Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.08 KB, 27 trang )

LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG
ĐƯỜNG BIỂN.
I. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu bằng
đường biển
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng
với sự phát triển của hàng hoá và ngoại thương. Khoảng thế kỷ thứ V trước
công nguyên, vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã ra đời và phát triển,
người ta biết tránh tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán
chuyên chở trên nhiều thuyền khác nhau. Đây có thể nói là hình thức sơ khai
của bảo hiểm hàng hoá. Đến thế kỷ XII thương mại và giao lưu hàng hoá ngày
càng tăng, do thiên tai, tai nạn bất ngờ, cướp biển,... gây ra làm cho giới thương
nhân lo lắng nhằm đối phó với các tổn thất nặng nề có khả năng dẫn tới phá sản
họ đã đi vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình gặp phải rủi ro gây ra
tổn thất toàn bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu hành trình gặp phải rủi ro
gây ra tổn thất toàn bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu hành trình may
mắn thành công thì ngoài vốn vay họ còn phải trả chủ nợ một khoản tiền lãi với
lãi suất rất cao. Lãi suất cao và nặng nề này có thể coi là hình thức ban đầu của
phí bảo hiểm.
Năm 1182 ở Lomborde - Bắc Ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hóa đã ra đời
trong đó người bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực hiện nội dung đã
ghi trong đơn. Từ đó hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm đã ra đời với tư cách
như là một nghề riêng độc lập.
Năm 1468 tại Venise nước Ý đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải đã
ra đời. Sự phát triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển
mạnh mẽ của bảo hiểm hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ước quốc tế liên
quan đến thương mại và hàng hải như: Mẫu hợp đồng bảo hiểm của Lloy’d
1776 và luật bảo hiểm của Anh năm 1906, công ước Brucxen năm 1924, Hague
Víby năm 1986, … Các điều khoản về bảo hiểm ngày càng hoàn thiện.
Ở Việt Nam, thời kỳ đầu nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực
thuộc Bộ Tài chính kinh doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt Nam nay
là Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Công ty Bảo hiểm Việt Nam được thành


lập ngày 17/12/1964 theo quyết định số 179/ CP và chính thức đi vào hoạt động
ngày 15/1/1965.
Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu cho công ty Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc trong trường hợp mua theo giá
FOB, CF và bán theo giá CIF với mục đích là học hỏi kinh nghiệm.
Từ năm 1965 – 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm đối
ngoại trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo Việt có
quan hệ tái bảo hiểm với Liên Xô, Ba Lan, Triều Tiên. Trước đó Bảo Việt chỉ có
quan hệ bảo hiểm với Trung Quốc.
Từ năm 1975 – 1992 Bảo Việt đã triển khai thêm nhiều nghiệp vụ và mở
rộng phạm vi hoạt động. Từ chỗ chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với một số nước xã
hội chủ nghĩa cũ thì trong thời kỳ này Bảo Việt đã có quan hệ đại lý, giám định,
tái bảo hiểm với hơn 40 nước trên thế giới. Năm 1965 khi Bảo Việt đi vào hoạt
động, Bộ tài chính đã ban hành quy tắc chung về Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu bằng đường biển. Gần đây, để phù hợp với sự phát triển thương mại và
ngành hàng hải của đất nước, Bộ tài chính đã ban hành quy tắc chung mới – Quy
tắc chung 1990 cùng với luật hàng hải Việt Nam. Quy tắc chung này là cơ sở
pháp lý chủ yếu điều chỉnh các vấn đề về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
bằng đường biển.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh
mẽ, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định thu hút vốn
đầu tư nước ngoài thì việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm là một
đòi hỏi thiết thực. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách trên, Nghị định 100/CP của
Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành ngày
18/12/1993 đã tạo điều kiện cho nhiều công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu
phát triển với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, nghiệp vụ bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vẫn là một nghiệp vụ truyền thống mà các nhà bảo hiểm Việt
Nam vẫn duy trì và phát triển với các biện pháp, chiến lược, sách lược giành
thắng lợi trong cạnh tranh.
II. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.

1. Khái niệm bảo hiểm.
1.1. Định nghĩa.
Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho
người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo
hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc
cho người thứ ba. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho
người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người
tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc
bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo
hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm
1.2. Phân loại bảo hiểm.
• Bảo hiểm xã hội
• Bảo hiểm thất nghiệp
• Bảo hiểm y tế
• Bảo hiểm thương mại
• Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển
• Bảo hiểm thân tàu thuỷ
• Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
• Bảo hiểm hoạt động tham dò và khai thác dầu khí
• Bảo hiểm cháy
• Bảo hiểm tiền gửi, tiền cất giữ trong kho và trong quá trình vận
chuyển
• Bảo hiểm trong nông nghiệp
• Bảo hiểm vật chất các phương tiện vận tải
• Bảo hiểm trách nhiệm
• Bảo hiểm con người
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là nghiệp vụ bảo hiểm mà đối tượng là
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Ðây là một trong số các nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hải đã hình thành và phát triển từ rất sớm.
2. Vai trò của ngành bảo hiểm.

Bảo hiểm nói chung mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực
- Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước
tổn thất và rủi ro xảy ra. Rủi ro dù do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt
hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống sản xuất kinh doanh của các cá
nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt hại về người.
Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người
tham gia bảo hiểm nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất
kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình thường. Tác động này phù hợp
với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người tham gia.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con
người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt lỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi
doanh nghiệp. Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ
cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất
rủi ro đã xảy ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích
cực để thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các
biện pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa
cháy; cùng ngành giao thông làm các biển báo, các đường lánh nạn...
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách nhà nước. Với quỹ bảo
hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ trợ cấp
hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi
phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy ngân sách nhà nước không phải
chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, tất nhiên
trừ trường hợp tổn thất có tính thảm hoạ, manh tính xã hội rộng lớn.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được số lượng vốn
khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài chi trả trợ cấp hay bồi
thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước
thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường
bảo hiểm quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển thông qua

hình thức phân tán rủi ro và chấp nhận rủi ro – hình thức tái bảo hiểm giữa các
công ty các nước. Như vậy, bảo hiểm vừa góp phần phát triển quan hệ kinh tế
giữa các nước, vừa góp phần ổn định thu chi ngoại tệ cho ngân sách.
- Bảo hiểm thu hút một số lượng lớn số lao động nhất định của xã hội, góp
phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo hiểm
cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành
bảo hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm trong nước của quốc gia.
- Cuối cùng bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế
xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển..
Do đặc điểm của vận tải đường biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá
được chuyên chở là rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển càng được khẳng định rõ nét:
Một là: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay
nhiều quốc gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không
trực tiếp áp tải được hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia
bảo hiểm cho hàng hoá. Ở đây, vai trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với
người được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng
hoá vượt quá sự kiểm soát của con người. Hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu lại
được vận chuyển bằng đường biển do đó phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu bằng đường biển.
Ba là: Theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về
tổn thất của hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn
đường biển, rất nhiều rủi ro các hàng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngay
cả các công ước quốc tế cũng quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho
người chuyên chở. Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu.
Bốn là: Hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hóa có giá trị

cao, những vật rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt
hại do các rủi ro có thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
trở thành một nhu cầu cần thiết.
Năm là: Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do
đó việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển đã trở thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại
thương.
Như vậy việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong thương mại
quốc tế.
III. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển
1. Đặc điểm và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình xuất
nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
1.1. Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường
biển.
- Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua hợp đồng
giữa người mua và người bán với nội dung về số lượng, phẩm chất, ký mã hiệu,
quy cách đóng gói, giá cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tầu và trả cước phí, phí
bảo hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh toán…
- Trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có sự chuyển giao quyền sở hữu
lô hàng hoá xuất nhập khẩu từ người bán sang người mua.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển qua biên giới quốc gia,
phải chịu sự kiểm soát của hải quan, kiểm dịch… tuỳ theo quy định, thông lệ
của mỗi nước. Đồng thời để vận chuyển ra ( hoặc vào ) qua biên giới phải mua
bảo hiểm theo tập quán thương mại quốc tế. Người mua tham gia bảo hiểm có
thể là người mua hàng ( người nhập khẩu ). Hợp đồng bảo hiểm thể hiện quan
hệ giữa người bảo hiểm và người mua bảo hiểm đối với hàng hoá được bảo
hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm thì phải chuyển nhượng lại cho người
mua hàng, để khi hàng về đến nước nhập, nếu bị tổn thất có thể khiếu nại đòi

người bảo hiểm bồi thường.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng các phương tiện
khác nhau theo phương thức vận chuyển đa phương tiện trong đó có tàu biển.
Người vận chuyển hàng hoá đồng thời cũng là người giao hàng cho người mua.
Vì vậy người chuyên chở là bên trung gian phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm
sóc hàng hoá đúng quy cách, phẩm chất, số lượng từ khi nhận của người bán
đến khi giao cho người mua hàng.
Quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên, trong đó có
bốn bên chủ yếu là: Người bán ( bên xuất khẩu ), người mua ( bên nhập khẩu ),
người vận chuyển và người bảo hiểm. Vì vậy, cần phải phân định rõ ràng trách
nhiệm của các bên liên quan và khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá các bên
liên quan phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua ba loại
hợp đồng: Hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển và hợp đồng bảo hiểm. Ba
hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm các bên liên quan và
trách nhiệm này phụ thuộc vào điều kiện giao hàng của hợp đồng mua bán.
Theo các điều kiện thương mại quốc tế “ INCOTERMS 2000” có 13 loại điều
kiện giao hàng, được phân chia thành 4 nhóm E, F, C, D.
Nhóm E : Giao hàng tại cơ sở của người bán – quy ước người bán đặt hàng
hoá dưới quyền định đoạt của người mua ngay tại xưởng của người bán.
Nhóm F: Cước vận chuyển chính chưa trả - quy ước người bán được yêu cầu
giao hàng hoá cho một người chuyên chở do người mua chỉ định (nhóm điều
kiện F gồm: FCA, FAS và FOB);
Nhóm C: Cước vận chuyển chính chưa trả - quy ước người bán phải hợp
đồng thuê phương tiện vận tải, nhưng không chịu rủi ro về mất mát hoặc hư lại
đối với hàng hoá hoặc các phí tổn phát sinh thêm do các tình huống xảy ra sau
khi đã gủi hàng và bốc hàng lên tàu. ( nhóm điều kiện C gồm: CFR,CIF, CPT,
CIP )
Nhóm D: Nơi hàng đến, tức người bán giao hàng tại nước người mua –quy

ước người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro cần thiết để đưa hàng hoá tới địa
điểm quy định ( nhóm điều kiện D: DAF, DES, DEG , DDU, DDP)
Trong đó thông dụng nhất là điều kiện FOB( giao hàng lên tàu ), điều
kiện CFR ( tiền hàng và cước phí ), điều kiện CIF( Tiền hàng, phí bảo hiểm và
cước phí).
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tuỳ theo từng điều
kiện cụ thể mà có thể thêm cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có những
điều kiện giao hàng mà người bán không có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và
mua bảo hiểm cho hàng hoá. Như vậy, tuy bán được hàng nhưng dịch vụ vận
chuyển và bảo hiểm sẽ do người mua đảm nhận (điều kiện FOB). Có trường
hợp giao hàng theo điều kiện mà ngoài việc xuất khẩu được hàng hoá, người
bán còn có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và bảo hiểm cho số hàng hoá (điều
kiện CIF ). Thực tế, các tập đoàn kinh tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất,
vận chuyển, bảo hiểm,… khi giao hàng theo điều kiện nhóm C và D, bên cạnh
việc bán hàng còn giành cho họ dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm cho số hàng
đó. Vì vậy, nếu nhập khẩu hàng theo điều kiện FOB, hay điều kiện CFR thì sẽ
giữ được dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm, hay chỉ dịch vụ bảo hiểm. Nếu trong
hoạt động nhập khẩu, bán hàng theo giá CIF, người bán cũng giữ được dịch vụ
vận chuyển và bảo hiểm. Như vậy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành
vận tải đường biển và ngành bảo hiểm của quốc gia đó.
Nói chung trách nhiệm của các bên liên quan được phân định như sau:
• Người bán: Chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng,
loại hàng, bao bì đóng gói, thời hạn tập kết hàng ở cảng; thủ tục hải quan, kiểm
dịch. Nếu bán theo giá CIF, người bán phải mua bảo hiểm cho hàng hoá, sau đó
ký hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người
mua.
• Người mua: Có trách nhiệm nhận hàng của người chuyên chở theo đúng số
lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp đồng mua bán, lấy
giấy chứng nhận kiểm đến, biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, biên
bản hàng hoá hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên. Nếu sai lệch về số lượng và chất

lượng với hợp đồng mua bán nhưng đúng với hợp đồng vận chuyển thì người
mua bảo lưu quyền khiếu nại đối với người bán. Nếu phẩm chất, số lượng sai
lệch so với biên bản giao hàng thì người mua căn cứ vào hàng hư hỏng đổ vỡ do
tàu gây nên mà khiếu nại người vận chuyển. Ngoài ra người mua có trách
nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá hoặc nhận từ người bán chuyển nhượng lại.
• Người vận chuyển: Có trách nhiệm chuẩn bị phương tiện chuyên chở theo yêu
cầu kỹ thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng quy định
theo hợp đồng vận chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế thì tàu chở hàng
cũng phải được bảo hiểm. Người vận chuyển còn có trách nhiệm cấp vận đơn
cho người gửi hàng. Vận đơn là một chứng từ vận chuyển hàng trên biển do
người vận chuyển cấp cho người gửi hàng nhằm nói lên quan hệ pháp lý giữa
người vận chuyển, người gửi hàng và người nhận hàng. Có nhiều loại vận đơn,
nhưng ở đây cần quan tâm đến vận đơn hoàn hảo và vận đơn không hoàn hảo.
• Người bảo hiểm: Có trách nhiệm đối với hàng hoá được bảo hiểm. Chẳng hạn,
kiểm tra chứng từ về hàng hoá, kiểm tra hành trình và bản thân con tàu vận
chuyển… Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người bảo
hiểm có trách nhiệm tiến hành giám định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ
ba nếu họ gây tổn thất này.
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng
đường biển.
2.1. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển là
những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng hoá
và phương tiện chuyên chở.
Rủi ro hàng hải gồm nhiều loại:
• Theo nguyên nhân, rủi ro hàng hải bao gồm rủi ro do thiên tai, rủi ro do tai nạn
bất ngờ trên biển và rủi ro do hành động của con người. Ngoài ra còn rủi ro do
lúc xếp dỡ hàng, hàng bị nhiễm mùi lây bẩn,…
- Rủi ro do thiên tai: Là những hiện tượng do thiên tai gây ra như biến động, bão,
lốc, sét, thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được.

- Rủi ro do tai nạn bất ngờ trên biển: Mắc cạn, đắm, bị phá huỷ, cháy, nổ, mất
tích, đâm va với tàu hoặc vật thể khác không phải là nước, phá hoại của thuyền
trưởng, thuỷ thủ trên tàu.
- Rủi ro do hành động của con người: Ăn trộm, ăn cắp hàng, mất cướp, chiến
tranh, đình công, bắt giữ, tịch thu…
• Theo nghiệp vụ bảo hiểm: rủi ro thông thường được bảo hiểm, rủi ro không
được bảo hiểm và rủi ro được bảo hiểm trong trường hợp đặc biệt.
- Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Bão, lốc, sóng thần, mắc cạn, đâm
va …
- Rủi ro không được bảo hiểm: Các hành vi sai lầm cố ý của người được
bảo hiểm, bao bì không đúng quy cách, vi phạm thể lệ xuất nhập khẩu hoặc vận
chuyển chậm trễ làm mất thị trường, sụt giá…

×