Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.56 KB, 19 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ
I - SỰ TẤT YẾU KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
HƯU TRÍ
1 . Sự phát triển của bảo hiểm xã hội trên thế giới.
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động , mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ , góp phần
đảm bảo an toàn xã hội ”.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là sự phát triển của lực lượng
sản xuất trên thế giới, BHXH ngày càng trở thành nhu cầu thường xuyên, tự
nguyện và chính đáng của người lao động. Ngay từ thế kỷ XVI những người
nông dân ở vùng Anper đã nhận thấy để trợ cấp cho trường hợp một số người bị
ốm đau hay tai nạn. Họ đã thành lập hội tương hỗ với cách thức mỗi người đều
trích ra một phần thu nhập để đóng góp chung vào một quỹ, phòng khi có ai bị
đau ốm hay tai nạn thì dùng quỹ đó để giúp đỡ. Hình thức sơ khai này được
BHXH phát triển dần nên, phạm vi được mở rộng ra để có thêm nhiều người
tham gia, mở thêm các loại trợ cấp bổ sung.
Nguyên tắc chung trong hoạt động bảo hiểm này là gắn liền quyền lợi được
hưởng với nghĩa vụ đóng góp. Tuy vậy BHXH chỉ thực sự trở thành một lĩnh
vực hoạt động mang tính chất và ý nghĩa xã hội sâu sắc từ đầu thế kỷ XIX. Quá
trình đó gắn liền với sự phát triển sản xuất công nghiệp, của nền kinh tế thị
trường và thị trường sức lao động mà trong đó có quan hệ chủ thợ trong lao
động được trở nên phổ biến.
Một bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm trong lịch sử được hình thành ở
nước Anh vào năm 1819. Bộ luật này có tên là bộ luật nhà máy. Nội dung cơ
bản trong luật này là bảo hiểm cho lao động trong các xưởng thợ. Ở một nước
công nghiệp khác, nước Đức đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau vào năm 1883,
luật tai nạn lao động năm 1884 và luật bảo hiểm người già và người tàn tật do
lao động vào năm 1889. Sự ra đời các bộ luật chính thức đầu tiên đó phản ánh
một yêu cầu tất yếu khách quan của BHXH.


Sang thế kỷ 20, hầu hết các nước trên thế giới mà trước hết là các nước công
nghiệp phát triển ở một trình độ cao đều ban hành và thực hiện điều luật về
BHXH đối với người lao động. Với sự phát triển như vậy, BHXH đã trở thành
một lĩnh vực mang tính quốc tế rộng lớn. Hiện nay có hơn 160 quốc gio trên thế
giới thực hiện BHXH
2 . Cơ sở hình thành chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH :
Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải lao động để tạo ra
của cải vật chất. Nhưng cùng với thời gian, con người sẽ bị già đi, sức khoẻ của
họ bị giảm sút không còn khả năng lao động, không còn khả năng tự đáp ứng
nhu cầu cho cuộc sống.Lúc đó khoản thu nhập mà họ có thể sinh sống hoặc là
do tích góp trong quá trình lao động hoặc do con cháu nuôi dưỡng... Những
nguồn thu nhập này không thường xuyền và phụ thuộc vào điều kiện của từng
người. Để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp
họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, nhà nước đã thực hiện chế độ
BHXH hưu trí.
Vậy bảo hiểm hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho người lao động
khi hết tuổi lao động. Người lao động tạo ra thu nhập để nuôi sống chính họ
trong quá trình lao động. Quá trình này diễn ra ngay trong các nhà máy, xí
nghiệp, đơn vị kinh tế, hành chính sư nghiệp trong lĩnh vực quốc doanh và
ngoài quốc doanh. Trong quá trình đó, họ cống hiến sức lao động để xây dựng
đất nước bằng cách tạo ra thu nhập cho xã hội và cho cả chính họ nữa. Do đó
đến khi họ không còn khả năng lao động nữa thì họ phải được sự quan tâm
ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí hàng tháng phù
hợp với số phí BHXH mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động. Nguồn
trợ cấp này tuy ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan trọng và cần
thiết giúp cho người về hưu ổn định về mặt vật chất cũng như tinh thần trong
cuộc sống, tạo cho họ có thêm điều kiện để cống hiến cho xã hội những kinh
nghiệm quý báu trong quá trình lao động sản xuất mà họ đã tích luỹ được nhằm
xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh hơn.
Bảo hiểm hưu trí bảo đảm quyền lợi cho người lao động giúp họ tự bảo vệ

mình khi hết tuổi lao động, tự lo cho chính mình một cách hợp lý nhất nhờ vào
việc họ đã cống hiến sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất cho xã hội
trước đó. Người lao động chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối nhỏ
khi còn đang làm việc trong một thời gian nhất định. Đến khi hết tuổi lao động
phải nghỉ việc họ sẽ có được sự bảo đảm của xã hội làm giảm bớt phần nào khó
khăn về mặt tài chính do thu nhập thấp vì không còn lao động được nữa.
Như vậy bảo hiểm hưu trí là một chế độ mang tính xã hội hóa cao được thực
hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nói cách khác, chế độ bảo hiểm hưu trí lấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho
các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm
cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn thể hiện mối quan
tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội .
3 . Vai trò của chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH
Trong một hệ thống BHXH thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau. Số
lượng các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào trình độ
phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH trong từng thời kỳ của mỗi
nước. Tuy nhiên, trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ chính
thể hiện đặc trưng những mục tiêu chủ yếu của hệ thống bảo hiểm xã hội. Một
trong những chế độ đó là chế độ hưu trí hay chế độ bảo hiểm tuổi già cho người
lao động .
Có thể khẳng định rằng chế độ hưu trí là một trong những chế độ bảo hiểm
được thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội. Theo quy
định của ILO thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là chế độ
chính sách khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống bảo hiểm
xã hội. Theo thống kê của ILO, trong tổng số 163 nước trên thế giới có hệ thống
BHXH (1993) thì có tới 155 nước có thực hiện chế độ hưu trí chiếm tỷ lệ
95,1%. Điều đó chứng tỏ chế độ hưu trí rất được các nước cũng như người lao
động quan tâm
Trên thực tế, tất cả những người tham gia vào BHXH đều có mong muốn
tham gia vào chế độ hưu trí. Trong phần đóng góp phí BHXH nói chung thì

phần chủ yếu là đóng cho chế độ này. Đối với hệ thống BHXH thì hoạt động
của ngành này tập trung chủ yếu vào chế độ hưu trí cho người lao động. Điều
này được thể hiện cụ thể trong các hoạt động nghiệp vụ của bảo hiểm xã hội.
Chẳng hạn ở Việt Nam, chế độ hưu trí có vị trí đặc biệt quan trọng với người
tham gia bảo hiểm xã hội. Chế độ này được quy định và đưa vào thực hiện ngay
từ khi hệ thống BHXH mới được thành lập ( 1947). Theo các quy định hiện
hành thì tỷ lệ giành cho bảo hiểm hưu trí và các chế độ khác có liên quan tới
người về hưu là 75% ( phí bảo hiểm là 20% tổng quỹ tiền lương thì giành tới
15% đóng cho hưu trí ). Do đó thu cho chế độ hưu trí cũng chiếm tỷ trọng chủ
yếu trong tổng thu của bảo hiểm xã hội, khoảng từ 60-80%. Tương tự như vậy
trong tổng chi của BHXH thì việc chi cho chế độ này cũng rất lớn. Trong những
năm gần đây tiền chi cho chế độ hưu trí chiếm khoảng trên 70% tổng chi cho
BHXH . Như vậy, hoạt động thu chi của chế độ hưu trí có ảnh hưởng sống còn
tới toàn bộ hoạt động của hệ thống bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định
của BHXH nói riêng cũng như cả xã hội nói chung.
Một vấn đề nữa đặt ra là xu hướng già hoá của dân số thế giới dẫn đến số
lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy rõ vai trò ngày càng
quan trọng của chế độ hưu trí trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Hơn nữa, chế độ bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của
Nhà nước, người sử dụng lao động đối với người lao động, và nó còn thể hiện
đạo lý của dân tộc đồng thời còn phản ánh trình độ văn minh của một chế độ xã
hội .
4. Tác dụng và đặc trưng của bảo hiểm hưu trí :
4.1 Tác dụng của bảo hiểm hưu trí :
Bảo hiểm hưu trí giúp đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ về hưu
do đó giúp cho xã hội ổn định và gắn bó. Ngày nay, tỷ lệ người già trong dân số
càng tăng do đó ổn định đời sống cho bộ phận này là rất quan trọng. Mặt khác,
khi nghỉ hưu người lao động được sống thoải mái hơn và an nhàn hơn. Đối với
người có trình độ có khả năng họ lại tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh nghiệm
cho thế hệ sau.

Người lao động trong quá trình lao động họ có được sự bảo đảm chắc chắn
về phần thu nhập khi họ nghỉ hưu, làm cho họ yên tâm chú ý, không lo nghĩ về
điều kiện sống khi nghỉ hưu do đó có thể làm việc với năng suất và chất lượng
cao hơn.
Giúp người lao động tiết kiệm cho bản thân mình ngay trong quá trình lao
động để bảo đảm đời sống khi nghỉ hưu, giảm bớt phần nào gánh nặng cho
người thân, gia đình và xã hội .
4.2 Đặc trưng của chế độ bảo hiểm hưu trí :
Bảo hiểm hưu trí là một chế độ BHXH dài hạn nằm ngoài qúa trình lao
động. Đặc trưng này thể hiện cả trong quá trình đóng và hưởng bảo hiểm hưu
trí. Người lao động tham gia đóng phí BHXH trong một thời gian khá dài. Thời
gian đó liên tục đủ lớn theo quy định thì sẽ đủ một trong những điều kiện để
được hưởng bảo hiểm hưu trí. Khi đã đủ các điều kiện thì người lao động sẽ
được hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ lúc về hưu cho đến
khi người lao động chết. Quá trình hưởng này dài ngắn bao nhiêu tuỳ thuộc vào
tuổi thọ của từng người và những người hưởng bảo hiểm hưu trí là những người
đã kết thúc quá trình làm việc của mình mà theo quy định được nghỉ ở nhà và
hưởng lương hưu.
Trong chế độ hưu trí có sự tách biệt giữa đóng và hưởng. Vì đây là một chế
độ nằm ngoài quá trình lao động, cho nên để được hưởng chế độ hưu trí khi về
hưu thì người lao động phải tham gia đóng phí ngày trong quá trình lao động.
Trong suốt quá trình lao động, số tiền người lao động đóng góp vào quỹ bảo
hiểm hưu trí dùng để chi trả lương hưu ( trợ cấp tuổi già ) cho thế hệ trước. Như
vậy có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm
hưu trí, qua đó thể hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít của bảo hiểm .
Phụ thuộc chặt chẽ vào quan hệ sử dụng lao động. Người lao động và người
sử dụng lao động có mối quan hệ với nhau. Người sử dụng lao động muốn ổn
định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc đầu tư cho thiết bị máy
móc hiện đại ,còn phải chăm lo tới đời sống người lao động mà mình đang sử
dụng, tạo cho họ việc làm, đảm bảo cuộc sống cho họ khi hết tuổi lao động bằng

việc đóng BHXH cho người lao động. Từ những tác dụng và đặc trưng trên, quỹ
bảo hiểm hưu trí chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong quỹ bảo hiểm hưu trí. Do
đó bộ phận quản lý quỹ có thể sử dụng phần quỹ bảo hiểm hưu trí nhàn rỗi để
đầu tư sinh lời nhằm ổn định, bảo đảm cân bằng và tăng trưởng quỹ. Từ đó góp
phần thúc đẩy đầu tư tăng trưởng vào nền kinh tế quốc dân, tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động, góp phần hạn chế nạn thất nghiệp hiện nay.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
Hưu trí là một chế độ nhằm bảo đảm thực hiện quyền lợi hợp pháp của công
dân sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Chế độ này nhằm
bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ đã hết tuổi lao động
(không còn khả năng lao động ) về nghỉ hưu an dưỡng lúc tuổi già. Như vậy,
chế độ hưu trí là một chế độ có liên quan đến rất nhiều mặt trong quá trình tổ
chức thực hiện. Do vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu
để đi đến xác lập một chế độ bảo hiểm hưu trí. Sau đây là một số nội dung cơ
bản:
1 . Điều kiện để hưởng bảo hiểm hưu trí.
Độ tuổi hưởng chế độ BHXH dài hạn nói chung và chế độ hưu trí nói riên
đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chi phí của hệ thống chế độ.
Tuổi hưởng chế độ hưu trí có thể được ấn định theo một loạt các cân nhắc như:
- Khả năng làm việc tổng thể của người cao tuổi
- Vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao động
- Khả năng kinh tế của chế độ hưu trí
Điều quan trọng là phải cân đối từ giác độ mức hưởng thoả mãn đóng và chi
phí liên quan đến tuổi thọ bình quân của người cao tuổi. Mặc khác, khi quy định
tuổi về hưu còn phải dựa vào quy luật sinh -lão - tử và điều kiện kinh tế xã hội
của mỗi nước.
Ngoài ra, tuổi nghỉ hưu còn được quy định hạ thấp so với độ tuổi bình quân
đối với những người làm những công việc trong điều kiện lao động và môi
trường nặng nhọc, nguy hiểm đã có ảnh hưởng nhất định làm suy giảm một
phần khả năng lao động so với bình thường hay những người có thể chất yếu

không đủ sức đảm đương công việc .
2 .Thời gian đóng bảo hiểm để được hưởng chế độ hưu trí
Thời gian đóng bảo hiểm hưu trí là tổng số đơn vị thời gian có đóng phí bảo
hiểm để được hưởng chế độ này. Việc quy định thời gian đóng phí BHXH nhằm
xác định sự cống hiến về mặt lao động của mỗi người với xã hội nói chung và
phần đóng góp và BHXH nói riêng. Thời gian đóng BHXH là một trong những
căn cứ để đãi ngộ ( chi trả ) đối với người lao động như theo luật định nhằm bảo
đảm sự công bằng, bình đẳng giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội, thực
hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH .
Việc xác định thời gian đóng phí BHXH được dựa trên căn cứ: độ tuổi về
hưu, tỷ lệ đóng góp , tuổi thọ của những người về hưu, mức được hưởng... tóm
lại tuỳ thuộc vào khả năng tài chính về chế độ hưu trí nói riêng và BHXH nói
chung... Về nguyên tắc nếu xuất phát từ việc đóng BHXH để hình thành quỹ sử
dụng cho chế độ hưu trí thì phải tính đến tổng số thời gian đóng phí BHXH thực
tế. Còn trong trường hợp người lao động làm việc trong những trường hợp đặc
biệt như người lao động làm việc ở nơi độc hại, vùng sâu, vùng xa... được pháp
luật BHXH quy định số thời gian này được làm căn cứ để giảm tuổi đời khi
nghỉ hưu.
Trong các chế độ BHXH bắt buộc, đối với chế độ hưu trí hầu hết các nước
đều quy định điều kiện để được hưởng chế độ phụ thuộc hai yếu tố đó là độ tuổi
xác định và số năm đóng BHXH .
3 . Phí bảo hiểm hưu trí
Cũng như tất cả các chế độ bảo hiểm khác, chế độ hưu trí liên quan đến mức
phí thu cho chế độ này. Trong thực tế có mức thu cho chế độ này được xác định
riêng theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lương dùng để tính BHXH
và bảo hiểm hưu trí. Đối với người lao động làm công ăn lương thì thu nhập này
thường là tiền lương. Trong một số trường hợp mức thu cho chế độ hưu trí
không xác định riêng mà được gộp chung vào một mức thu gọi là thu BHXH
nói chung. Ở Việt Nam hiện nay thực hiện thu chung một mức phí BHXH cho
tất cả các chế độ BHXH đang được thực hiện mặc dù trong đó có định lượng

phần giành cho các chế độ bảo hiểm dài hạn bảo hiểm hưu trí.
Trong trường hợp như vậy phí hưu trí được xác lập riêng thì phí được xác
định theo công thức sau đây:
P = T * TBH * L
Trong đó : P : Mức phí đóng cho chế độ hưu trí
TBH : Tỷ lệ thu BHXH tính theo thu nhập hay tiền lương
L : Tiền lương hay thu nhập dùng để tính phí BHXH và chế
độ hưu trí
T : Tỷ lệ % đóng BHXH hưu trí nói chung
Việc xác định phí nộp cho chế độ hưu trí riêng ra hay gộp chung như nói ở
trên tuỳ thuộc điều kiện và mô hình hay phương thức tổ chức hoạt động ở từng
nước. Nếu phí cho chế độ hưu trí được xác định riêng thì sẽ tạo thuận lợi cho
việc tính toán và quản lý cho chế độ này, nhất là khi nó được mở rộng ra những
khu vực khác nhau mà người lao động ở đó có hình thức thu nhập không đồng
nhất như thu nhập bằng tiền. Tách riêng như vậy cũng tạo ra sự linh hoạt hơn
cho người tham gia chế độ này.
Tuy nhiên, nếu tách riêng như vậy cũng có nghĩa là các chế độ khác cũng
được tách riêng ra điều này làm cho hoạt động quản lý BHXH nói chung phải
phức tạp hơn. Còn trong trường hợp không xác định riêng mức thu phí cho từng
chế độ thì có thể công việc quản lý ít phức tạp hơn nhưng lại phức tạp khi phải
xác định phí đóng cho bảo hiểm khi áp dụng cho người lao động có các hình
thức thu nhập khác nhau.
4 . Mức hưởng hay tiền lương hưu
Mức hưởng là số tiền mà một người về hưu nhận được hàng tháng kể từ khi
nghỉ hưu. Hiện nay đang có những quan điểm khác nhau về mức hưởng. Về cơ
bản có hai quan điểmm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng tiền lương hưu là
để bảo đảm mức sống tối thiểu của người nghỉ hưu theo tiêu chuẩn sống của
quốc gia. Còn theo quan điểm thứ hai thì lại là tiền lương hưu phải có giá trị bảo
đảm cho người về hưu có mức sống cao, thậm chí trên mức trung bình của xã
hội. Sự khác nhau này tất nhiên sẽ dẫn đến mức đóng tương ứng trước khi được

hưởng cũng khác nhau.
Trong thực tế, khuynh hướng nào cũng có lý khi giải thích những nếu xét về
mức sống của người về hưu và đặt trong quan hệ với sự phát triển và ý nghĩa về
sự hấp dẫn của BHXH đối với người lao động thì khuynh hướng thứ hai có sức
thuyết phục hơn. Những dù là mức hưởng được xác định theo quan điểm nào thì
vẫn phải đảm bảo yêu cầu có tính nguyên tắc là tiền lương hưu phải thấp hơn
tiền lương khi làm việc.
Tiền lương được tính theo công thức sau: LH = T * L
Trong đó: LH : Tiền lương hưu được hưởng
T : Tỷ lệ % dùng để tính lương hưu
L : Tiền lương hay thu nhập dùng để tính lương hưu
Ngoài ra, tuỳ theo luật pháp của từng nước về chế độ này mà người nghỉ hưu
được hưởng thêm các quyền lợi như trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, hay đối với
những người lao động nghỉ việc chưa đủ tuổi để hưởng chế độ hưu hàng tháng
cũng nhận được trợ cấp một lần và ngoài lương hưu hàng tháng, người nghỉ hưu
còn được bảo hiểm y tế do quỹ BHXH đài thọ , khi chết gia đình được hưởng
chế độ tử tuất.

×