Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP GỖ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.99 KB, 33 trang )

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN KẾ
TỐN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP GỖ HÀ NỘI

I - Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾT KIỆM CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG QUẢN
TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần
kinh tế, đòi hỏi các nhà sản xuất phải làm thế nào tránh được tình trạng
thua lỗ phá sản. Đây là vấn đề bao trùm xuyên suốt hoạt động kinh doanh,
thể hiện chất lượng của tồn bộ cơng tác quản lý kinh tế. Bởi vì, suy cho
cùng quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động sản xuất nói riêng là để
đảm bảo tạo ra hiệu quả cao nhất.
Nguyên tắc cơ bản của hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi, tự
trang trải và có lãi. Muốn có lãi cao nhất <có thể được> khơng có cách nào
khác là các nhà sản xuất phải tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, năng lượng,
máy móc, thiết bị và thời gian lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất chung,
chi phí quản lý doanh nghiệp nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng của sản
phẩm sản xuất ra. Tiết kiệm chi phí sản xuất trong phạm vi doanh nghiệp
cũng đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận của Doanh nghiệp.
Mặt khác chi phí sản xuất cấu thành nên giá thành sản phẩm, vì thế
việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở
tiết kiệm các chi phí theo khoản mục giá thành sản phẩm. Giá thành không
chấp nhận tồn bộ chi phí phát sinh mà chỉ chấp nhận những chi phí cho
sản xuất để hồn thành một khối lượng hàng hoá, dịch vụ. Đối với phạm vi
một nền kinh tế quốc dân thì việc tiết kiệm chi phí có ý nghĩa lớn hơn

1


nhiều. Tiết kiệm chi phí của tất cả các ngành là để tăng thu cho ngân sách


nhà nước cải thiện đời sống cho nhân dân.
Việc hạch tốn chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
đảm bảo cho việc cung cấp chính xác, đầy đủ thơng tin về hoạt động của
doanh nghiệp, giúp cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo của doanh nghiệp được
chính xác, xác định chính xác hiệu quả của cơng tác sản xuất - kinh doanh
và định hướng được công tác sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong
thời gian trước mắt cũng như kế hoạch tổ chức sản xuất dài hạn của doanh
nghiệp.
Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các
Doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mặt hàng nâng cao chất lượng
sản phẩm và hạ được giá thành. Như chúng ta đã biết, đối với các doanh
nghiệp sản xuất việc hạ giá thành sản phẩm là con đường chủ yếu để tăng
doanh lợi cho tồn bộ hoạt động sản xuất - kinh doanh. Nó cũng là tiêu đề
để hạ giá bán nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường kể cả trong và ngoài
nước.
Việc tính giá thành là cơng việc cần thiết quan trọng đối với bất kỳ
của doanh nghiệp nào. Tổ chức đánh giá giá thành sản phẩm giúp cho bộ
máy quản lý và mọi thành viên trong doanh nghiệp nắm được tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành và nhiệm vụ hạ giá thành cung cấp những tài
liệu xác thực để chỉ đạo sản xuất - kinh doanh, phân tích đánh giá sản xuất,
kiểm tra kiểm sốt thường xun và có hệ thống nguyên tắc tiết kiệm trong
sản xuất. Ngoài ra từ việc tính giá thành để phân tích tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành còn giúp cho doanh nghiệp từ đó khai thác động viên mọi
khả năng tiềm tàng nhằm mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động để
không ngừng hạ giá thành sản phẩm.
Trên ý nghĩa đó việc hồn thiện cơng tác tổ chức hạch tốn chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm đang là vấn đề mà tất cả các doanh
2



nghiệp đều quan tâm nghiên cứu nhằm từng bước nâng cao được hiệu quả
sản xuất - kinh doanh của mình, góp phần vào việc quản lý doanh nghiệp
một cách chặt chẽ hơn.

II - NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HẠCH TỐN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ
NGHIỆP GỖ HÀ NỘI
Qua q trình thực tập và nghiên cứu đề tài : ''Hồn thiện hạch tốn
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp Gỗ Hà
nội'', em thấy cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thì hoạt động của nền
kinh tế thì hoạt động của xí nghiệp đã có những biến đổi để thích ứng
Xí nghiệp gỗ hà nội có lịch sử phát triển hơn 40 năm (từ năm 1956)
là một trong những đơn vị có bề dày kinh nghiệm trong sản xuất và kinh
doanh các mặt hàng và sản phẩm đồ Gỗ và hàng Mộc, cung cấp các loại đồ
dùng bằng gỗ và hàng mộc chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhân dân,
đóng góp một phần đáng kể vào thu nhập quốc dân của cả nước. Có được
thành quả đó là do có sự quan tâm của Sở công nghiệp Hà nội cũng như sự
phấn đấu của tập thể lãnh đạo của xí nghiệp và đội ngũ công nhân viên
trong hơn 40 năm qua.
Chuyển sang vận hành trong cơ chế thị trường, tuy còn nhiều bỡ ngỡ
khó khăn trong cơ chế quản lý mới, song sự nhạy bén và năng động của cơ
chế thị trường đã thúc đẩy xí nghiệp linh hoạt và nhạy bén trong các hoạt
động sản xuất - kinh doanh. Đặc biệt phải kể tới sự chuyển biến của bộ
máy quản lý kinh tế đã góp phần khơng nhỏ vào kết quả chung của xí
nghiệp, nó trở thành cánh tay đắc lực thúc đẩy q trình phát triển của xí
nghiệp trong việc vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế thị trường kết hợp
với chủ trương chính sách của Nhà nước, đến nay Xí nghiệp đã khắc phục
được những khó khăn và hoạt động bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế.
3



Các phịng ban chức năng của Xí nghiệp được tổ chức sắp xếp lại
cho phù hợp với quy mô hoạt động mới của Xí nghiệp, phục vụ sát sao với
quá trình sản xuất. Song song với quá trình chuyển đổi ấy, hệ thống cơng
tác kế tốn tài chính của Xí nghiệp khơng ngừng được hồn thiện cả về cơ
cấu lẫn phương pháp hạch tốn. Ta có thể nhận thấy rõ điều đó qua những
ưu điểm của cơng tác kế tốn hiện nay ở Xí nghiệp.
Ưu điểm :
+ Xí nghiệp đã áp dụng phân loại chi phí sản xuất theo nội dung
kinh tế của chi phí là hồn tồn hợp lý. Xí nghiệp đã tách yếu tố chi phí
NVL chính, NVL phụ một cách riêng biệt, tạo điều kiện cho việc đánh giá
tỷ lệ NVL chính và NVL phụ trong giá thành thành phẩm, giúp cho việc
tính giá thành được chính xác. Trên cơ sở đó, Xí nghiệp cịn phân chia
NVL chính và NVL phụ thành các khoản khác nhau theo các tiêu thức
phân loại thích hợp để từ đó tính toán ra các chỉ tiêu cần thiết khác.
+ Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo từng phân xưởng và cụ thể
là cho từng sản phẩm. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm hồn thành ở
giai đoạn cơng nghệ sản xuất cuối cùng là hoàn toàn hợp lý, có căn cứ khoa
học và phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất quy trình cơng nghệ của Xí
nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, giúp cho cơng tác chỉ đạo sản
xuất và tính giá thành sản phẩm được tốt và hợp lý .
+ Hiện nay, Xí nghiệp đã và đang sử dụng hệ thống sổ sách theo
hình thức Nhật ký chứng từ (NKCT). Sổ sách kế tốn của Xí nghiệp tương
đối là đầy đủ và đúng đắn theo quy định của chế độ kế tốn do Bộ t chính
ban hành. Tạo mối quan hệ mật thiết lẫn nhau giữa các bộ phận trong tồn
bộ hệ thống kế tốn của Xí nghiệp. Các kế tốn viên trong phịng Kế tốn
tài chính <Phịng tài vụ> của Xí nghiệp thực hiện theo đúng phạm vi và
quyền hạn của mình theo từng nhiệm vụ và phần hành kế toán được giao
4



cho, đồng thời kết hợp các bộ phận đó lại để tạo nên một hệ thống kế tốn
có liên hệ mắt xích nhau và hoạt động có hiệu quả. Cơng tác tổ chức luân
chuyển chứng từ và sổ sách kế tốn cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho việc hạch tốn chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được nhanh
chóng và chính xác.
+ Việc áp dụng hình thức trả lương theo định mức số giờ cơng sản
xuất thực tế của người công nhân được áp dụng đối với từng loại sản phẩm,
nhóm sản phẩm. Việc trả lương theo hình thức này đảm bảo số lượng chất
lượng, đúng quy trình kỹ thuật và ngành quy định. Định mức số giờ cơng
sản xuất thực tế được phịng Kỹ thuật – Kế hoạch – Vật tư của Xí nghiệp
nghiên cứu theo các phương pháp khoa học đã đề ra cho từng loại sản
phẩm, nhóm sản phẩm được sản xuất. Người công nhân không thể cứ đảm
bảo số giờ công sản xuất là đủ mà Xí nghiệp cịn căn cứ vào chất lượng sản
phẩm do người công nhân làm ra đó để có biện pháp thưởng phạt thêm vào tiền lương hay khấu trừ bớt tiền lương> rõ ràng nghiêm minh. Có
như vậy, người cơng nhân mới có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của
mình làm ra. Thành quả đạt được góp phần khuyến khích tinh thần lao
động, tiết kiệm vật tư, tiền vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
+ Do đặc điểm hoạt động sản xuất chế tạo sản phẩm của Xí nghiệp
tiến hành chưa đều, khơng thường xun, thời gian ngừng sản xuất cịn
nhièu nằm ở trong kho thành phẩm, vì thế Xí nghiệp chưa sản xuất ngay loại sản
phẩm đó – ngừng sản xuất tạm thời – hoặc Xí nghiệp sản xuất theo đơn đặt
hàng của khách hàng cho nên cần phải tiến hành sản xuất gấp rút để kịp
hoàn thành đơn đặt hàng theo đúng thời hạn> cho nên kỳ tính giá thành của
Xí nghiệp có thể là theo lô, mẻ, đơn đặt hàng sản xuất sản phẩm. Điều này
thể hiện sự hợp lý trong cơng tác tính giá thành tránh sự nhầm lẫn trong
công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.


5


+ Nhìn chung, Xí nghiệp đã tính tốn và lập các Báo cáo tài chính
theo đúng quy định của chế độ kế tốn ban hành (Bộ tài chính ban hành).
Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ hạch toán đã được theo dõi và cập
nhật kịp thời. Bộ máy tổ chức kế tốn gọn nhẹ (tất thảy chỉ có 3 người làm
cơng tác kế tốn tại Xí nghiệp) và công tác kế hoạch giá thành về cơ bản
vẫn đảm bảo được u cầu vẹn tồn hệ thống thơng tin kế toán trong
Doanh nghiệp, và giúp cho kế toán phát huy được chức năng giám đốc tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành một cách kịp thời và đầy đủ.
+ Nhận thức được tầm quan trọng của việc tiết kiệm chi phí sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm nhất là trong cơ chế thị trường, Xí nghiệp đã ra sức
tăng cường công tác quản lý kinh tế, quản lý sản xuất mà trước tiên là quản
lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của Xí nghiệp, kế tốn thực sự
được coi là một công cụ quan trọng trong hệ thống quản lý Xí nghiệp. Hệ
thống kế tốn của Xí nghiệp tương đối hồn chỉnh, gọn nhẹ, đội ngũ nhân
viên có trình độ kế tốn và nắm vững nhiệm vụ của mình. Việc phân cơng
trách nhiệm giữa các phần hành kế tốn trong việc tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm như hiện nay là phù hợp với trình độ và chức
năng của các kế tốn viên trong Xí nghiệp. Kế tốn có nhiệm vụ tập hợp
chi phí tại các phân xưởng một cách chính xác, tính đúng và tính đủ, sau đó
kế tốn chuyển số liệu đó làm cơ sở để tính giá thành sản phẩm trên cơ sở
đối chiếu với các phần hành kế tốn liên quan để lập thẻ tính giá thành sản
phẩm .
Cơng tác kế tốn tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội ngồi những ưu điểm
lớn trên cịn tồn tại những vướng mắc chưa hợp lý cần tiếp tục được hoàn
thiện.
Nhược điểm :

+ Vần đề hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất sản phẩm hỏng>:
6


Khơng có Doanh nghiệp sản xuất nào mà trong q trình sản xuất lại
khơng có một lần mắc lỗi và gặp khó khăn trong sản xuất quan và khách quan mang lại>. Cho nên bất cứ một khâu nào trong q
trình sản xuất của Xí nghiệp đều có phát sinh khó khăn và do đó đều có sản
phẩm hỏng và trong một số trường hợp, chi phí thiệt hại sản phẩm hỏng
cũng đáng kể nhưng Xí nghiệp không mở tài khoản để theo dõi mà thực tế
khoản chi phí này được hạch tốn vào chi phí sản xuất. Chứng tỏ cơng tác
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chưa được thực hiện
tốt, giá thành phản ánh chưa thật chính xác.
Ngồi ra, Xí nghiệp cịn phản ánh chưa đủ các khoản chi phí thiệt hại
trong sản xuất về ngừng sản xuất. Vì trong q trình sản xuất năm này qua
năm khác Xí nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn như : Thiếu nguyên vật
liệu dùng cho sản xuất, ngừng sản xuất loại sản phẩm nào đó do khơng bán
được hàng, tiến hành sửa chữa lớn TSCĐ…khiến cho cơng tác tập hợp chi
phí sản xuất không đầy đủ và giá thành sản phẩm chưa thật chính xác.
+ Về chi phí khấu hao TSCĐ :
Kế toán khấu hao TSCĐ thực hiện đúng theo chế độ quy định và Xí
nghiệp tiến hành khấu hao theo phương pháp khấu hao “ Khấu hao theo
đường thẳng’’ (phương pháp bình qn). Tuy nhiên, TSCĐ trong Xí nghiệp
đã được Xí nghiệp chia thành 2 loại cơ bản là Nhà xưởng và Máy móc thiết
bị. Mỗi loại TSCĐ có tỷ lệ khấu hao cơ bản nhất định và chúng đã được
xác định từ trước rồi mà (8% và 6%) lại không phản ánh trên Bảng phân bổ
số 3 “Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ’’. Đã phân TSCĐ thành 2 loại
cơ bản trên và mỗi loại có tỷ lệ khấu hao cơ bản riêng mà lại gộp cả Nhà
xưởng và Máy móc thiết bị ở phân xưởng Cơ điện, bộ phận Đời sống và bộ

phận kinh doanh dịch vụ. Vấn đề này Xí nghiệp cần phải xem xét và giải
quyết ngay.
+ Về các khoản trích theo lương :
7


Xí nghiệp Gỗ Hà nội cũng tiến hành trích các khoản BHXH và
KPCĐ theo lương phải trả thực tế cho cán bộ cơng nhân viên trong Xí
nghiệp sau khi đã tính tốn xong tiền lương phải trả
Xí nghiệp chỉ trích các khoản BHXH và KPCĐ mà Xí nghiệp khơng
trích BHYT cho cán bộ cơng nhân viên của Xí nghiệp. Điều này là sai với
chế độ kế toán hiện hành của Việt nam, Xí nghiệp nên xem xét vấn đề này
ngay và tìm biện pháp giải quyết cho thích hợp.
Xí nghiệp chỉ có mỗi tiền lương chính cho CBCNV thơi, ngồi ra
khơng có các khoản phụ cấp hay xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh
như : ốm đau, thai sản…
Thêm vào đó nữa là các khoản trích BHXH và KPCĐ có tiến hành
trích nhưng khơng đúng với tỷ lệ quy định của Nhà nước là 15% đối với
BHXH và 2% đối với KPCĐ
Các khoản trích theo lương (BHXH và KPCĐ) chỉ được trích cho
cơng nhân viên sản xuất trực tiếp mà khơng trích cho nhân viên quản lý
phân xưởng (Quản đốc).
+ Về phương pháp tính giá thành :
Xí nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành giản đơn là hồn tồn
hợp lý đối với tình hình thực tế của Xí nghiệp, song trong thực tế Xí nghiệp
cịn thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng do khách hàng mang lại, do vậy
Xí nghiệp nên sử dụng phương pháp giản đơn để tính giá thành cho các sản
phẩm theo kế hoạch của Xí nghiệp cịn sử dụng phương pháp tính giá thành
theo đơn đặt hàng cho các đơn đặt hàng phát sinh trong kỳ hạch tốn để
đảm bảo cơng tác tính giá thành tại Xí nghiệp chính xác và hồn thiện hơn

nữa.
+ Hiện tại, bộ phận kế tốn tài chính của Xí nghiệp sử dụng Bảng kê
số 3 để tính giá thành thực tế nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ xuất.

8


Bảng kê số 3 chỉ sử dụng ở trong Doanh nghiệp có sử dụng giá hạch tốn
trong hạch tốn chi tiết vật liệu.
Bảng kê số 3 được lập trên căn cứ là các NKCT có liên quan tới bên
Nợ các TK 152, 153. Tổng hợp giá trị nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ tồn
đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính ra hệ số giá chênh lệch giữa giá hạch tốn
và giá thực tế.
Cịn Xí nghiệp Gỗ Hà nội sử dụng Bảng kê số 3 mà lại sử dụng giá
thực tế khơng sử dụng giá hạch tốn.
+ Trong cùng một hệ thống kế tốn, Xí nghiệp hạch tốn kế tốn
theo hình thức sổ Nhật ký chứng từ <NKCT>. Hình thức sổ kế tốn NKCT
chỉ thích hợp với Doanh nghiệp có quy mơ lớn, mà Xí nghiệp Gỗ Hà nội
mặc dù có lịch sử phát triển từ rất sớm nhưng quy mơ của Xí nghiệp khơng
lớn (có thể nói là nhỏ nữa), tổng nguồn vốn của Xí nghiệp chỉ xấp xỉ gần 4
tỷ đồng. Cho nên hình thức kế tốn NKCT là khơng thích hợp đối với Xí
nghiệp.
+ Cùng một lúc Xí nghiệp hạch tốn hàng tồn kho (hạch tốn tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm) theo 2 phương pháp là :
phương pháp KKTX và phương pháp KKĐK.
Phương pháp KKTX áp dụng cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính
của Xí nghiệp, cón phương pháp KKĐK áp dụng cho lĩnh vực sản xuất
kinh doanh phụ. Cùng một lúc mà hạch toán 2 phương pháp hạch toán hàng
tồn kho như vậy là rất phức tạp trong cơng tác tập hợp chi phí sản xuất.
+ Phân xưởng Cơ điện là một bộ phận của Bộ phận sản xuất – kinh

doanh phụ nhưng phân xưởng này lại có ảnh hưởng và tác động tới phân
xưởng sản xuất kinh doanh chính nhiều nhất và rõ nét
nhất. Xí nghiệp phân chia như vậy là chưa hợp lý, vì các khoản chi phí phát
sinh ở phân xưởng Cơ điện được tập hợp vào TK 631.1 rồi sau đó lại phân

9


bổ khoản chi phí này cho phân xưởng Mộc theo số giờ cơng sản xuất thực
tế cho sản phẩm hồn thành. Xí nghiệp nên coi phân xưởng Cơ điện là bộ
phận sản xuất kinh doanh chính thì đúng hơn và dùng TK 627.3 để tập hợp
chi phí sản xuất chung phát sinh tại phân xưởng này .
+ Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh phụ hạch toán hàng tồn kho
theo phương pháp KKĐK thì dùng TK 631 để tập hợp chi phí. Đầu kỳ và
cuối kỳ phải kết chuyển vào TK 154 kinh doanh dở dang của bộ phận SXKD phụ” > mà Xí nghiệp lại giữ
nguyên các khoản chi phí ở TK 631 cả phần dư đầu kỳ và cuối kỳ và cả các
khoản chi phí phá sinh trong kỳ.
+ Lương trả cho cơng nhân viên sản xuất trong Xí nghiệp là trả theo
hình thức lương sản phẩm <hợp lý> nhưng tính lương sản phẩm theo giờ
cơng sản xuất thực tế là chưa hợp lý và các sản phẩm đồ Gỗ địi hỏi phải
hồn thành trong một khoảng thời gian tương đối dài, cho nên trả lương
theo giờ (không hợp lý vì nó ngắn q so với chu kỳ sản xuất của Xí
nghiệp). Nên trả lương theo ngày cơng sản xuất thực tế .
+ Lương cho nhân viên phân xưởng được trả theo lương của bộ phận
gián tiếp thì khơng kích thích được sự đơn đốc, quản lý, kiểm tra theo dõi
được sát sao của Quản đốc đối với phân xưởng mình chịu trách nhiệm theo
dõi. Nên trả lương theo sản phẩm thì mới kích thích họ được.
+ Phần lương tập hợp cho chi phí sản xuất chung (TK 627) của Xí
nghiệp được tập hợp lại và phân bổ cho vào chi phí sản xuất cho từng phân

xưởng theo tiêu thức phù hợp. Nhưng phần chi phí chung này khơng bao
gồm chi phí trích BHXH, BHYT và KPCĐ từ lương của nhân viên phục vụ
phân xưởng.
+ Máy móc thiết bị của Xí nghiệp chủ yếu là cũ và lạc hậu nên ln
ln Xí nghiệp phải chi ra những khoản chi phí để sửa chữa theo định kỳ

10


Xí nghiệp nên dùng TK 335 để tập hợp các khoản chi phí đã được dự
tốn trước <chi phí sửa chữa> chứ không nên để cuối kỳ phát sinh ra thì
mới tập hợp và phân bổ hết cho cả quý và để đảm bảo nguyên tắc chính xác
và nguyên tắc thận trọng trong kế tốn .
+ Kỳ tính giá thành sản phẩm, kỳ tập hợp chi phí sản xuất theo định
kỳ là quý
Giá xuất NVL được Xí nghiệp tính theo phương pháp bình quân gia
quyền (bình quân cả kỳ dự trữ) cho nên cuối quý mới tính được giá xuất
nguyên vật liệu, mới biết được các khoản chi phí phát sinh trong kỳ, cuối
quý mới biết được giá thành đơn vị của sản phẩm. Việc cung cấp thông tin
cho Giám đốc Xí nghiệp khơng kịp thời được theo u cầu của quản lý
kinh tế. Nên thay kỳ hạch toán bằng tháng thì tốt hơn.
+ Mặc dù Xí nghiệp có Báo cáo kế tốn tài chính được lập theo đúng
định kỳ nhưng Xí nghiệp vẫn thiếu 1 trong 4 Báo cáo kế tốn quan trọng
nhất đó là Báo cáo lưu chuyển tiền tệ .

11


III – HỒN THIỆN KẾ TỐN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP GỖ HÀ NỘI

Qua nghiên cứu thực trạng công tác hạch tốn chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà nội. Phân tích ưu điểm,
nhược điểm dựa vào lý luận chung và tiến hành đối chiếu với Xí nghiệp,
em xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến góp phần hồn thiện cơng tác hạch
tốn chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm để Xí nghiệp tham khảo
như sau:
Ý kiến 1 :
Xí nghiệp Gỗ Hà nội từ khi hình thành, tồn tại và phát triển cho tới
tận ngày hôm nay, đã phải trải qua nhiều bước biến chuyển thăng trầm của
lịch sử, có lúc thuận lợi và cũng có lúc gặp khó khăn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Cho đến bây giờ, Xí nghiệp đã và đang tồn tại
và phát triển theo thời gian, điều đó chứng tỏ Xí nghiệp Gỗ Hà nội đã thực
hiện đúng đắn Quy định và chế độ của Nhà nước ban hành, đóng góp một
phần nhỏ bé của mình vào sức mạnh của một nền kinh tế quốc dân của cả
nước .
Những gì tốt đẹp và đúng đắn đã làm được của Xí nghiệp thì Xí
nghiệp nên cố gắng duy trì nó.
Hiện tại, Xí nghiệp phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế
là rất phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình. Theo cách thức
phân loại này, cho ta thấy được tỷ lệ từng loại chi phí theo nội dung kinh tế
của nó ; vì sản phẩm của Xí nghiệp là các mặt hàng đồ mộc, cho nên tỷ
trọng chi phí về nguyên vật liệu là rất đáng kể trong tổng chi phí sản xuất
của Xí nghiệp để từ đó có biện pháp thích hợp để tiết kiệm chi phí sản xuất
cho Xí nghiệp.

12


Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là theo từng phân xưởng và cụ thể
là theo từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm. Cịn đối tượng tính giá thành

là sản phẩm hồn thành ở giai đoạn cơng nghệ cuối cùng là hoàn toàn hợp
lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất của Xí nghiệp.
Sổ sách của kế toán là tương đối đầy đủ và đúng đắn theo quy định
của Bộ tài chính ban hành. Kế tốn viên trong phịng kế tốn được đào tạo
và kinh nghiệm lâu năm trong nghề, độc lập thực hiện từng nhiệm vụ trong
từng phần hành kế tốn của mình ; đồng thời kết hợp với các bộ phận khác
trong phịng kế tốn, tạo nên một hệ thống kế tốn hoạt động có hiệu quả.
Hình thức trả lương theo số giờ công sản xuất thực tế của người công
nhân <Định mức giờ cơng sản xuất được phịng Kỹ thuật Kế hoạch – Vật
tư của Xí nghiệp xác định cho từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm>. Trả
lương theo hình thức này sẽ khuyến khích người lao động trong sản xuất,
nâng cao được trách nhiệm của công nhân đối với sản phẩm của mình làm
ra.
Xí nghiệp có sáng kiến khi xác định đối tượng tính giá thành sản
phẩm là theo lơ, mẻ, đơn đặt hàng sản xuất sản phẩm ngoài các sản phẩm
hồn thành. Nó thể hiện sự hợp lý trong cơng tác tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm.
Xí nghiệp có bộ máy kế tốn đơn giản và gọn nhẹ bảo tất cả các khâu trong cơng tác kế tốn nhưng vẫn đảm bảo thơng tin
cung cấp cho Giám đốc. Định kỳ, Xí nghiệp tính tốn và lập các Báo cáo
tài chính theo đúng quy định của chế độ kế tốn ban hành>.
Xí nghiệp có bộ máy quản lý kinh tế <đó là các phịng ban chức năng
của Xí nghiệp> tương đối hồn chỉnh nhưng gọn nhẹ, trong đó tốt hơn cả là
bộ máy kế tốn tài chính của Xí nghiệp, việc phân cơng trách nhiệm giữa
những người trong bộ máy kế tốn rất rõ ràng, theo từng phần hành cụ thể
và riêng biệt, khơng có sự chồng chéo quyền hạn và chức năng giữa các kế
13


tốn viên, giúp cho bộ máy kế tốn của Xí nghiệp hoạt động có hiệu quả và

cung cấp thơng tin kế tốn cho Giám đốc được chính xác và kịp thời.
Trên đây là những gì Xí nghiệp đã làm được. Để đảm bảo cho bộ
máy quản lý kinh tế nói chung và bộ máy kế tốn nói riêng phát huy được
khả năng cuả mình thì Xí nghiệp Gỗ Hà nội phải tăng cường củng cố và
hoàn thiện hơn nữa những ưu điểm của mình. Có làm được như vậy thì sự
tồn tại và phát triển của Xí nghiệp được bảo đảm một cách chắc chắn hơn.
Ý kiến 2 :
Kỳ tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà nội được tổ chức
tính giá thành sản phẩm theo quý (3 tháng mới tổng hợp số liệu để tính giá
thành). Trong điềukiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì
kỳ tính giá thành này là khơng phù hợp vì như ta đã biết bản chất của kế
tốn là đưa ra những thơng tin kinh tế chính xác, nhanh chóng và kịp thời
để giúp những người có trách nhiệm đưa ra được các quyết định về hoạt
động sản xuất kinh doanh. Những thông tin kinh tế (mà đặc biệt là thơng
tin về kế tốn, về tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm) giúp
cho Doanh nghiệp tổ chức tình hình sản xuất phù hợp, liên tục thực hiện
biện pháp hạ giá thành có hiệu quả, góp phần vào việc tăng lợi nhuận, đẩy
mạnh quy mơ sản xuất – kinh doanh.
Giá thành được tính vào cuối quý nên sang đầu quý sau Ban giám
đốc có thể chưa có những thơng tin cần thiết để ra Quyết định chính xác
nên ảnh hưởng đến tình hình sản xuất chung của tồn Xí nghiệp.
Theo em, việc tính giá thành nên theo từng tháng một để số liệu
được đưa ra kịp thời, nhanh chóng góp phần đẩy mạnh sản xuất chung, hồ
nhịp với sự phát triển nhanh chóng của thị trường cạnh tranh tự do.
Khi mà kỳ tính giá thành sản phẩm được thay đổi từ quý thành tháng
thì kỳ hạch tốn tập hợp chi phí sản xuất của Xí nghiệp cũng phải thay đổi

14



từ quý thành tháng theo để có sự phù hợp giữa các số liệu, vì q trình tập
hợp chi phí sản xuất có mối liên hệ rất mật thiết với q trình tính giá thành
sản phẩm, nó là cơ sở tiền đề cho q trình tính giá thành sản phẩm của Xí
nghiệp. Hay nói cách khác là kỳ hạch tốn kế tốn tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
nên thay đổi từ quý thành tháng là một việc làm hợp lý nhất. Nó khơng
những tính tốn và cung cấp thơng tin kế tốn một cách kịp thời mà cịn
vấn đề theo dõi tình hình xuất ngun vật liệu của Xí nghiệp được nhanh
chóng (vì Xí nghiệp Gỗ Hà nội hiện tại đang tính theo phương pháp bình
qn gia quyền đối với các ngun vật liệu xuất kho; Nếu Xí nghiệp hạch
tốn theo q thì đến cuối q mới tính được giá xuất nguyên vật liệu, cuối
quý mới mới biết được chi phí phát sinh trong kỳ, cuối quý mới biết được
giá thành đơn vị sản phẩm trong kỳ. Một năm trời mới có 4 lần cung cấp
thơng tin kế tốn tổng hợp cho Giám đốc biết nhưng nếu theo tháng thì một
năm sẽ có 12 lần cung cấp thơng tin kế toán tổng hợp cho Giám đốc, để
giám đốc cập nhật được thơng tin kịp thời và thích ứng được với nền kinh
tế thị trường luôn luôn biến động).
Ý kiến 3 :
Trong phần thực trạng hạch tốn chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm của Xí nghiệp, ta thấy Xí nghiệp đã khơng hạch tốn khoản mục
chi phí do thiệt hại trong sản xuất ngừng sản xuất>. Những chi phí về thiệt hại trong sản xuất thực chất đã
được tính vào chi phí sản phẩm của Xí nghiệp. Hạch tốn chi phí về thiệt
hại sản phẩm hỏng và ngừng sản xuất sẽ góp phần phản ánh chính xác giá
thành sản phẩm.

 Đối với các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng :

15



Sản phẩm của Xí nghiệp có 2 loại là : Sản phẩm hỏng có thể
sửa chữa được thành thành phẩm và sản phẩm hỏng không sửa chữa
được.
Với sản phẩm hỏng sửa chữa được thì để sản phẩm hỏng trở thành
thành phẩm, Xí nghiệp phải tốn thêm một khoản chi phí sửa chữa sản phẩm
hỏng. Trình tự tập hợp và phân bổ chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng theo
từng nguyên nhân được hạch toán như sau :

TK152,153,334

TK142

TK 338
Bồi thường

TK821
Tập hợp chi phí

Chi phí bất thường

Sửa chữa sản phẩm hỏng

TK627
Tính vào chi phí SXC

Với sản phẩm hỏng khơng sửa chữa được thì sản phẩm đó coi như bị
loại bỏ. Phần thiệt hại từ những sản phẩm hỏng bị loại bỏ này sẽ được xử lý
theo từng nguyên nhân và được thể hiện qua sơ đồ sau :
TK111,112,152


TK154

TK138
Giá trị phế liệu thu hồi
TK334
16


Bồi thường
Giá trị sản phẩm hỏng
Khơng sửa chữa được

TK821
Tính vào chi phí bất thường
TK627
Tính vào chi phí SXC

 Đối với các khoản thiệt hại về ngừng sản xuất :
TSCĐ của Xí nghiệp chủ yếu là máy móc thiết bị và nhà xưởng cũ,
sử dụng lâu năm rồi cho nên cần phải thường xuyên gia cố và sửa chữa để
còn sử dụng được nữa. Khi tiến hành sửa chữa TSCĐ <máy móc thiết bị>
thì q trình sản xuất của Xí nghiệp tạm ngừng và Xí nghiệp phải bỏ ra
những khoản chi phí để sửa chữa, khoản này được gọi là thiệt hại về ngừng
sản xuất.
Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ của Xí nghiệp Gỗ Hà nội do phân xưởng
Cơ điện đảm trách và thường Xí nghiệp có kế hoạch về sửa chữa lớn
TSCĐ. Cho nên, các khoản chi phí này của Xí nghiệp nên hạch tốn vào
TK335 –Chi phí phải trả, chứ khơng nên hạch tốn vào TK 631.1 như Xí
nghiệp đang làm hiện nay, đảm bảo nguyên tắc thận trọng trong kế tốn.
Q trình hạch tốn thiệt hại về ngừng sản xuất có thể được thể hiện

qua sơ đồ sau:
TK334,338,111,152

TK335

TK627,642

Trích trước chi phí về ngừng
Chi phí thực tế về ngừng

sản xuất theo kế hoạch(1)

17


sản xuất trong kế hoạch(2)

Tiến hành trích bổ sung(3)

Ghi giảm chi phí(4)

Ý kiến 4 :
Bảng phân bổ số 3 “Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ” của Xí
nghiệp tự tạo ra mẫu không theo quy định của Nhà nước. Theo bảng này
(do Xí nghiệp tự làm mẫu) khơng cho biết được tình hình tăng giảm TSCĐ,
tỷ lệ từng loại khấu hao TSCĐ, nguyên giá TSCĐ, số khấu hao đã trích
trong tháng trước, số khấu tăng giảm trong tháng. Cho nên để thực hiện
theo đúng quy định của chế độ kế tốn ban hành và cũng tăng cường cơng
tác quản lý Xí nghiệp nên áp dụng biểu mẫu Bảng kê số 3 “Bảng tính và
phân bổ khấu hao TSCĐ” do Bộ tài chính ban hành. Biểu mẫu này có ở

trong Quyển “ Hệ thống kế toán Doanh nghiệp do Vụ chế độ kế tốn ban
hành. Vì biểu mẫu này phản ánh tất cả những nội dung kế tốn mà Xí
nghiệp chưa phản ánh trong biểu mẫu của mình.
Mặt khác, Xí nghiệp đã chia TSCĐ thành 2 loại là Nhà xưởng và
Máy móc thiết bị, tỷ lệ khấu hao cơ bản tương ứng của 2 loại này là 8% và
6%. Nhưng Xí nghiệp đã gộp cả Nhà xưởng và Máy móc thiết bị ở trong
“Bảng tính khấu hao cơ bản” ở phân xưởng Cơ điện, bộ phận Đời sống, bộ
phận XDCB, bộ phận kinh doanh dịch vụ. Để thấy được tình hình sử dụng
TSCĐ của từng loại TSCĐ ở từng phân xưởng sản xuất thì kế tốn nên sử
dụng biểu mẫu Bảng phân bổ số 3 do Bộ tài chính quy định và ghi vào
bảng này chi tiết cho từng loại TSCĐ ở từng phân xưởng.
Ý kiến 5 :
Với các khoản trích theo lương <BHXH, BHYT, KPCĐ>. Xí nghiệp
Gỗ Hà nội cũng tiến hành trích trên cơ sở là tiền lương phải trả sau khi đã
18


tính được nhưng Xí nghiệp chỉ trích BHXH và KPCĐ mà Xí nghiệp khơng
trích BHYT trên quỹ lương phải trả. Điều này là sai với chế độ kế toán, cho
nên Xí nghiệp phải trích thêm cả khoản BHYT nữa cho CBCNV của Xí
nghiệp.
Mặc dù Xí nghiệp đã trích BHXH và KPCĐ nhưng các khoản trích
theo lương này khơng đúng tỷ lệ theo chế độ kế toán hiện hành là 15%
(BHXH) và 2% (KPCĐ).
Vậy : Để kế tốn của Xí nghiệp Gỗ Hà nội hạch tốn đúng các khoản
trích theo lương thì kế tốn của Xí nghiệp phải tiến hành trích đủ cả 3
khoản phải trả là BHXH, BHYT và KPCĐ. Trong đó đối với từng khoản
trích, tỷ lệ trích phải đúng theo quy định, như : Quỹ BHXH được hình
thành theo tỷ lệ 20% trên tổng quỹ lương (trong đó 15% được tính vào chi
phí sản xuất kinh doanh và 5% được trừ vào thu nhập của người lao động).

Quỹ BHYT được hình thành theo tỷ lệ 3% trên tổng quỹ lương (trong đó
2% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và 1% được trừ vào thu nhập
của người lao động). KPCĐ được hình thành theo tỷ lệ 2% trên quỹ lương
và khoản mục này được tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Ý kiến 6 :
Theo đặc điểm tổ chức sản xuất ở Xí nghiệp thì Xí nghiệp áp dụng
phương pháp tính giá thành theo phương pháp trực tiếp là phù hợp. Nhưng
trong thực tế, Xí nghiệp cịn tiến hành sản xuất theo đơn đặt hàng của
khách hàng mang lại
Để đảm bảo cho công tác tính giá thành được chính xác và kịp thời
thì kế tốn tính giá thành có thể áp dụng như sau : Phân loại sản phẩm sản
xuất theo đơn đặt hàng và sản phẩm không sản xuất theo đơn đặt hàng. Đối
với các sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng thì tiến hành tập hợp chi phí
riêng cho đơn đặt hàng đó. Cịn các sản phẩm sản xuất khơng theo đơn đặt
hàng thì ta tính giá thành theo phương pháp trực tiếp đã và đang sử dụng.
19


Ý kiến 7 :
Hiện tại, Xí nghiệp đang sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá thành thực
tế nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất kho. Theo chế độ kế tốn thì Bảng
kê số 3 chỉ được sử dụng ở trong Doanh nghiệp có sử dụng giá hạch tốn
trong hạch tốn chi tiết vật liệu. Mà Xí nghiệp sử dụng Bảng kê số 3 để
tính giá xuất NVL, CCDC chỉ theo giá thực tế, điềuđó là sai với chế độ kế
tốn Việt nam.
Nếu Xí nghiệp muốn sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá xuất NVL,
CCDC trong hạch tốn chi tiết vật liệu thì Xí nghiệp phải sử dụng giá hạch
tốn để tính tốn, và nếu Xí nghiệp sử dụng giá hạch toán để hạch toán chi
tiết vật liệu thì nó rất phức tạp so với tình hình hạch tốn thực tế vật liệu tại
Xí nghiệp.

Cho nên Xí nghiệp muốn tính giá xuất NVL, CCDC theo giá thực tế
thì khơng sử dụng Bảng kê số 3 được. Muốn vậy, Xí nghiệp nên đăng ký
với Bộ tài chính một biểu mẫu thích hợp (Biểu mẫu này có thể gần giống
bảng kê số 3 nhưng không bao gồm cột giá hạch toán) để hạch toán chi tiết
Vật liệu.
Ý Kiến 8 :
Hình thức kế tốn mà Xí nghiệp đang áp dụng là hình thức Nhật ký
chứng từ (NKCT). Hình thức kế tốn NKCT chỉ áp dụng trong những
Doanh nghiệp có quy mô lớn, số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều,
số lượng tài khoản sử dụng nhiều, yêu cầu quản lý cao và trình độ nhân
viên kế tốn cao và đồng đều. Xét thấy quy mơ của Xí nghiệp không lớn
(tổng tài sản gần 4 tỷ đồng), số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh không
nhiều, tài khoản sử dụng ít, trình độ kế tốn chưa cao, cho nên hình thức
NKCT áp dụng cho Xí nghiệp là chưa hợp lý. Cho nên Xí nghiệp nên áp
dụng hình thức kế tốn Chứng từ ghi sổ (CTGS) là thích hợp nhất, vì hiện
nay Xí nghiệp đang áp dụng kế tốn thủ công (ghi chép bằng tay) mà áp
20



×