1952 của ILO
_ Công ước 130 về chăm sóc y tế và trợ cấp ốm đau ( năm 1969) của ILO : trong
công ước này có quy định đối tượng hưởng, thời gian hưởng, mức hưởng chế độ từ
điều 18 đến điều 26 của công ước.
_ Công ước 14.330 của Đan Mạch, Phần Lan, Iceland, Na Uy và Thụy Điển về Hiệp
định liên quan đến trợ cấp ốm đau, trợ cấp tử tuất và trợ cấp thai sản tại Copenhagen
vào 06/02/1975 trong đó các quy định về ốm đau được quy định từ điều 08 đến điều
12 theo đó một cư dân ở nước này có thế hườn trợ cấp ốm đau theo chế độ ở nước
khác nếu thỏa mãn các yêu cầu trong quy định tại điều 8 :
_ Một cư dân của một quốc gia kí kết được hưởng bệnh tật lợi ích bằng tiền mặt ở
nước này trong cùng một điều kiện và theo cũng một quy định như công dân ở nước
đó. Tuy nhiên, một cư dân của một trong những quốc gia tham gia kí kết đang làm
việc trong một quốc gia kí kết nếu các khoản tiết kiệm không được cung cấp bởi một
bên thứ ba thì được hưởng trợ cấp bằng tiền mặt ở những nước đang làm việc tại đó
trên cơ sở các khoản thu nhập của mình tại đó.
_ Một người làm việc trên một chiếc thuyền treo lá cờ của một quốc gia tham gia kí
kết được hưởng các quyền lợi trợ cấp ốm đau bằng tiền mặt ở trong nước mà con tàu
treo lá cờ bay.
_ Một nhân viên tạm trú tại một trong những quốc gia tham gia kí kết khác với nước
mình cư trú với mục đích làm việc không quá 12 tháng đối với doanh nghiệp có trụ
sở chính tại nước mình cư trú thì được trả trợ cấp bằng tiền mặt tại nước mình cư trú
cho khoảng thời gian đó. Nếu do bất khả kháng, trường hợp, việc làm, ở nước khác
kéo dài lâu hơn ban đầu dự định và mở rộng quá 12 tháng, các nhân viên sẽ đc tiếp
tục hưởng lợi ích tại nước mình cư trú bằng tiền mặt với điều kiện cơ quan có thấm

quyền của quốc gia mình cư trú tạm thời cho phép.
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU
TẠI BHXH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005-2009
2.1. Khái quát về BHXH Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam
Thời kỳ trước năm 1945, khi nước ta còn là nước phong kiến số quan lại trong
triều đình khi về già chỉ được hưởng bổng lộc Vua ban. Một số quan chức làm việc
cho chính quyền thực dân được hưởng một số chế độ như: hưu trí, tử tuất.
Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã
hội. Nên ngay từ sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, mặc dù gặp muôn vàn khó
khăn nhưng Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc ban hành và sủa đổi bổ sung chính
sách BHXH và trợ cấp xã hội để áp dụng cho người lao độngphù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ. Riêng đối với công nhân viên chức Nhà nước và quân
nhân, Chính phủ đã nhiều lần ban hành chính sách bảo hiểm xã hội gồm các chế độ
trợ cấp khi ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, già yếu và chế độ trợ cấp gia đình khi
công nhân viên chức từ trần để đảm bảo đời sống cho họ và gia đình, góp phần ổn
định xã hội.
Ngay sau khi giành chính quyền năm 1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số
7NV/CC ngày 17/12/1945, trưng dụng toàn bộ đội ngũ công chức để làm việc cho
chính quyền mới, đồng thời những người đủ điều kiện thì cho nghỉ hưu. Trong sắc
Trần Thanh Nam Bảo hiểm xã hội
25

×