Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.43 KB, 26 trang )

Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng
ngoại thương Việt Nam
2.1. Khái quát về sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử và phát triển
Ngày 01 tháng 04 năm 1963, NHNT chính thức được thành lập theo
Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm
1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung
ương (nay là NHNN). Theo Quyết định nói trên, NHNT đóng vai trò là ngân
hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và
các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế,
kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài,
làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các
nước xã hội chủ nghĩa (cũ)... Ngoài ra, NHNT còn tham mưu cho Ban lãnh đạo
NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của
Nhà nước và về quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, các Tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế.
Ngày 21 tháng 09 năm 1996, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính
phủ, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 286/QĐ-NH5 về việc thành lập lại
NHNT theo mô hình Tổng công ty 90, 91 được quy định tại Quyết định số
90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ.
Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối
năm 2006, NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với
58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc
trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội
ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngoài ra, NHNT còn tham gia góp vốn, liên doanh
liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh
khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản
của NHNT tại thời điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương
đương 10,4 tỷ USD), tổng dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn
chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo


chuẩn quốc tế.
Trong định hướng phát triển của Vietcombank, để trở thành một tập
đoàn tài chính mạnh có nhiều công ty con, chiếm thị phần lớn trên thị
trường tài chính, kinh doanh ngày càng hiệu quả, thì vấn đề cơ cấu lại tổ
chức là cấp thiết. Hệ thống Vietcombank liên tục phát triển, số chi nhánh
càng ngày càng lớn, chỉ riêng năm 2007 số chi nhánh đã tăng lên gấp
đôi so với 2006 (lên 59 chi nhánh), nguồn vốn huy động và cho vay tăng
mạnh từng năm, VCB lại vừa cổ phần hóa và thực hiện đợt IPO đầu
tiên, tạo điều kiện thuận lợi để tăng vốn chủ sở hữu. Cùng lúc đó, các
công ty con của VCB liên tục ra đời và phát triển, như công ty chứng
khoán VCB, công ty cho thuê tài chính VCB, công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản VCB, công ty TNHH cao ốc VCB 198… Trong điều kiện đó,
việc để Hội sở chính vừa thực hiện chức năng kinh doanh và chức năng
quản lý là không còn phù hợp nữa, VCB đã tách bộ phận kinh doanh
của HSC và thành lập sở giao dịch NHNT VN với chức năng hoạt động
như một chi nhánh cấp 1, từ đầu năm 2006.
Năm 2007, SGD đã chuyển địa điểm từ 198 Trần Quang Khải sang
đóng tại 31-33 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. SGD có phạm vi
hoạt động lớn, bao gồm cả thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận. Sau
khi tách khỏi HSC, và đặc biệt từ khi chuyển địa điểm, SGD đã rất cố
gắng mở rộng phạm vi, thâm nhập tìm kiếm khách hàng, và có được
những thành công nhất định, đặc biệt huy động vốn của SGD chiếm
khoảng 16% địa bàn Hà Nội, là mũi nhọn phát triển cho NHNT phía Bắc.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Bảng 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức các phòng ban trong SGD
SGD NHNT VN xây dựng theo mô hình hiện đại, có những đổi mới
tiên tiến với quy mô phù hợp.
Lãnh đạo cấp cao nhất của SGD là Ban giám đốc gồm 4 người, 1
giám đốc và 3 phó giám đốc. Phía dưới là các phòng nghiệp vụ, mỗi
phòng có chức năng và nhiệm vụ riêng:

- Phòng quan hệ khách hàng: phòng này là đầu mối quan hệ với
khách hàng, có nhiệm vụ duy trì và không ngừng mở rộng mối quan hệ
với các khách hàng, sâu sát trong tất cả các quy trình các giai đoạn hoạt
động, các sản phẩm kinh doanh…
- Phòng đầu tư dự án: phòng đáp ứng những nhu cầu vay vốn trung
và dài hạn của khách hàng, chức năng bao gồm cả phân tích rủi ro,
thẩm định dự án, đánh giá tính khả thi, tính hiệu quả của các dự án.
- Phòng quản lý rủi ro tín dụng: chức năng ngiên cứu và phân tích,
đồng thời quản lý rủi ro, cả rủi ro chung (rủi ro hệ thống, rủi ro thị
trường) và rủi ro riêng (rủi ro của từng khách hàng, từng dự án kinh
doanh) nhằm đảm bảo mở rộng phát triển tín dụng an toàn hiệu quả,
giảm thiểu rủi ro.
- Phòng quản lý nợ: phòng quản lý nợ quản lý trực tiếp các tác
nghiệp liên quan đến các nghiệp vụ giải ngân, thu hồi nợ, đảm bảo số
liệu trên hệ thống khớp số liệu trên hồ sơ và trên thực tế, lưu giữ hồ sơ
vay an toàn và đầy đủ, đảm bảo tuân thủ quy trình tín dụng.
- Phòng doanh nghiệp vừa và nhỏ: phụ trách quan hệ với khách
hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những món vay không lớn,
phòng có thể tự đánh giá, thẩm định và cho vay. Được thành lập từ
tháng 10/2007 để khắc phục nhược điểm của quy trình 90.
- Phòng tín dụng tiêu dùng: toàn quyền với các khách hàng là cá
nhân hay doanh nghiệp vay vốn để tiêu dùng hàng hóa dịch vụ chất
lượng cao, như mua nhà, ôtô trả góp, vay du học,...
- Phòng thanh toán quốc tế: do số lượng giao dịch lớn nên được
chia nhỏ thành 2 phòng là thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập
khẩu, thực hiện các nghiệp vụ bao gồm tài trợ thương mại, thực hiện
thanh toán L/C xuất nhập khẩu, các nghiệp vụ khác như nhờ thu, chiết
khấu chứng từ, bảo lãnh thanh toán…
- Phòng bảo lãnh:thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh:bảo lãnh vay
vốn, bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu, bảo lãnh đảm bảo khả năng

thanh toán…
- Phòng vay nợ viện trợ: thực hiện công tác quản lý các khoản vay
có tính viện trợ của nước ngoài, như các tổ chức quốc tế.. nhằm mục
đích phát triển kinh tế xã hội, cải thiện môi trường…
- Phòng kế toán giao dịch : Phòng trực tiếp thực hiện giao dịch với
khách hàng và tổ chức hạch toán kế toán cho SGD.
- Phòng thanh toán thẻ : phòng thực hiện quản lý quá trình thanh
toán thẻ của NHNT VN, kiểm soát các giao dịch, các nghiệp vụ như
chuyển tiền rút tiền, mua hàng..
- Phòng kho quỹ: quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt và
tổ chức điều chuyển tiền giữa quỹ nghiệp vụ của SGD và NHNN, các chi
nhánh cùng hệ thống trên địa bàn, các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch
trong ngoài quầy, thu chi tiền mặt giao dịch với giá trị lớn.
Ngoài ra còn có phòng hối đoái, phòng dịch vụ tài khoản khách
hàng, phòng khách hàng đặc biệt, phòng quản lý nhân sự, phòng hành
chính quản trị, phòng kinh doanh ngoại tệ và 24 phòng giao dịch khác
trên địa bàn Hà Nội.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh
Do mới tách ra từ hội sở chính và hoạt động độc lập, nên dù vẫn có
lợi thế về thương hiệu và những ưu thế khác, song SGD đã gặp nhiều
khó khăn về tổ chức và những nghiệp vụ mới áp dụng. Những khách
hàng lớn trước đây chuyển lên HSC quản lý khiến cho SGD gần như
phải xây lại từ nền. Tuy vậy, SGD đã đạt được nhiều kết quả trong 2
năm 2006 và 2007.
- Ổn định tổ chức và hoạt động kinh doanh bình thường.
- Kế thừa hệ thống phòng giao dịch trước đây nên đã hoàn thành
chỉ tiêu huy động vốn.
- Các mảng dịch vụ bán lẻ, dịch vụ thanh toán, tài trợ thương mại
vẫn duy trì ổn định như trước.
Song, hoạt động tín dụng chưa hiệu quả, tỷ lệ dư nợ so tổng nguồn

vốn thấp. (khoảng 6.96% -2006) trong khi tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu phải
là 8%.
Về huy động vốn:
Nghiệp vụ huy động vốn đã duy trì được hiệu quả sau khi SGD tách
ra và hoạt động độc lập. Đến cuối năm 2007, nguồn vốn huy động được
từ nền kinh tế của SGD quy VNĐ đạt xấp xỉ 39.408,36 tỷ VND, tăng
4646,55 tỷ VND, xấp xỷ 13,36% so với năm 2006.
Thị phần vốn huy động quy VND tại SGD trên địa bàn Hà Nội là
16,23% trong đó thị phần huy động vốn VND là 10,86% và ngoại tệ quy
USD là 28,19%.
Bảng 2.2 : Nguồn vốn huy động của SGD năm 2007
Đơn vị : tỷ đồng, triệu USD
Chỉ tiêu 31/12/2007 So với 31/12/2006 (%)
VND USD Quy VND VND USD
Quy
VND
I.Huy động từ liên ngân
hàng
0 0 0 - - -
II. Huy động từ nền kinh tế 14947,10 1.231,42 34.761,81 25,03 16,77 21,13
1. Tiền gửi của tổ chức kt 11.124,89 439,71 18.200,31 30,29 46,12 36,68
1.1 Tiền gửi không kỳ hạn 4.070,31 398,77 10.486,96 -45,81 53,09 -9,96
1.2 Tiền gửi có kỳ hạn 7.054,58 40,94 7.713,35 587,13 22 362,22
2. Tiết kiệm và kỳ phiếu,
trái phiếu
3.822,21 791,70 16.561,50 11,86 5,05 7,67
2.1 Tiết kiệm 3.409,72 717,29 14.951,68 16,26 0,75 5,03
- Tiết kiệm không kỳ hạn 29,58 9,55 183,20 59,89 -18,32 -10,22
- Tiết kiệm có kỳ hạn < 12
tháng

1.888,73 216,77 5.376,84 21,38 14,29 17,73
- Tiết kiệm có kỳ hạn > 12
tháng
1.491,41 490,97 9.391,64 9,79 -3,85 -0,77
2.2 Kỳ phiếu, trái phiếu 412,49 74,41 1.609,83 -14,76 78,43 40,48
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm 2006, 2007
Tính tổng nguồn vốn quy VND năm 2007, huy động từ nguồn tiền
gửi của tổ chức chiếm 54% tổng nguồn vốn, huy động từ tiền tiết kiệm
của dân cư là 44%, còn lại là từ các tổ chức tín dụng khác và kho bạc
Nhà nước.
Huy động vốn ngoại tệ đóng góp tỷ lệ cao nhưng thấp hơn 2006.
Kết quả này là do đồng USD bị yếu đi và cuộc chạy đua lãi suất huy
động VND trong năm 2007. Mặt khác, SGD cũng mất đi một số khách
hàng lớn được giữ lại ở HSC nên lượng huy động ngoại tệ có chiều
hướng giảm này.
- Về sử dụng vốn:
Công tác quản lý và sử dụng vốn của SGD được thực hiện theo
phương châm an toàn và hiệu quả nhất, để vừa đảm bảo khả năng sinh
lời cao vừa giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho Ngân hàng.
Cho vay trực tiếp: Cuối năm 2007 dư nợ tín dụng của SGD quy
VND đạt khoảng 3509,73 tỷ đồng, trong đó tín dụng ngắn hạn đạt
2561,48 tỷ đồng, tín dụng trung và dài hạn đạt 948,25 tỷ đồng. Dư nợ tín
dụng chiếm 7,26% trên nguồn vốn của SGD.
Bảng 2.3: Dư nợ tín dụng các năm 2005-2007
Đơn vị: tỷ đồng
Các chỉ tiêu
2005 2006 2007
Số tiền
Tỷ trọng
%

Số tiền
Tỷ trọng
%
So sánh
05/06
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
%
So sánh
06/07
(%)
Tổng dư nợ 8795,0 100,00 2449,08 100,00 -259,00 3509,73 100,00 -1060,65
Nợ ngắn hạn 6302,5 71,66 2081,37 84,97 -67,00 2561,48 72,98 -480,11
Nợ trung và
dài hạn
2492,5 28,34 367,45 15,03 -85,00 948,25 27,02 -580,80
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm 2005 – 2007
+ Tín dụng ngắn hạn
Từ 1/7/2006, SGD đã thực hiện quy trình tín dụng mới, quy trình 90,
giúp kiểm soát chặt chẽ hơn các khoản tín dụng, nâng cao chất lượng
tín dụng. Việc SGD tách khỏi HSC đã ảnh hưởng lớn đến công tác tín
dụng của SGD. Các khách hàng dư nợ lớn đều chuyển lên trung ương
quản lý, tại SGD chỉ còn các khách hàng nhỏ và vừa với mức dư nợ
trung bình và nhỏ. Dư nợ cho vay ngắn hạn cảu SGD tập trung vào kinh
doanh thương mại do 80% doanh số cho vay tổ chức kinh tế để hoạt
động kinh doanh hàng nhập khẩu nên khách hàng chủ yếu vay bằng
ngoại tệ, SGD vẫn cố gắng thâm nhập thị trường tìm nguồn khách hàng
vay VND mới.
Đối với dư nợ tín dụng ngắn hạn bằng ngoại tệ đến 31/12/2007 đạt

96,42 triệu USD do giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới tăng mạnh, nên
nhu cầu vay ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu của các doanh nghiệp
đều tăng. Lãi suất USD tuy tăng song tỷ giá vẫn được duy trì, lãi suất
VND lại cao hơn nhiều nên dư nợ ngoại tệ càng chiếm tỷ trọng lớn.
+ Tín dụng trung dài hạn
Sau khi tách khỏi HSC, phần lớn dư nợ cho vay có kỳ hạn dài đều
chuyển lên trung ương, tại SGD chỉ còn các khoản dư nợ nhỏ và hoạt
động đầu tư bắt đầu lại từ con số không. Dư nợ tín dụng trung và dài
hạn bằng VND năm 2007 đạt 340,46 tỷ VND, tăng 41,66% so năm
2006. Cùng lúc đó, nhiều hợp đồng cho vay trung và dài hạn chưa thể
giải ngân năm 2006 đã giải ngân năm 2007 làm cho số dư nợ tăng
mạnh. (dự án ximang Bỉm Sơn, thủy điện Sesan 4,…)

×