Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH IPO VÀ NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.48 KB, 8 trang )

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH IPO VÀ NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. Tình hình thực hiện IPO và niêm yết của các công ty trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
Theo uỷ ban chứng khoán nhà nước, tính đến nay, tổng số vốn hoá của cổ
phiếu trên thị truờng chứng khoán Việt Nam đã lên tới 20tỷ USD chiếm khoảng
31% GDP. Theo xu hướng này và nếu việc phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO)
của 1 loạt doanh nghiệp quy mô lớn diễn ra theo đúng dự kiến ban đầu thì dự
báo đến hết năm 2007 đầu năm 2008 tổng số vốn hoá trên thị trường chứng
khoán Việt Nam chiếm khoảng 40% GDP.
Chỉ tính riêng 7 tháng đầu năm 2007, hai trung tâm giao dịch chứng
khoán đã tổ chức đấu giá lần đầu cho 40 doanh nghiêp, với tổng số vốn gần
451.000.000 cổ phiếu. Trong số đó phải kể đến các công ty lớn như Đạm Phú
Mỹ ,tổng công ty bảo hiểm Việt Nam - Bảo Việt, tổng công ty bảo hiểm dầu khí,
tập đoàn Vincom.
Trên thị trường OTC tính đến nay ước tính có khoảng 350 cổ phiếu và
trái phiếu của hơn 300 doanh nghiệp và ngân hàng thương mại cổ phần… . Với
tổng giá trị vốn hoá khoảng 500.000 tỷ đồng. Như vậy tình hình IPO của Việt
Nam thời gian gần đây diễn ra khá sôi động. Bên cạnh những con số đáng mừng
nói trên là những vấn đề còn tồn tại về IPO chưa được giải quyết hết.
1. Những xu hướng bất cập từ phía nhà đầu tư
Để có được IPO thành công những người tham gia thị trường IPOs nên là
những người đầu tư dài hạn. Cách tiếp cận thông thường sẽ làm các nhà đầu tư
bỏ tiền ra hôm nay với kỳ vọng rằng công ty sẽ phát triển và niêm yết trong
tương lai, và khi đó giá trị mà nhà đầu tư nắm giữ sẽ được tối đa hoá nhờ tính
thanh khoản và giá trị công ty gia tăng. Tất nhiên, các nhà đầu tư hoàn toàn có
quyền lựa chọn mua hay bán cổ phiếu tại bất kỳ thời điểm nào mà lợi ích được
tối đa hoá.
Song thị trưòng IPO Việt Nam có thể nhìn thấy một kịch bản khác. Nhiều
cuộc trò chuyện, tiếp xúc với các nhà đầu tư cho thấy rằng hầu hết trong số họ
đều coi IPO là cơ hội tốt để kiếm tiền bằng cách đoán giá và đợi kết quả. Điều


này có thể được chứng minh bằng một thực tế là ngay sau khi các kết quả được
thông báo, những nhà đầu tư thành công chào bán cổ phiếu với mức giá chỉ cao
hơn một chút, thậm chí thấp hơn mức giá đấu thành công trên các trang web
không chính thức dành cho những giao dịch được gọi là OTC. Xét ở mức độ
nào đó, điều này thể hiện tiềm năng của thị trường hậu IPO. Nhưng nó cũng cho
thấy một thực tế là có quá nhiều nhà đầu tư đăng ký đấu giá mà không hề có ý
định đầu tư. Mục tiêu chớp cơ hội của những người này làm tăng cầu nên điều
đó sẽ chẳng thể nói lên câu chuyện thật về IPO.
2. Bất cập từ phía nhà phát hành
Chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã có từ trước năm
2000 đặc biệt là sau khi Quốc hội đã ban hành luật doanh nghiệp năm 2006. Đó
là một chủ trương lớn, phù hợp và cần thiết với xu thế hội nhập quốc tế, nó thực
hiện đa dạng hoá sở hữu tài sản trong các doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh việc
huy động vốn cho sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn và tài sản, đẩy mạnh nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng
XHCN.
Vấn đề đấu giá cổ phần lần đầu trên thị trường chứng khoán của Việt
Nam, là một công tác đòi hỏi chúng ta phải tập trung thực hiện. Việc này không
tách rời khỏi công tác cổ phần hoá doanh nghiệp.
Một trong những công tác có tầm quan trọng để thực hiện IPO là việc xác
định giá trị doanh nghiệp, kèm theo nó là việc xác định số lượng cổ phiếu (xác
định số cổ phần nhà nước giữ lại là số cổ phẩn ưu đãi bán cho các cổ đông là
cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp số cổ phần bán ra bên ngoài) để
IPO.
Thực hiện việc này cần tập trung chỉ đạo từ chủ trương, đến quá trình
thực hiện của các cấp, bộ, ngành, đặc biệt là các doanh nghiệp tiến hành cổ phần
hoá và ngành chứng khoán. Chúng ta đều biết thị trường chứng khoán hết sức
sôi động và đột biến tăng vọt vào đầu 2007, đến nay thì ngược lại đang trong xu
thế giảm hoặc đang từng bước phục hồi. IPO cũng trong xu thế ấy: có nhiều nhà
nghiên cứu coi đó cũng là quá trình điều chỉnh khó tránh khỏi, thậm chí là cần

thiết trong quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán ở nước
ta.
Nhà nước đang trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
thị trường chứng khoán nói chung và về IPO nói riêng, nhằm từng bước hoàn
chỉnh dần khuôn khổ pháp lý về hoạt động quan trọng này. Song, những văn bản
đó khó tránh khỏi những nội dung cần được sửa đổi bổ sung thay thế dần cho
phù hợp, để tránh thất thoát tài sản của cả nhà nước ở các doanh nghiệp trong
quá trình cổ phần hoá góp phần minh bạch trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
trong quản lý vốn và các hoạt động tài chính của các doanh nghiệp, góp phần
xoá bỏ tình trạng khép kín trong quá trình IPO.
II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty sau khi niêm yết
1. Doanh thu
Doanh thu là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá
hiệu quả hoạt động của công ty. Đối với những công ty sau khi thực hiện IPO và
niêm yết, doanh thu có thể thay đổi khá nhiều. Việc có thêm các đối tác chiến
lược và gia tăng hình ảnh cũng như uy tín của công ty trên thị trường sẽ làm
doanh thu hoạt động của công ty tăng lên đáng kể. Hơn nữa, sau khi cổ phần
hoá và niêm yết nhằm thay đổi cơ cấu vốn và mở rộng quy mô công ty, hoạt
động sản xuất được mở rộng sẽ làm doanh thu tăng đáng kể. Vì thế, qua doanh
thu sẽ có thể đánh giá khá tốt hiệu quả hoạt động của công ty sau khi IPO và
niêm yết so với trước đó.
2. Lợi nhuận
Có thể nói lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất trong
việc đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty. Nếu doanh thu cho ta biết tình
hình sản xuất kinh doanh của công ty thì lợi nhuận gần như cho biết toàn bộ tình
hình hoạt động của công ty. Một công ty có thể có doanh thu rất lớn nhưng lợi
nhuận không cao thì công ty đó không phải là một công ty hoạt động tốt (trừ
trường hợp công ty mới thực hiện mở rộng sản xuất hoặc các công ty trong các
ngành có chu kỳ sản phẩm dài như ngành bất động sản); bởi vì ngay sau doanh
thu là các loại chi phí cho sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là phần thuộc về công

ty, thuộc về những người sở hữu công ty và những người lao động trong công
ty. Vì thế, các công ty luôn cố gắng giảm thiểu tối đa chi phí sản xuất để có
được một mức giá cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường và có được lợi nhuận
cao. Với các công ty cổ phần, hầu hết cổ đông chiến lược của công ty đều là các
nhà cung cấp và nhà tiêu thụ sản phẩm nên có thể làm giảm khá lớn các chi phí,
từ đó làm tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Hơn nữa, với những lợi thế về hình
ảnh và thương hiệu của công ty khi trở thành công ty cổ phần, lợi nhuận của
công ty có thể sẽ tăng lên đáng kể. Vì thế, hầu hết các nhà đầu tư và các chuyên
gia đều cho rằng lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng bậc nhất đối với việc đánh giá
hiệu quả hoạt động của công ty. Với chỉ tiêu lợi nhuận ta có thể tính được 2 tỷ
số đánh giá khả năng sinh lợi của công ty tiếp sau đây.
3. Tỷ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản
Tỷ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) đo lường khả năng sinh lợi
trên mỗi đồng tài sản của công ty. Công thức xác định tỷ số này bằng cách lấy
lợi nhuận ròng sau thuế chia cho tổng giá trị tài sản.
Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường
ROA = ---------------------------------------------------------
Tổng tài sản
ROA: là hệ số tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của
một đồng vốn đầu tư.
ROA cho biết cứ một đồng tài sản thì công ty tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận và ROA đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của công ty. Hệ số này càng
cao thì cổ phiếu càng có sức hấp dẫn hơn vì hệ số này cho thấy khả năng sinh
lợi từ chính nguồn tài sản hoạt động cuả công ty.
4. Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu
Đứng trên góc độ cổ đông, tỷ số quan trọng nhất là tỷ số lợi nhuận ròng
trên vốn chủ sở hữu( ROE) chỉ số này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng
vốn của thường.
Công thức xác định tỷ số này như sau:
Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường

ROE = ---------------------------------------------------------
Vốn cổ phần thường
Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ
phiếu khác nhau trên thị trường. Thông thường hệ số thu nhập trên vốn cổ phẩn
càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn vì hệ số này cho biết cách đánh giá khả
năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi đem so sánh với hệ số thu
nhập trên vốn cổ phần của các công ty khác.
- ROE càng cao thì vốn cổ đông của công ty càng được sử dụng hiệu quả và
ngược lại. Cần chú ý rằng khi vốn chủ sở hữu càng lớn thì ROE càng thấp và
nên so sánh các công ty tương đương về vốn.
- Mức đầu tư hợp lý đối với doanh nghiệp sản xuất chỉ tiêu này phải đạt 20% trở
lên, riêng lĩnh vực tài chính từ 15% trở lên.

×