Tải bản đầy đủ (.pdf) (300 trang)

Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng ứng dụng cho việt nam (sách tham khảo)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.89 MB, 300 trang )


BA Cơ CHẾ

thị trường, nhà nước
và cộng đồng
ỨNG DỤNG CHO V IỆ T NAM

ĐẠI sứ QUÁN PHÁP TÀI TRỢ





Mã số:

34 (V)04
CTQG-2004


Đ Ặ N G KIM SƠN

BA Cơ CHẾ

thị trường, nhà nước
và cộng đổng
ỨNG DỤNG CHO V I Ệ T NAM




(Sách tham khảo)



NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Hà Nội-2004


M Ụ C LỤC
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

7

LỜI GIỚI THIỆU

9

LỜI NÓI ĐẦU

11

I.

BA C ơ C H Ế ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ XÃ HỘI

22

1.

Khái niệm cơ chế thị trường, cơ chế nhà nước và cơ chế
cộng đồng

22


2.

Bản chất hoạt động của ba cơ chế

24

3.

Tính khách quan của “ba bàn tay”

32

4.

Cơng cụ, biện pháp đặc trưng cho từng cơ chế

37

5.

Phương thức điều chỉnh quan hệ xã hội của các cơ chế

44

6.

Hai mật của các cơ chế

61


7.

Sự thất bại của các cơ chế

139

8.

Bám giữ cơ chế cũ, sự chuyển đổi méo mó

149

9.

Đa dạng hố cơ chế và quá trình phát triển song hành

154

10.

Sự chuyển giao và điều chỉnh tự nhiên giữa ba cơ chế

157

11.

Sự phát triển hài hoà giữa các cơ chế trong quá trình tiến hố
xã hội


181

12.

Lựa chọn cơ chế thích hợp

202

13.

Úng dụng lý thuyết cơ chế trong hoạt động thực tiễn

216

II.

CẢI THIỆN KẾT CẤU C ơ CHẾ Ở VIỆT NAM

254

1.

Bối cảnh phát triển các cơ chế của Việt Nam

254

2.

Khiếm khuyết của sự phối hợp nhà nước, thị trường và cộng
đồng ở Việt Nam


268

3.

Phát triển cơ chế theo kịch bản khác nhau

276

4.

Một số đề xuất về vận hành các cơ chế trong giai đoạn phát
triển mới

286

PHỤ LỤC

294

TÀI LIÊU THAM KHẢO

296


LỜI NHÀ X U Ấ T BẢN
Cơ chế, hiểu theo nghĩa chung nhất, là cách thức theo đó một quá trình được thực
hiện. Trong lĩnh vực kinh tế, cơ chế kinh tế được hiểu là tổng thể các yếu tố có mối
quan hệ chế ước, tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành của hệ
thống kinh tế, tạo thành động lực điều tiết dẫn dắt nền kinh tế phát triển.

Cơ chế mang tính khách quan được con người nhận thức, vận hành. Cơ chế vận
hành đúng là cơ chế có sự thống nhất giữa nhân tố khách quan và chủ quan. Ở mỗi
giai đoạn khác nhau có những cơ chế điều chỉnh khác nhau, phụ thuộc vào những
điều kiện khách quan và khả năng nhận thức chủ quan của con người.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người đã từng thử nghiệm và
vận hành các quan hệ kinh tế - xã hội bằng những cơ chế khác nhau. Những thập kỷ
gần đây, với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ,
tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mỏ rộng, các quốc gia trong khi
tìm cho mình một chiến lược phát triển để có thể vượt lên nhanh, đã rất chú ỷ đến vấn
đề cải cách, đổi mới cơ chế. Thực hiện công cuộc "cải tổ", "đổi mới", "cải cách", một
số nước xã hội chủ nghĩa đã nhanh chóng chuyển từ mơ hình kế hoạch hố tập trung
sang mơ hình kinh tế thị trường cho phù hợp với đòi hỏi của các quy luật khách quan,
chấp nhận cạnh tranh trong khuôn khổ có sự điều tiết của nhà nước và đặc trưng
phát triển riêng biệt của mỗi nước.
ở nước ta, công cuộc đổi mói do Đảng ta khỏi xướng và lãnh đạo gần 20 năm qua
đã mang lại cho đất nước những biến đổi to lởn trên nhiều lĩnh vực, trong đó đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế được coi là một đặc trưng nổi bật, có ý nghĩa sâu sắc. Những
thành tựu của công cuộc đổi mới đem lại đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, chuyển sang thòi kỳ phát triển mới - đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước.
Chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nưởc theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đầy khó khăn, phức
tạp. Đó là quá trinh nghiên cứu, tìm tịi, sáng tạo khơng ngừng của tồn Đảng, tồn
dân ta, là sự đổi mới có ý nghĩa cách mạng về nhận thức quan điểm, thể chế, chính
sách...
Xuất bản cuốn sách: Ba cơ chế: thị truờng, nhà nuớc và cộng đống, úng dụng
cho Việt Nam, Nhà xuất bản muốn giới thiệu với bạn đọc cơng trình nghiên cứu của
TS. Đặng Kim Sơn, một chun gia nơng nghiệp nhưng có nhiều tâm huyết đi sâu
nghiên cứu vấn đề này.


7


Trên cơ sỏ nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn vận dụng cơ chế ỏ một số nước
trên thế giới và ỏ nước ta, cuốn sách đã đưa ra một cách nhìn riêng về vai trị và đặc
trưng của từng loại cơ chế trong việc điều hành xã hội; ưu, nhược điểm của từng loại
cơ chế, đồng thời nhấn mạnh, trong điều kiện hiện nay cần vận dụng cả ba loại cơ
chế: thị trường, nhà nước và cộng đổng để điều hành quản lý xã hội. Tác giả đã rất
cố gắng trong việc sưu tầm những cứ liệu thực tế về cơ chế xử lý điều hành diễn ra
trong lịch sử và thực tiễn những năm gần đây ỏ một số nước trên thê' giới và ỏ nước ta
làm minh chứng cho những phân tích, nhận định của mình. Cuốn sách củng nêu lên
một số suy nghĩ trong việc ứng dụng để quản lý điều hành xã hội ỏ Việt Nam.
Những cứ liệu lựa chọn dẫn chứng cùng những nhận thức tìm tịi về cơ chế của tác
giả, có thể sẽ được nhiều người chấp nhận, nhưng cũng có thể có những vấn đề cịn
là đối tượng của các cuộc thảo luận trao đổi; mặc dù vậy, để rộng đường nghiên cứu,
cuộn sách được xuất bản dưới dạng Sách tham khảo. Bất luận thế nào, trên hết, đó
là những trăn trỏ tâm huyết của tác giả mong gửi đến bạn đọc những thông tin gợi mỏ
suy nghĩ trong q trình nghiên cứu hồn thiện cơ chế, tạo ra động lực thúc đẩy đất
nước phát triển.
Hy vọng cuốn sách sê được bạn đọc đón nhận và chia sẻ những vấn đề trong nội
dung cuốn sách nêu ra.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc và mong nhận được ý kiến phê bình, đóng
góp bổ sung.

Tháng 11 năm 2004

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

8



Lịi giới thiệu
Tơi đã đọc cuốn sách "Ba cơ chế: thị trường, nhà nước và cộnq đồng, ứng
dụng cho V iệt Nam ” của Đặng Kim Sơn. Từ lâu, tôi vẫn nqhĩ rằng, Đặng Kim
Sơn là một nhà nghiên cứu khoa học còn trẻ tuổi xứng đáng là một người
nghiên cứu khoa học, điều đó rất đánạ q và khơn (Ị phải d ễ thấy. Đặnq Kim
Sơn nqhiên cứu chủ yếu về kinh tế, nhưng không chỉ về kinh t ế mà quan tâm
đến mọi chiều cạnh của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước ta.
Đọc cuốn sách này, một lần nữa, V nghĩ trên đây của tôi được xác nhận và
củng cố. Qua từng trang sách, tôi có niềm thích thú của một người gặp điều
bổ ích mà mình cần, và có niềm vui mừng của một nẹười nhiều tuổi gặp một
tư duy, một trí tuệ, một tấm lòng đáng trân trọng của một người còn trẻ và
nhiều triển vọng.
Trong cuốn sách này, tác giả đ ã sử dụng một hệ thống khái niệm (cơ chế,
cơ c h ế thị trường, cơ c h ế nhà nước, cơ c h ế cộng đồng, sự kết hợp tối ưu giữa
ba cơ chế, và nhiều khái niệm kinh tế, chính trị, x ã hội khác...), đó là những
cơng cụ của nhận thức và thao tác khoa học và thực tiễn của tác giả. Những
khái niệm trong hệ thống khái niệm ấy nói chung là quen thuộc trong giới
nghiên cứu, giới hoạch định chính sách và giới quản lý, song hiện nay, ở nước
ta cũng như trên th ế giới, thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Cách
hiểu của tác giả cuốn sách này là một cách hiểu, mà người đọc có th ể đồng ỷ,
cũng có th ể có chỗ khơng đồng ỷ. Điều ấy thiết nghĩ khơng ngăn trở việc tìm
hiểu sự giãi bày những ý tưởng của tác giả trong các phần của cuốn sách.
Qua nhiều cơng trình nghiên cứu trước đây và qua cuốn sách này, Đặng
Kim Sơn tự th ể hiện là một người rất coi trọng lý luận, luôn cô'gắng vươn lên
sự chuẩn xác và rỗ ràng trong tư duy, nhưng khơng sính học thuật. Khi phân
tích vê từng vấn đề, Đặng Kim Sơn tìm được và nêu ra, trong các hộp của
cuốn sách này, nhiều thí dụ sinh động, có sức thuyết phục của nhiều nước, ở
nhiều thời, và nhất là Đặng Kim Sơn có ỷ thức liên hệ với thực tế V iệ t Nơm ta
một cách thiết thực, như một người trong cuộc ln ln lo toan góp phẩn, dù

nhỏ bé và khiêm tốn, mang lại tiến bộ và thành cơng cho cơng cuộc lớn của
đất nước mình.

9


Điều rất đáng quý của cuốn sách này lù tinh thần tìm tịi, là khát VỌHÍ>
sáng tạo, hướng về phát hiện cái mới cíúng đắn, mạnh dạn đê xuất và đảm
nhận trách nhiệm về chủ kiến riêng của bản thản tác giả.
Người đọc, nhất là các vị học giả, các nhà nghiên cứu, có th ể dễ thấy chỗ
cịn khiếm khuyết của cuốn sách này, và có th ể khơng đồng ỷ, nhiều hay ít,
với tác giả, từ phương pháp luận chung đến nội dung chi tiết của chương này
mục khác. Đó là điều bình thường. Hơn th ế nữa, đó có th ể là một dấu hiệu
đáng hoan nghênh vê sự phong phú có giá trị đặt vấn đê và mở tranh luận
của một cơng trình.
Xin khơng giới thiệu gì thêm về nội dung cuốn sách, nội dung ấy được trình
bày linh hoạt, có sức hấp dẫn, như đang đón chờ người đọc. Chỉ xin được nêu
m ột ỷ nghĩ riêng rằng, vào lúc chúng ta đang tổng kết 20 năm đổi mới và bắt
tay soạn thảo k ế hoạch 5 năm 2006 - 2010, cuốn sách này là một đóng góp
đáng trân trọng vào việc nghiên cứu, đê ra kiến nghị về p hát triển kinh tế, xã
hội ở nước ta.

Ngày 4 - 5 - 2004

----------------------- ---

Trần Việt Phương

10



Lời nói đầu
Có lẽ bàn về vấn để nhà nước, thị trường và cộng đồng là một điều liều
lĩnh và khơng cần thiết vì đã có hàng rừng tài liệu, hàng núi cơng trình, đề
cập đến các lĩnh vực này hàng trăm năm nay nếu khơng nói là hàng nghìn
năm nay. Cuốn sách này không lạm bàn về lý luận mà chỉ đề cập một vài vấn
đề rút ra từ thực tiễn để tìm ứng dụng thiết thực.
Trong các nghiên cứu kinh tế, xã hội xưa nay, người tathường coi thị
trường và nhà nước là những lực lượng chính thúc đẩy và điều hành sự tiến
hố của xã hội lồi người. Các nghiên cứu trong vài thập kỷ gần đây thêm vào
vai trò của thể chế với tư cách là quan hệ giữa con người với nhau và làm
công cụ của hai lực lượng nhà nước và thị trường'. Câu chuyện của cuốn sách
này thử nhìn theo một cách khác, nâng mối quan hệ giữa người với nhau trong
cộng đồng lên thành một lực lượng ngang hàng với nhà nước và thị trường,
nhìn nhận nó như một động lực tham gia thúc đẩy và điều hành sự phát triển
xã hội để có thể thêm một hướng suy nghĩ cho vấn đề thú vị và phức tạp này.
Nhà nước, thị trường và cộng đồng trong sách này được nghiên cứu như
những phương cách điều chình quan hệ xã hội lồi người mà không đi sâu vào
các nội dung khác như tổ chức, thiết chế,...
Khác với khái niệm thể chế khi nói về “thể chế nhà nước”, “thể chế thị
trường” , trong đó, các quan hệ xã hội giữa con người, các quan hệ trong cộng
đồng thường được gọi chung là hoạt động của thể chế bao gồm cả khía cạnh
tổ chức2, cuốn sách này chỉ bàn đến khía cạnh “cơ chế” hoạt động của thị
trường, nhà nước và cộng đồng, với nghĩa cơ chế là cách thức hoạt động, là
phương thức xử lý đặc trưng của nhà nước, thị trường và cộng đồng nhằm
điều chỉnh quan hệ kinh tế, xã hội của con người.
“Cơ chế” dường như một khái niệm trừu tượng, được người ta gán cho mọi
tội lỗi khi xã hội mắc phải những sai phạm trầm trọng và cũng được dùng để
giải thích cho những thành cơng trong xã hội mà ngun nhân mang tính tổng
hợp khó lý giải. Ớ nước ta, rất nhiều sai lầm đã được quy cho cơ chế “ tập

trung - quan liêu - bao cấp” của mơ hình “kinh tế kế hoạch” trước kia. Lại
có nhiều tệ nạn xã hội, méo mó trong kinh tế ngày nay đang bị coi là “mặt

1 Xem CIEM: T h ể chê - cải cách th ể c h ế và p hút triển lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt
N am , Nxb. Thống kê. Hà Nội, 2002.
2 Douglass
North: C ác th ề chế, sự thay đổi th ể ché và hoạt dộng kinh tế, Nxb. Khoa học xã hội
và Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Hà Nội. 1998.

c..


trái của cơ chế thị trường” . Khái niệm “cơ chế” trong những lập luận trên, có
lẽ đúng hơn là nói về “thể chế” (theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới1).
Vì vậy, xin nói rõ rằng: các từ ngữ như “cơ chế” , “cộng đồng”,... sử dụng
trong sách này, không mang ý nghĩa cúa các khái niệm học thuật thône
thường của các tài liệu kinh tế, xã hội kinh điển. Tên gọi “ cơ chế” ở đây chỉ
nêu lên khía cạnh cơng cụ, phương cách, giải pháp để điều chỉnh các quan hệ
giữa các tác nhân trong xã hội. Tên gọi “cộng đồng” trong sách này để chỉ
loại cơ chế quan hệ và xử thế giữa từng cá nhân hoặc giữa các nhóm người
với nhau theo một số quy luật trong xã hội loài người. Cách gọi này tuy có
thể khơng hồn tồn thỏa đáng, xin bạn đọc rộng lịng cho phép trong khn
khổ cuốn sách này.
Vậy “cơ chế” theo nghĩa này là thế nào? và quan trọng hơn là có thể điều
khiển được cơ chế của nhà nước, thị trường và cộng đồng phục vụ cho sự phát
triển của xã hội được hay không? Cuốn sách này trong chừng mực nhất định,
thử bàn về hai câu hỏi trên, câu trả lời có thể đáp ứng phần nào hoặc chưa
thoả mãn người đọc cũng là điều đương nhiên, bởi vì câu chuyện này nói về
sự vận hành khó hiểu của ba “cơ chế” , của ba “bàn tay” đầy uy lực tạo nên
quan hệ xã hội loài người.

Tác giả xin chân thành cảm tạ học giả Trần Việt Phương, giáo sư Đào Thế
Tuấn, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, tiến sĩ Chử Văn Lâm, tiến sĩ Lê Du Phong đã
đọc bản thảo, chân thành góp ý và thẳng thắn phê bình, c ả m thơng với đề tài
viết về một lĩnh vực phức tạp, cuốn sách này có vinh dự được học giả Trần
Việt Phương và giáo sư Đào Thế Tuấn tận tình viết một số ý kiến giới thiệu
khái quát kiến thức tham khảo cho độc giả về các nội dung liên quan. Xin
trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

'■ Theo định nghĩa này, thể ch ế là “ luật chơi” (chính thức và phi chính thức), bao gồm cơ chế thực
thi, và các tổ chức (gắn với hành vi của chúng). Xem N aân hàng T h ế giới: B áo cáo p h á t triển
tl iế ỊỊÌỚi 2 0 0 2 Xâv (lưng T h ể c h ế H ỗ tr ợ T h ị trư ờ n g , Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nôi. 2002.


GIÁO Sư ĐÀO THỀ TUẤN GIỚI THIỆU MỘT sô KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1. Về quan hệ giưa ba khu vực th ê chế: Nhà nước, thị trường và xã hội
dân sự (hay cộng đồng?)
Trên thế giới từ giữa những năm 1970 có xu hướng chuyển từ kinh tế do
các quy tắc quản lý sang kinh tế thị trườno do giá cả điều tiết. Sự chuyển đổi
này do các tổ chức kinh tế quốc tế như Quỹ Tiển tệ Quốc tế (IMF), Ngân
hàng Thế giới (WB) hướng dẫn, gọi là Đồng thuận Washington (Washington
concensus). Tuy vậy, sau 15 năm thực hiện phương hướng này qua các
chương trình ổn định và điều tiết ở các nước đang phát triển, kết quả của việc
tự do hoá rất mâu thuẫn. Bên cạnh các trường hợp thất bại của nhà nước, có
rất nhiều thất bại của thị trường. Thị trường không thể tự điều tiết được. Kinh
nghiệm của các nước Đông Á cho thấy cần phải có một nhà nước mạnh mới
điều tiết được thị trường. Cần một nhà nước kiểu mới, không phải là nhà nước
ban ơn (Providential State) mà là một nhà nước tác nhân của thị trường
(Market actor State). Để giải quyết vấn đề này khơng phải chỉ cần có các cơ
chế mới của nhà nước và thị trường mà phải có các thể chế mới, trong đó có
cả các tổ chức mới.

Lý thuyết kinh tế học thê’ chế mới ra đời chính là để xây dựng các thể chế
có thể giúp giải quyết được quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Do đấy
khơng những nó được các nhà kinh tế học mà cả các nhà quản lý chào đón.
Kinh tế học thể chế mới là cơng trình nghiên cứu tập thể của nhiều nhà kinh
tế học, chủ yếu có R. Coase (giải thưởng Nobel năm 1991), o . Williamson và
D. North (giải thưởng Nobel năm 1993).
Trong q trình phân cơng lại giữa nhà nước và thị trường người ta thấy có
một số việc nhà nước khơng nên làm nữa, nhưng thị trường cũng không làm
được, phải giao cho các thể chế mới: các tổ chức này được xây dựng trên cơ
sở của sự thương lượng, hợp tác, thuyết phục, đại diện cho hành động tập thể.
Các tổ chức này có mặt ở tất cả các cấp, thậm chí cả mức tồn cầu, vì vậy
người ta gọi khu vực này là xã hội dân sự (civil society) hay xã hội công dân
(civic society). Khái niệm xã hội dàn sự chính do C.Mác dùng đầu tiên lúc
phê phán học thuyết của Hegel. Trước đây xã hội dàn sự được hiểu chỉ bao
gồm các tổ chức phi chính phủ nay được hiểu rộng hơn nhiều gồm tất cả các
tổ chức không thuộc nhà nước và thị trường. Gần đây vai trò của xã hội dàn
sự ngày càng được đề cao và nhiều thể chế mới đã ra đời qua các Diễn đàn xã
hội thế giới.


2. Cộng đồng hay xã hội dân sự
Khái niệm cộng đồng thường vẫn được dùng trong khoa học xã hội. Tuy
vậy thường người ta hiểu cộng đồng đã tồn tại lâu đời trong lịch sử, là một
khái niệm khơng có thời gian tính, cịn xã hội dân sự là một hiện tượng hiện
đại.
Vai trò của cộng đồng trong sự phát triển là một đề tài tranh luận trong
khoa học xã hội. Có người cho nó là tích cực, nhưng cũng có người cho là tiêu
cực. Thí dụ trong sự phát triển của làng xã châu Á, ý kiến của các nhà nghiên
cứu về vai trò của cộng đồng làng xã rất màu thuẫn vì có nhiều nơi có những
cộng đồng làng xã chặt chẽ, như ở miển Bắc Việt Nam, nhưng có nơi, làng xã

ít mang tính cộng đồng hơn.
Gần đây người ta cho rằng cộng đồng chỉ có tác dụng tích cực lúc nó tích
luỹ được vốn xã hội (social capital), là các tiêu chuẩn và quan hệ xã hội cho
phép nhân dân có khả năng phối hợp các hành động tập thể. Chính vốn xã hội
đã biến các cộng đồng thành xã hội dân sự. Xã hội dân sự bao gồm các tổ
chức công dân (civic) và xã hội.
3. Tính lịch sử trong phân tích kinh tế, xã hội
Tình hình kinh tế, xã hội của các nước đều thay đổi mạnh trong vài thập kỷ
qua. Các nước xã hội chủ nghĩa cũ đang chuyển từ mơ hình kế hoạch tập
trung sang mơ hình thị trường. Các nước đang phát triển đã thực hiện cuộc
điều chỉnh cơ cấu, cải cách chính sách, kinh tế hướng vào thị trường để cân
bằng ngân sách và cán cân thương nghiệp để phát triển bển vững. Trong các
cuộc cải cách này, vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường đang thay
đổi. Cộng đồng cũng đang phát triển thành các xã hội dân sự hiện đại làm
chức năng hạn chế các tiêu cực của nhà nước và thị trường.
Các thất bại của thị trường và nhà nước (market failure, government
failure) nêu trong cuốn sách này đã được nhiều tác giả tổng kết (Stern N.,
1989). Chính việc chuyển sang xã hội dân sự là biện pháp để khắc phục các
nghịch lý của cộng đồng.


HỌC GIẢ TRẤN VIỆT PHƯƠNG GIỚI THIỆU sơ Lược VẺ THỂ CHÊ
Từ vài thập kỷ nay, ở nước ta và trên thế giới, khái niệm và từ ngữ “thể chế”
ngày càng phổ biến trong hoạt độne kinh tế, xã hội, trong các văn kiện của nhà
nước, trên các phương tiện thông tin đại chúng, và cả trong lời ăn tiếng nói hằng
ngày. Ớ đâu và lúc nào cũng vậy, càng nghĩ đến và càng thúc đẩy công cuộc phát
triển đất nước, thì càng chú ý xử lý vấn đề thể chế.
Nhiều nhà khoa học đã cố gắng nêu ra định nghĩa thể chế, tính chất, nội dung,
phạm vi, các loại hình, tầm quan trọng của thể chế. Ớ đây, xin nhắc lại vắn tắt như
sau:

Quan niệm thông thường về thể chế được vạch rõ trong các cuốn từ điển phổ
thông. Theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2000,
thể chế là: “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải
tn theo (nói tổng qt)”. Quan niệm thơng thường như vậy, tuy khơng thật đầy
đủ, và do đó khơng hồn tồn chuẩn xác, song rất có ích cho nhận thức và hành
động của mọi người.
Quan niệm học thuật về thể chế đương nhiên là phong phú hơn, tinh tế hơn, đa
dạng hơn (tức là có những quan niệm khác nhau). Quan niệm học thuật về thể chế
được số đông độc giả đồng ý hoặc chấp nhận gồm mấy điểm chính sau đây:
1. Thể chế là các luật lệ, quy tắc của một xã hội, từ cấp quốc gia (có khi liên
quốc gia) đến cấp cộng đồng nhỏ nhất, hướng dẫn, khuyến khích, ca ngợi, khen
thưởng (những điều gì đó), lên án, trừng phạt (những điều gì đó), ngăn cấm, ràng
buộc (những điều gì đó), nhờ vậy mà tác động đến cách nghĩ, cách cảm, cách làm,
cách sống (phương Tây thường chỉ nói hẹp hơn, là tác động đến hành vi) của mọi
con người trong chế độ xã hội ấy.
2. Có nhiều loại thể chế và nhiều cách phân loại thể chế. Hai cách phân loại thể
chê' quan trọng nhất là:
Thứ nhất, có loại thể chế tự hình thành (phương Tây gọi là thể chế tự phát, từ
“tự phát” không có sắc thái biểu cảm xấu, mà có nghĩa là “tự thân phát triển”), thí
dụ như thể chế thị trường “tự do”, khơng có sự can thiệp chính trị, kinh tế, xã hội
nào khác ngồi thị trường; lại cịn có loại thể chế được quyết định và bảo đảm (kể
cả đòi hỏi) thực hiện bởi một quyền lực như nhà nước, nhà thờ, cộng đồng làng xã,
cộng đồng dòng họ...
Thứ hai, có loại thể chế nhà nước, từ lập pháp (luật của quốc hội), lập quy (nghị
định, quyết định của chính phủ) đến luật lệ (của chính quyền cấp dưới, về từng


lĩnh vực, ở từng nơi, khơng có giá trị quốc gia, và phải phù hợp với lập pháp, lập
quy), loại thể chế nhà nước này đến nay vẫn giữ vai trị lón nhất, tác động sâu rộng
nhất; lại có loại thể chế phi nhà nước (có khi được gọi là thể chế xã hội, nhưng gọi

thế khơng đúng, vì thể chế nhà nước cũng là một loại thể chế xã hội), thể chế phi
nhà nước rất nhiều và vài thập kỷ nay có tầm quan trọn? ngày càng tăng lên cả
trong thực tiễn và trong lý luận.
3. Thể chế hiểu đầy đủ, theo nghĩa rộng, gồm 3 bộ phận:
Một là, các luật lệ, các quy tắc (kể cả các phong tục, tập quán, chuẩn mực
xã hội). Theo nghĩa hẹp (hiện thơng dụng ở nước ta), thì đây chính là thể chế,
là khái niệm đầy đủ về thể chế. Quả thật như vậy có lẽ là quá hẹp.
Hai là, các tổ chức, mỗi tổ chức là một tập đoàn người được kết hợp với
nhau một cách nhất định, có chức năng xây dựng và bảo đảm thực hiện một
loại thể chế nhất định.
Ba là, các phương tiện và phương pháp mà các tổ chức và các con người
vận dụng để thực hiện các thể chế, và rộng hơn nữa, là bản thân sự thực hiện
các thể chế, với kết quả đúng hay sai, nhiều hay ít, tốt hay xấu. Như vậy, theo
nghĩa rộng nhất, thì thể chế bao gồm cả sự thực hiện và kết quả thực hiện thể
chế.
Có những học giả cho rằng thể chế chỉ là các luật lệ và quy tắc; cũng có
những học giả cho rằng thể chế bao gồm cả ba phần vừa nêu trên đây. Một
nhà khoa học khá nổi tiếng ví một cách hình ảnh rằng nghiên cứu thể chế mà
chỉ nghiên cứu các luật lệ, quy tắc thì chẳng khác nào nghiên cứu máu người
mà tách rời không liên quan tới hệ tim mạch, và toàn bộ cơ thể của con người
(chúng ta biết rằng chỉ một, hai xăng - ti - mét khối máu cũng được quyết
định bởi và cũng biểu hiện rõ ràng ra hàng chục chỉ số về chỗ mạnh và chỗ
yếu, chỗ lành và chỗ bệnh của hầu hết các bộ phận trong cơ thể con người).
4. Trong các khoa học, cho đến nay duy chỉ có kinh tế học có một bộ mơn
tự đặt tên là học thuyết kinh tế thể chế. Nhưng thể chế không chỉ là về kinh tế
(tuy thể chế kinh tế là loại rất quan trọng), mà thể chế bao quát mọi hoạt
động và đời sống xã hội. Từ lâu, nhiều khoa học khác nhau đã nghiên cứu thể
chế. Chính các học giả thuộc học thuyết kinh tế thể chế (cũ và mới) đều công
nhận rằng, dẫu chỉ nghiên cứu thể chế kinh tế, thì đương nhiên chủ yếu là vận
dụng kinh tế học, song cũng phải vận dụng các thành tựu của chính trị học,

luật học, hành chính học, xã hội học, sử học, nhân học, văn hoá học, toán
học, vật lý học, công nghệ thông tin, cùng nhiều ngành khoa học khác. Một
cái nhìn hẹp hịi, thiển cận thì chỉ đạt được nhữne kết quả thiển cận, hẹp hịi
thơi.
16


5.
Về tầm quan trọníỉ của thể chế, đến nay các nhà nghiên cứu, các nhà
cầm quyền, các nhà quản lý và những người dân thường đều thấy thể chế có
tầm quan trọng to lớn, cơ bản, một sô nhà khoa học cho rằng tầm quan trọng
của thể chê là cơ bản nhất, quyết định nhất đối với sự phát triển của một đất
nước, một chế độ xã hội, nhất là vào những bước ngoặt, những thời kỳ thay
đổi về chất (cả bản chất và chất lượng) của một quốc gia.
Tiếp đây sẽ điểm lại vắn tắt sự phát triển của quan niệm về thể chế từ
khoảng 250 năm nay, tức là từ giữa thế kỷ XVIII, trong các học thuyết kinh
tế và tron? đời sống kinh tế của các dân tộc.
Kinh tế học cổ điển (trước đây thường gọi là kinh tế chính trị học cổ điển),
được gợi ý và báo trước bởi những nhà tư tưởng lớn như Locke và Hume, đã
ra đời vào giữa thế kỷ XVIII, với những vị chủ tướng xuất sắc là Smith,
Ricardo, Marshall... Trên nền tảng lý luận và phương pháp luận cùa kinh tế
học cổ điển, vào khoảng thập kỷ thứ 2 và thứ 3 của thế kỷ XIX, đã xuất hiện
kinh tế học tân cổ điển, mà hai đóng góp nổi bật nhất thời ấy là khái niệm
kinh tế cận biên (đầu tư cận biên, giá cận biên, lợi nhuận cận biên...) và việc
sử dụng rộng rãi các công thức, các mô hình tốn vào kinh tế. Hai nhà kinh tế
tân cổ điển hoạt động từ thời ấy, đến nay vẫn hay được nhắc đến là Walras và
Pareto. Từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XXI này, kinh tế học tân cổ điển
từng thời gian vẫn có những bước tiến triển, và hiện nay vẫn đang là lý luận
và phương pháp luận giữ vị trí ưu trội trong kinh tế học, đặc biệt là trong trào
lưu được mang tên “trào lưu chính trị của kinh tế học”.

Cần nói ngay rằng các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đều có biết
đến vấn đề thể chế, nhiểu người có nghiên cứu và viết về thể chế, thí dụ tiêu
biểu là Adam Smith đã có cơng trình rất hay và sâu về thể chế, chứ không
phải là người chỉ đề xướng bàn tay vơ hình của thị trường. Tuy nhiên, sự
thật không ai chối cãi là kinh tế học cổ điển và kinh tế học tân cố điển đã
xem nhẹ vấn đề thể chế, không chú trọng đúng mức đến thể chế, khơng dành
cho thể chế vị trí và tầm quan trọng đích đáng.
Sở dĩ như vậy là vì kinh tế học cổ điển, và nhất là kinh tế học tân cổ
điển, có ba đặc điểm nổi bật sau đây:
1. Phương pháp luận là cá nhân, lấy tác nhân kinh tế cơ bản là từng con
người. Nói rõ hơn, đó là “con người kinh tế” vốn có trong mỗi con
neười, “con người kinh tế” có bản chất là: dự báo giỏi, phản ứng nhanh,
điều chỉnh tốt, hợp lý hoá, và hướng tới tối ưu hố. Do đó, việc từng con
người ln ln theo đuổi lợi ích cùa riêng mình, thơng qua “bàn tay vơ
hình” của thị trường, sẽ dưa đến sự hợp lý hoá xã hội. Một phương pháp
luận như vậy tất nhiên dành
VI m u.
2 - BCCTTNN&CĐ

ĐẠI H Ọ C Q UỐC G ia h à n ò i
rRUNG TÁM THÔNG TIN THƯ VIÊN

.V'J*7 AỊ-M H

17


2. Điển hình của mơ hình kinh tế học tân cổ điển là mơ hình thị trường cạnh
tranh thuần khiết và hồn hảo (tuyệt đối khơng có độc quyền, cũng khơng có
yếu tố hạn chế cạnh tranh), trong các hoạt động kinh tế hồn tồn khơng có

chi phí giao dịch (nói cách khác, chi phí giao dịch bằng khơng (0).
3. Kinh tế học tân cổ điển cường điệu đến mức nhiều khi gần như tuyệt đối hoá
các nhân tố vật chất (hoặc vật thể) của sản xuất, chung quy lại là lao động
(cơ bấp) và vốn (dưới các hình thức khác nhau, kể cả đất đai và tài neuyên
thiên nhiên khác cũng được coi là những loại vốn).
Đương nhiên, các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phải không biết
đến các nhân tố như giáo dục, đào tạo, phân công lao động, tổ chức và quản lý,
khoa học và công nghệ... nhưng họ đã xem nhẹ những nhàn tố ấy, mà họ cho là
nhân tố ngoại sinh, chứ không phải nhân tố nội sinh của kinh tế.
Theo sự tóm tắt thơ thiển, nhưng khơng đến nỗi sai lạc trên đây, thì quả là
khó hiểu rằng một lý luận như vậy mà lại giữ được vị trí ưu trội trong kinh tế học
hàng thế kỷ, cho đến thời đương đại. Từ lâu, giới kinh tế học một mặt công nhận
những thành tựu hiển nhiên của kinh tế học tân cổ điển, song mặt khác đã vạch rõ
rằng nó quá xa đời sống thực tế và bất lực khơng giải thích được có sức thuyết
phục ngun nhân của thành quả kinh tế khác nhau giữa các nước, nguyên nhân
của sự phát triển, sự chậm phát triển và sự thối triển, đặc biệt là khơng giải thích
được những bước ngoặt, những thay đổi về chất của các nền kinh tế.
Quả thật các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đã có sự mù qng, đó
khơng phải là sự mù qng của người kém trình độ, khơng biết nhìn, khơng biết
phân tích, mà là sự mù qng của hệ thống và chân trời lý luận. Đã theo (thậm chí
đã đề xướng) hệ thống ấy và ở trong chân trời ấy, thì người giỏi cũng khơng nhìn
thấy những gì ở ngồi hệ thống, ngồi chân trời của mình.
Từng có nhiều lý luận, nhiều học thuyết kinh tế ra đời và phát triển, khác nhiều
hoặc thậm chí đối lập hẳn với kinh tế học cổ điển và kinh tế học tân cổ điển. Nổi
tiếng nhất, có giá trị nhất là kinh tế học C.Mác vào giữa và nửa cuối thế kỷ XIX,
tiếp đó là kinh tế học Keynes vào đầu thập kỷ thứ 3 của thế kỷ XX. Ở đày khơng
phải là chõ nói về C.Mác và Keynes, chỉ xin nêu lên rằng: Có những cơng trình
nghiên cứu và cả những cuốn sách phổ cập đã kê ra hàng mấy chục vấn đề kinh tê
lớn và vừa, mỗi vấn đề lại lần lượt trình bày các quan điểm của kinh tế tân cổ điển,
quan điểm kinh tế C.Mác, quan điểm kinh tế Keynes, và phân tích so sánh ba quan

điểm ấy.
Liên quan đến học thuyết kinh tế thể chế, đáng giới thiệu là một số nhà
kinh tế thể chế và sử kinh tế đã khẳng định rất có căn cứ và lý lẽ rằng C.Mác
là nhà kinh tế đầu tiên đã nghiên cứu sâu và có phát hiện mới về các thể chế


kinh tế và các thể chê liên quan đến kinh tế, có người dứt khốt đặt vị trí lịch
sử của C.Mác là nhà tiền bối của học thuyết kinh tế thể chế, cá cũ và mới.
Căn cứ của họ là những thành tựu khoa học của C.Mác về vai trò của lực
lượng sản xuất và các nhân tố toàn diện hợp thành lực lượng sản xuất; về vai
trò của quan hệ sản xuất, đặc biệt là của chế độ sở hữu và chê độ phàn phối
(tức là những thể chế kinh tế rất cơ bản); về quan hệ (lúc phù hợp, lúc mâu
thuẫn) giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về mối tương tác giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (tức là những thể chế chính trị, tư tưởng,
vãn hố, xã hội).
Đương nhiên, cần nhấn mạnh ràng phương pháp luận của kinh tế học
C.Mác khác hẳn phương pháp luận của kinh tế học thể chế, đó là hai hộ
thống, hai chân trời lý luận khác nhau, đưa đến những kết quả khác nhau.
Ngoài kinh tế học C.Mác và kinh tê học Keynes, cũng còn nhữne học
thuyết, những trường phái kinh tê khác, đều có ý định vượt quá và thay thế,
từng phần hoặc toàn bộ kinh tế học tân cổ điển, bổ khuyết những thiếu sót
của kinh tế học tân cổ điển. Đáng kể hơn cả, có lẽ là “lý thuyết tăng trưởng
mới”, nội sinh hố tiến bộ khoa học cơng nghệ vào kinh tế, và học thuyết
kinh tế thể chế, nêu bật vai trò rất to lớn, nhiều khi quyết định của các thể chê
và sự thay đổi thể chế trong thành quả của các nền kinh tế.
Theo cách gọi thông dụng, học thuyết kinh tế thể chế cũ ra đời ở Mỹ vào
thập kỷ thứ 2 và thứ 3 của thế kỷ XX, với những nhà khoa học nổi tiếng là
Veblen, Mitchell và nhất là Commons. Học thuyết này được báo trước và gợi
ý rất nhiểu bởi “trường phái lịch sử” trong kinh tế học ở Đức đầu thế kỷ XX.
Người xuất sắc nhất của trường phái lịch sử Đức là Gustav Schmoller, năm

1926 đã được Schumpeter đánh giá là “cha đẻ” của học thuyết kinh tế thể chế
Mỹ. Còn học thuyết kinh tế thể chế mới thì ra đời vào thập kỷ thứ 7 của thế
kỷ XX ở Mỹ và một số nước khác, từ đó phát triển đến nay. Những học giả
nổi bật của học thuyết này là North, Williamson, Thomas, Weingast... v ề học
thuyết kinh tế thể chế, nhất là học thuyết kinh tế thể chế mới, xin nêu tóm tắt
mấy điểm:
Phương pháp luận của học thuyết kinh tế thể chế mới là cố gắng thực hiện
một sự cân đối thích đáng giữa cá nhân (từng con người) với cộng đồng (các cấp,
các loại), giữa phân tích vi mơ, trung mô và vĩ mô. v ề cá nhân tùng con người,
do coi trọng các thể chế kinh tế, xã hội, nên con người của học thuyết kinh tế thể
chế mới khôns phải là con người kinh tế (homo - economicus), mà là con người
xã hội (homo r sociologicus), phong phú hơn, tồn diện hơn con nsười kinh tế.
Đó là chỗ học thuyết kinh tế thể chế mới khác với kinh tế học tân cổ điển và
chừng mực nào gần hơn với kinh tế học Keynes và kinh tế học C.Mác.
19


Một số nhà n°hiên cứu cho rằng phương pháp luận của học thuyết kinh tế
thể chế mới tuy cố gắng giữ cân đối giữa cá nhân và cộng đồng, song vẫn
nặng về cơ sở cá nhân hơn, đó là chỗ nó gần với kinh tế học tân cổ điển và xa
với kinh tê học Keynes và kinh tế học C.Mác.
Học thuyết kinh tế thể chế mới, như cái tên của nó, đi sâu nghiên cứu các thể
chế và có nhiều phát hiện, nổi bật là vể năm phạm trù thực tế và lý luận sau đây:
1. Sở hữu và chế độ sở hữu (với cả hai tư cách là thể chế thuần tuý kinh tế
và thể chế pháp lý). Chế độ sở hữu có nhiều loại, song chủ yếu là sở hữu
tư nhân.
Chú trọng nghiên cứu sở hữu là một điểm khác biệt lớn giữa học thuyết
kinh tế thể chế mới với kinh tế học cổ điển và kinh tế học tân cổ điển,
những lý luận này mặc nhiên coi sở hữu kinh tế là sở hữu tư nhân và
không nghiên cứu gì sở hữu cả, ngay đến người nổi tiếng nhất của kinh

tế học cổ điển là Adam Smith cũng vậy.
Một thành tựu quan trọng của việc nghiên cứu về sở hữu là sự hiểu biết
mối quan'hệ giữa người chủ sở hữu và người đại diện (gọi là “lý luận về
đại lý”), có những hệ quả thiết thực trong hoạt động kinh tế.
2. Do chú trọng đến sở hữu mà học thuyết kinh tế thể chế mới phát hiện và
nghiên cứu sâu về chi phí giao dịch các loại, điểu trái ngược với kinh tế
học tân cổ điển coi chi phí giao dịch bằng khơng (0).
Nói vắn tắt, chi phí giao dịch là chi phí phát sinh khi những chủ sở hữu
khác nhau cung ứng cho nhau sản phẩm hoặc dịch vụ (qua mua bán, vay
mượn, cầm cố), hoặc chuyển nhượng, mua bán sở hữu với nhau. Những sự
trao đổi như vậy đòi hỏi các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức phải có
thơng tin, tốt nhất là thông tin cần và đủ, tức là không thiếu, không thừa; chi
phí để có thơng tin (cũng là một loại chi phí giao dịch) có thể rất cao.
3. Chế độ sở hữu và chi phí giao dịch thúc đẩy sự nghiên cứu của học thuyết
kinh tế thể chế mới về các loại hợp đồng, bởi lẽ hợp đồng là thể chế kinh tế
rất phổ biến, gắn liền với sở hữu, giao dịch và chi phí giao dịch.
4. Học thuyết kinh tế thể chế mới đã xem trọng nghiên cứu các tổ chức, tức
là mặt tổ chức của thể chế, đặc biệt trong vài thập kỷ gần đây, từ đó có
những thành quả nghiên cứu quan trọng về nhà nước, tổ chức chính phủ,
nền hành chính và cải cách hành chính, các tổ chức phi chính phủ, các
tổ chức quốc tế...
20


5. Học thuyết kinh tế thể chế mới không nghiên cứu thể chế trong trạng
thái tĩnh, mà trong trạng thái độne, đặc biệt nghiên cứu sự thay đổi thể
chế, nguyên nhàn, tiến trình và hệ quả của sự thay đổi thể chế, nhất là
tác động của sự thay đổi thể chế đối với công cuộc phát triển các nền
kinh tế các quốc gia.
Cũng như đối với các học thuyết kinh tế khác, sự tóm tắt trên đây là thơ

thiển, rất không đủ, chỉ là sự giới thiệu rất lướt qua.
Học thuyết kinh tế thể chế mới đã có những thành tựu lý luận và thực tiễn
quan trọng, song cũng có những giới hạn rõ rệt mà chính nhiều nhà khoa học
nổi tiếng của học thuyết ấy đã công nhận và phân tích. Cũng nên nêu lên nhận
xét rằng cho đến nay, trong tất cả các học thuyết kinh tế của lồi người, chưa
có học thuyết nào thành cơng như hứa hẹn.
Nếu chỉ nói một điều về giới hạn của học thuyết kinh tế thể chế mới, mà
tạm gác những vấn đề về bản chất và nguyên tắc phương pháp luận, thì điều
đó có lẽ như sau: coi nhẹ thể chế là cái sai lớn, còn quá cường điệu thể chê là
cái lầm to.
Ở đây, một lần nữa chúng ta gập vấn đề mức, thường liên hệ chặt với vấn
đề chất. Triết học, khoa học và thực tiễn của loài người cho chúng ta nhận
thức rằng: nhiều khi mức quan trọng khơng kém gì chất, mức và chất là một
cặp sinh đôi trong sự phát triển của thiên nhiên, xã hội, kinh tế và con người.
Một điều đáng chú ý cần được nhấn mạnh là: cải cách thể chế và phát triển
kinh tế, xã hội ở các loại nước khác nhau và ở nước ta đã không chỉ dựa vào
học thuyết kinh tế thể chế mới, mà đã cố gắng vận dụng các thành quả tích
cực của nhiều học thuyết kinh tế, ở nước ta thì đặc biệt chú trọng vận dụng
kinh tế học c. Mác, cũng như vận dụng nhiều khoa học có liên quan, như
khoa học về nhà nước, hành chính học, xã hội học,...

21

.


I. BA C ơ C H Ê Đ IỂ U C H ỈN H Q U A N H Ệ X Ã H Ộ I
1. Khái niệm cơ c h ế thị trư ờ n g, cơ ch ê n hà nước và cơ
ch ê cộng đồng
Adam Smith đặt tên “bàn tay vơ hình” cho uy lực của thị trường tự động

điều tiết tài nguyên, tạo nên của cải xã hội. Maynard Keynes đặt tên “bàn tay
hữu hình” cho các hoạt động của nhà nước điều hành chính trị, duy trì ổn
định xã hội. Ngồi ra, trong xã hội cịn có một bàn tay thứ ba "bán vơ hình”
của quan hệ cộng đồng có sức mạnh điều chỉnh các quan hệ giữa người với
người. Ba “bàn tay” này là ba thế lực chính điều chỉnh hành vi, điều hành sự
vận động và tiến hố của xã hội lồi người. Chúng vận hành thơng qua những
cơ chế đặc trưng.
Giải thích các mô thức của việc quản lý giao dịch tạo nên kinh tế gắn kết
phức tạp và đa dạng của thế giới hôm nay, Hilton Root đã nêu ra “ba cơ cấu
chuẩn tắc của sự trao đổi kinh tế” là cộng đồng, tơn ti trật tự và thị trường.
Root xác định:
• Nguyên tắc của quan hệ cộng đồng dựa trên trách nhiệm đối với cộng
đồng và uy tín cá nhân,
• Tơn ti trật tự dựa trên kế hoạch và mệnh lệnh, phát triển mạnh trong
những tổ chức quản lý theo chiều dọc, trong những xã hội thay thế giao
dịch tài chính bằng dịch vụ,
• Thị trường định đoạt bởi thương lượng giữa người mua và người bán,
tính tốn dựa trên thơng tin tổng hợp của giá c ả ' .
Peter H. Calkins, trong “Chiến lược chuyển đổi sang một Trật tự Thế giới
mới cho năm thế giới Nông thôn”, đã đưa ra quan điểm về nguyện vọng của
loài người hướng tới ba cực là mục tiêu của trật tự thế giới mới. Đó là trục
phúc lợi vật chất của thị trường, trục xã hội của nhà nước và trục tinh thần,
đạo đức của “quan hệ có đi, có lại” . Ba trục này chụm lại với nhau tạo thành
một không gian ba chiều, và theo Calkins thì các cộng đồng, các quốc gia
trên thế giới trong những thời điểm nhất định, đều nằm đâu đó trong khơng
gian này. Các nước cơng nghiệp theo cơ chế thị trường nằm trên vị trí cao của
trục vật chất. Các nước xã hội chủ nghĩa theo kinh tế kế hoạch đã từng nằm ớ
mức cao của trục xã hội. Những cộng đồng thổ dân và các nước “thế giới thứ
ba” nằm ở điểm cao của trục đạo đức hình thành trên “quà cáp và sự có đi, có
1 Xem Hilton Root. Sách chưa xuất bản, http://iisem h assv.state.gov/posts/vnl/wwwhirctavn.html



lại”. Xuất phát từ giả định về “sự giới hạn của tài nguyên sinh thái trên trục
vật chất và xung đột tiềm năng giữa tự do cá nhân và luật và trật tự trên trục
xã hội” tác giả kết luận rằng: hầu hết các bối cảnh kinh tế thế giới đều bị phát
triển lệch lạc, thiên về thị trường và nhà nước1.
Nếu sự nhìn nhận của Root chủ yếu từ góc dộ quản lý kinh tế, nhằm đánh
giá khả năng thông tin và ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia giao
dịch để đảm bảo cam kết và thực hiện các hợp đồng của mình trong tương lai,
nếu cách diễn giải của Calkins nhàm giải thích các định chế hoạt động và xu
hướng phát triển của các cộng đồng, các quốc gia, các nền kinh tế, thì trong
cuốn sách này, ba cơ chế được xem xét dưới một góc độ khác. Đó là những
cơng cụ điều chỉnh các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội nói chung của con
người, hoạt động chi phối của chúng thể hiện qua việc điều hành trật tự, hoạt
động xã hội; quản lý kinh tế, điều phối tài nguyên; giải quyết màu thuẫn,
xung đột; định hướng phát triển, và nhiều hoạt động kinh tế - xã hội khác...
Tác động điều chỉnh của các cơ chế được thực hiện dựa trên ba hoạt động là
định danh, thông tin và thưởng phạt.
Trong sách kinh điển về nghiên cứu thể chế2, Douglass c. North đã xem
xét một cách tỉ mỉ và khoa học các hình thức vận động của thể chế (với nghĩa
là các hình thức giới hạn mà con người tạo ra để hình thành nên quan hệ qua
lại của mình) trong hoạt động kinh doanh của thị trường và hoạt động chính
trị của nhà nước. Trong khuôn khổ nghiên cứu cơ chế của cuốn sách này,
khơng bàn đến vấn đề tổ chức. Các hình thức tổ chức chỉ được xem xét dưới
góc độ những tác nhân tham gia các giao dịch xã hội. Ví dụ, cũng là các tổ
chức nhà nước nhưng khi tìm hiểu quan hệ kinh doanh giữa chúng với nhau
thì chúng ta xem xét cơ chế thị trường của chúng; khi xem xét khía cạnh
tranh chấp quyền lực chính trị thì chúng được nhìn nhận dưới khía cạnh cơ
chế nhà nước; trong quan hệ ngoại giao, hợp tác thì được nhìn bằng con mắt
của cơ chế cộng đồng.

Năng lực của ba “bàn tay” diều chỉnh các quan hệ sản xuất, quan hệ chính
trị xã hội, các mối quan hệ phân bố sử dụng tài nguyên, thông tin, công
nghệ,... thể hiện ở sức mạnh và cơ c h ế hoạt động của chúng. Sức mạnh của
mỗi “ bàn tay” thể hiện ở thực lực và kỹ năng của chúng. Sức mạnh của nhà
nước ngày xưa được đo lường bằng số lượng dân cư, quy mô lãnh thổ, quân số
binh sĩ... ngày nay được so sánh bằng mức tăng và quy mô GDP, chỉ số phát
triển con người HDI, chi tiêu quân sự
Sức mạnh của một thực thể vể hoạt
Fulbright Economic Teaching Program: E co n o m ic D evelopm ent, Readings. Course 2001 - 2002.
2. Xem Douglass
North: Các th ể chế. sự th a y đ ổ i thê’c h ế và hoạt động kinh tê, Nxb. Khoa học xã
hỏi và Trung tàm nghiên cứu Bắc Mỹ. Hà Nội. 1998.

c.

23


động thị trường được đo lường bằng khả nãng cạnh tranh, khả năng tích tụ tư
bản, trình độ cơng nghệ, năng lực liên thông buôn bán, hiệu quả đầu tư, khả
năng lan truyền tín hiệu giá cả để điều phối tài nguyên, mức độ tiết giảm chi
phí giao dịch,...; Sức mạnh của cộng đồng thể hiện ở khả năng phân cấp, giao
quyền, mức độ tham gia ra quyết định và tự huy độno lực lượng của nhân dân,
trình độ hoạt động tự giác và tự chủ của tổ chức cơ sở,...
Hình thức hoạt động của cơ chế nhà nước là các khuôn khổ cứng của luật
pháp, quy định và hoạt động can thiệp vào hoạt động kinh tế, xã hội. Thị
trường hoạt động theo hình thức tự do, thơng qua hoạt động buôn bán, trao
đổi, các bên tham gia đều có lợi, cạnh tranh trong kinh doanh hàng hố,
dịch vụ. Cộng đồng vừa dùng các khung luật lệ quy định, vừa phát huy vai
trò tự chủ để thoả thuận, xây dựng các cam kết về nghĩa vụ và quyền lợi.

Tóm lại, năng lực tác động xã hội của thế lực nhà nước là khả năng ràng
buộc, can thiệp và xây dựng, của thị trường là mức độ liên thông, cạnh tranh
và tự cân đối, của cộng đồng là năng lực giao tiếp, đàm phán và tự điều
chỉnh.

2. Bản chất hoạt động của b a cơ chê
Hoạt động của cơ ch ế thị trường
Xét về khía cạnh thơng tin, tín hiệu chính của thị trường là giá cả, phản
ánh “giá trị kinh tế” , thể hiộn mức độ khan hiếm của hàng hố, dịch vụ được
bn bán. Mơi trường lan truyền thông tin kinh doanh là khu vực tham gia
hoạt động giao dịch thương mại. Để mơ hình hố các hoạt động này, người ta
thường mơ phỏng trên máy tính các mơ hình “cân bằng cung cầu” , trong đó
thơng tin giá cả lan truyền theo ngun tắc “bình thơng nhau” hay trong
phạm vi tồn bộ khơng gian thơng tin để đạt tới cân bằng giữa sản xuất và
tiêu thụ. Ví dụ một cách trực
quan, trong chừng mực nhất
định, mơ hình này về nguyên
tắc giống như những sa bàn
được người ta đắp nổi với quy
mơ nhỏ nhưng có cùng tỷ lệ địa
hình, mơ phỏng lại địa thế sơng
ngịi để cho nước chảy vào
nhằm xem xét diễn biến phán
bổ dòng chảy và mức độ ngập
lụt trong các cơng trình thủy lợi
hoặc lưu vực sông.


Theo mơ hình thị trường cổ điển của Walras1, các hàng hoá phải giống
nhau, trao đổi giao dịch diễn ra cùng thời điểm và địa điểm, các bên tham gia

nắm đủ thơng tin và điều kiện trao đổi, hay nói cách khác, chi phí giao dịch
được coi như khơng đáng kể. Do cả ba tác động (cạnh tranh cung, cạnh tranh
cầu và thương lượng mua bán) cùng diễn ra liên tục gần như trong cùng thời
gian nên có thể hình thành một điểm thống nhất cân bằng chung, đó là giá cả
tức thời trên thị trường. Tín hiệu giá do đó bao hàm trong nó cả thơng tin về
người sản xuất (công nghệ, quy mô, hiệu quả,...) cả thông tin về người mua
(thu nhập, thị hiếu, sự cần thiết,...) và thơng tin về người bán (chi phí giao
dịch, hệ thơng kinh doanh...). Do được hình thành một cách khách quan, nên
trong một thị trường thơng thống, giá cả tại các địa điểm giao dịch khác
nhau về cơ bản sẽ phải tiến đến cân bằng, phản ánh giá trị hàng hoá chung
của xã hội. Giá cả là hình thức thơng tin đặc biệt hiệu quả của cơ chế thị
trường. Joseph Stiglitz viết:
đặc tính quý báu của một xã hội thị trường là
các thông tin rải rác được tập trung lại và được phản ánh thông qua giá cả và
những động cơ khuyến khích mà giá cả tạo ra đối với hành vi của con người
không cần đến sự tập trung thông tin hay lập kế hoạch mang tính tập trung
hố nào "2.
Kết cấu hoạt động của cơ chế thị trường xét một cách đơn giản gồm có hai
khối tác nhàn chính đối lập nhau: khối các tác nhân phía cung (khối A) gồm các
nhà sản xuất cùng tham gia làm ra một mặt hàng và bên kia là khối các đối
tác cầu (khối B) cùng tham gia tiêu thụ chung một mặt hàng. Trong khối cung
A, quan hệ chính giữa các nhóm trong khối là cạnh tranh quyết liệt nhằm

K

B

c.

1 Douglass

North, Sách đã dẫn.
2 Hilton Root, Sách đã dẳn.

25


giành thị trường, thị phần, kết quả là tại điếm cân bằng, lợi nhuận chung giảm
xuống mức thấp nhất cho phép, tươna đương với trình độ cơng nghệ và mức
quản lý trung bình xã hội. Trong khối cầu B diễn ra một quan hệ “hợp tác
lỏng lẻo”. Ví dụ, người cùng mua một sản phẩm thường tìm cách trao đổi
thơng tin với nhau về giá cả, tham khảo nhau về chất lượng hàng hoá, độ tin
cậy về nguồn cung cấp, ở mức cao hơn thì hợp tác cùng nhau bảo vệ quyền lợi
người mua, nhằm mua được hàng hoá với giá thấp nhất để có lượng hàng hố
cao nhất, với chất lượng tối đa trong phạm vi khả năng chi tiêu bình quân của
xã hội. Giữa hai khối cung A và cầu B là quan hệ thoả thuận, mặc cả “thuận
mua vừa bán”, tại điểm cân bằng nhu cầu cân đối với cung cấp. Trong thực tế,
trên thị trường, có nhiều loại hàng hố có mối quan hệ qua lại với nhau (thay
thế, phối hợp,...), cho nên bức tranh quan hệ chung của cơ chế thị trường
phức tạp hơn rất nhiều so với trường hợp đơn giản của thị trường một hàng
hóa.

Hoạt động của cơ chê nhà nước
Tín hiệu của cơ chế nhà nước là
“ giá trị chính trị” biểu hiện quyền lực
chính trị của các thế lực, tổ chức, nhà
nước. Môi trường lan truyền thông tin
là khu vực thuộc phạm vi kiểm sốt,
bị khống chế bằng hoạt động chính
trị, quân sự, pháp chế của tổ chức, thế
lực. Để mô hình hố các hoạt động

này người ta có thể mơ phỏng bằng
các mơ hình lơgic sự tranh chấp
quyền lực giữa các nhóm thế lực để
đạt đến cân bằng quyền lực mới và quan hệ qua lại giữa người lãnh đạo và
người chịu sự lãnh đạo để đạt đến cân bằng về lợi ích. Xem xét một cách trực
quan, các nghiên cứu này giống như việc tìm hiểu các thế cờ, các nước cờ
trong một bàn cờ có nhiều đối thủ cùng chơi.
Xét về cơ cấu của cơ chế nhà nước, cũng có hai khối. Khối thứ nhất (khối A)
là các thế lực thống trị cạnh tranh với nhau, quan hệ giữa các thế lực bên trong
khối là quan hệ cạnh tranh gay gắt giành quyền lực, giành chính trường. Sự cạnh
tranh này dẫn đến cân bằng quyền lực của lực lượng thống trị với khả năng huy
động lực lượng tối đa và sử dụng chúng một cách hiệu quả của mỗi thế lực trong
thời kỳ cao điểm. Khối thứ hai (khối B) là khối bị trị, các thành viên trong khối
có quan hệ "hợp tác lỏng lẻo", họ trao đổi thôrm tin, bàn bạc với nhau khi chịu sự
quản lý và “tiêu dùng” lợi ích từ dịch vụ cơne của khối A cung cấp.


×