Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NGUỒN QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.9 KB, 32 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NGUỒN QUỸ BẢO
HIỂM XÃ HỘI
1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò BHXH
1.1.1 Khái niệm BHXH
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy trong quá trình tồn tại và phát triển nhu
cầu cơ bản của con người là ăn, mặc, ở... Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu này, con người
phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Xã hội càng phát triển, mức độ thỏa
mãn các nhu cầu của con người ngày càng cao. Trong thực tế cuộc sống, không phải
người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động để hoàn thành
nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no
hạnh phúc. Bởi lẽ, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau,
tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên,
của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào
các trường hợp đó, thì ngoài những nhu cầu thiết yếu của con người còn xuất hiện thêm
nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra những
cách giải quyết khác nhau.
Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình
thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động còn được sự bảo trợ của cộng đồng và
xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác
nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công
việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát
triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có
những cơ sở để hình thành và phát triển.
Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những
người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương
ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải
có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã
thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu
nhập vì bệnh tật. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở
rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm
1880, BHXH đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao


động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cơ chế ba bên. Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét và BHXH dần
dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội và được tất cả các nước
thừa nhận là một trong những quyền con người.
Từ đó khái niệm BHXH được khái quát như sau:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động, chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH [18].
1.1.2 Bản chất của BHXH
BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển kinh
tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời
phát triển. Vì vậy, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền
kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một
hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa
dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong
phú.
Thực chất BHXH là sự tổ chức chia sẻ hậu quả của những rủi ro xã hội hoặc các
sự kiện bảo hiểm. Sự chia sẻ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng
quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các
nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối
lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã
hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh
đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN), già yếu, chết... Xét trong nội
tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang.
Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao động theo
thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu khi còn khả năng làm việc và khi không còn khả
năng làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh
cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người có
thu nhập cao và người có thu nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu
nhập theo không gian.

Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh
tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá
nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của
người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã
hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động
và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do
có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong
thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang
trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho
số ít”.
Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen lẫn
nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến
tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi
rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho
người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một
khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi
BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao động xuất
phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó
bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động ổn định trật tự xã hội.
1.1.3 Vai trò của BHXH
BHXH với các chế độ trợ cấp của mình sẽ tạo nên một hệ thống chăm lo và bảo
vệ người lao động và gia đình họ khi gặp phải các rủi ro làm giảm hoặc mất đi nguồn
thu nhập. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước, vai trò của
BHXH trong hệ thống An sinh xã hội và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ngày càng to lớn. Có thể khái quát vai trò của BHXH như sau:

Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH.
Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ
bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc
bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng những tổn thất về
vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động
bình thường.
Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã
hội. Để phòng tránh, giảm thiểu tổn thất, các đơn vị sử dụng lao động phải đề ra các
quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc người lao động tuân thủ. Nhưng khi có rủi
ro xảy ra cho người lao động, quỹ BHXH chi trả kịp thời, tạo điều kiện cho người lao
động nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất. Từ đó góp phần quan trọng làm ổn
định nền kinh tế và xã hội.
Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa
các bên tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách
BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự
nghiệp BHXH. Người sử dụng và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình
thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình họ được cung cấp tài chính từ quỹ
BHXH khi có đủ điều kiện theo quy định. Từ đó tạo được niềm tin của người lao động
đối với người sử dụng khuyến khích người lao động phấn khởi, tinh thần trách nhiệm
của họ cũng được nâng lên trong lao động sản xuất.
Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Một
mặt quỹ BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho bản thân và gia đình
người lao động, mặt khác phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm mục tiêu bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Xét cả hai mặt trên thì hoạt
động của quỹ BHXH đều nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, phân phối trong
BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho người có thu nhập thấp, là sự chia sẻ
giữa những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm yếu,
gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Từ đó BHXH
làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công

bằng xã hội.
Năm là, BHXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất của chế độ chính
trị xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu để xây
dựng thành nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.4 Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh với mục đích kiếm lời trên cơ sở
huy động các nguồn tài lực thông qua việc thu phí bảo hiểm của những người tham gia
bảo hiểm để tạo lập quỹ và sử dụng chúng để bồi thường tổn thất cho các đối tượng
tham gia bảo hiểm khi xẩy ra rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm. Ở Việt Nam, Bảo hiểm
thương mại đang hoạt động với hai loại hình bảo hiểm là Bảo hiểm phi nhân thọ và Bảo
hiểm nhân thọ. Tương ứng với mỗi loại hình bảo hiểm có rất nhiều sản phẩm khác
nhau. Bảo hiểm phi nhân thọ có các sản phẩm như: bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu,
bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm sức khỏe, tai nạn, con người, bảo hiểm trách nhiệm, bảo
hiểm dầu khí, hàng không, bảo hiểm hỏa hoạn, kỹ thuật - tài sản. Bảo hiểm nhân thọ có
các sản phẩm như: An sinh giáo dục, an khang thịnh vượng, an bình hưu trí, an hưởng
hưu trí...
BHXH hoạt động không vì mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà phục vụ
cho lợi ích xã hội, vì quyền lợi của người tham gia BHXH. Ở Việt Nam, BHXH được
triển khai dưới hai hình thức là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Sản phẩm của
BHXH bắt buộc là trợ cấp hưu trí, tử tuất, mai táng phí, ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng
sức phục hồi sức khoẻ, TNLĐ- BNN, khám chữa bệnh. Sản phẩm của loại hình BHXH
tự nguyện gồm khám chữa bệnh BHYT tự nguyện, riêng loại hình BHXH tự nguyện
mới được triển khai từ tháng 1/2008, khi tham gia BHXH tự nguyện người tham gia sẽ
được hưởng trợ cấp hưu trí và tử tuất.
Cùng với các quỹ tiền tệ khác, bảo hiểm thương mại có vai trò như một công cụ
thực hiện bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Bảo hiểm
thương mại hay BHXH cuối cùng cũng hướng đến mục tiêu là ổn định đời sống con
người.Tuy nhiên chúng ta có thể phân biệt ở những điểm khác nhau sau đây:
Bảng 1.1: Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại
Tiêu thức

Bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm xã hội
Phi nhân thọ Nhân thọ
Tính chất
- Kinh doanh - Kinh doanh - Chính sách xã hội
Đối tượng được
BH
- Tài sản
- Con người
- Con người - Con người (thu nhập
của con người)
- Trách nhiệm
Những sự kiện
được bảo hiểm
- Các hư hỏng, thiệt
hại về tài sản;
- Ốm đau, tai nạn, nằm
viện đối với con
người;
- Các nghĩa vụ pháp lý
phát sinh.
- Sống đến thời hạn
nhất định;
- Ốm đau, thương tật,
nằm viện, chế độ chăm
sóc;
- Hưu trí ;
- Chết.
- Ốm đau
- Thai sản

- Tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp
- Hưu trí
- Tử tuất
Nguồn hình
thành quỹ
- Phí đóng của người
tham gia
- Phí đóng của người
tham gia
- Sự đóng góp của
người sử dụng lao
động, người lao động.
- Sự hỗ trợ từ NSNN
và nguồn viện trợ
khác.
Cơ quan chủ
quản
- Nhà nước và các
doanh nghiệp tư nhân
(các tập đoàn, công ty,
chi nhánh, đại lý…)
- Nhà nước và các
doanh nghiệp tư nhân
(các tập đoàn, công ty,
chi nhánh, đại lý…)
- Nhà nước là chủ thể
duy nhất (thực hiện
bởi cơ quan BHXH
được tổ chức từ trung

ương xuống địa
phương)
1.2 Chính sách BHXH
1.2.1 Khái niệm
Theo định nghĩa của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội : “ Chính sách
BHXH là những quy định chung của nhà nước gồm những chủ trương, những định
hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và chế
độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức thực hiện các chế độ BHXH”[5].
Chính sách BHXH thể hiện thái độ của Nhà nước đối với vấn đề BHXH, có thể
được biểu hiện dưới nhiều dạng như: trong các văn bản chung của Đảng và Nhà nước,
trong hiến pháp, pháp luật…
Cùng với sự phát kinh tế xã hội của đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội có vai
trò to lớn trong hệ thống an sinh xã hội, có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ lẫn
nhau với các chính sách xã hội khác để giải quyết các vấn đề liên quan đến con người.
1.2.2 Chính sách BHXH trong hệ thống an sinh xã hội
Thuật ngữ an sinh xã hội (ASXH) được chính thức khai sinh với tư cách là tiêu
đề của một đạo luật ở Mỹ (Luật 1935 về An sinh xã hội), chỉ sự bảo vệ trong bốn
trường hợp: tuổi già, chết, tàn tật và thất nghiệp.Trong hội nghị toàn thể các tổ chức lao
động được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Geneve
ngày 4/6/1952, Công ước 102 về an sinh xã hội ra đời và được ILO (Tổ chức Lao động
quốc tế ) thông qua ngày 28/6/1952 trở thành công ước quốc tế về an sinh xã hội.
Công ước 102 của ILO cho rằng: ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho
các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống đỡ sự
hụt hẫng về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả
sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ. Như vậy, ILO quan niệm đối
tượng của ASXH là nhóm đối tượng có thu nhập không đủ trang trải cho những điều
kiện tối thiểu và xã hội cần tiến hành đồng bộ các biện pháp công cộng khác nhau nhằm
phân phối lại thu nhập.
Những cơ chế chủ yếu của ASXH bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, các

chế độ trợ cấp từ quỹ công cộng, các chế độ trợ cấp gia đình, các quỹ dự phòng, sự bảo
vệ do người sử dụng lao động cung cấp, các dịch vụ liên quan đến ASXH.
Trong các cơ chế chủ yếu của hệ thống ASXH, BHXH là trụ cột quan trọng thứ
nhất, tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị
gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương
trong xã hội. Các chế độ của BHXH đã hình thành khá lâu truớc khi xuất hiện thuật ngữ
ASXH. Hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng Hòa Liên
Bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Bismack (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-
1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn
tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động
và nhà nước. Kinh nghiệm về BHXH ở Đức, sau đó, được lan dần sang nhiều nước trên
thế giới, đầu tiên là các nước Châu Âu, tiếp đến là các nước Châu Mỹ Latinh, Hoa kỳ,
Canada và cuối cùng là các nước Châu Phi, Châu Á.
Theo công ước 102 BHXH bao gồm 9 chế độ sau: (1) Chăm sóc y tế; (2)Trợ cấp
ốm đau; (3)Trợ cấp thất nghiệp; (4)Trợ cấp tuổi già; (5)Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp; (6)Trợ cấp gia đình; (7)Trợ cấp thai sản; (8) Trợ cấp cho tình trạng không
tự chăm sóc được bản thân (trợ cấp tàn tật); (9)Trợ cấp tuất.
Công ước nêu rõ những nước phê chuẩn Công ước này phải thực hiện ít nhất ba
chế độ, trong ba chế độ đó ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: (3), (4), (5), (8)
hoặc (9).
Việc áp dụng BHXH trên của quốc gia khác nhau thường cũng rất khác nhau về
nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm
bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và
khả năng quản lí có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các chế độ đảm bảo cho
các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, các
nước khác lại quan tâm đến các chế độ đảm bảo cho tuổi già, tuổi hưu trí, cho cái chết.
Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế- xã hội, phù hợp với đặc điểm
của từng nơi, bảo hiểm sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế
độ.
1.2.3 Các chế độ BHXH hiện hành tại Việt Nam

Trong quá trình thực hiện BHXH, hệ thống pháp luật và chính sách về BHXH ở
nước ta đã dần dần được bổ sung và hoàn thiện. Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày
29/6/2006 quy định các chế độ BHXH hiện nay ở nước ta gồm: trợ cấp ốm đau, trợ cấp
thai sản, trợ cấp TNLĐ – BNN, hưu trí và tử tuất [xem phụ lục 6].
1.3 Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.3.1 Khái niệm
Trong đời sống kinh tế - xã hội, người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ khác
nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng,
quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm... Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp
các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu
định trước với những quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt
phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra.
Tất cả các loại quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời
điểm mà còn luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và
giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung quỹ
như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể ngày càng
nhiều lên còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể vơi dần đi. Để
bảo đảm cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dữ trữ. Đầu vào phải nhiều
hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để quản lý và điều hành được
một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối lượng tĩnh của nó tại một thời
điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu lượng của nó trong một khoảng thời
gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được hình thành từ các nguồn thu
khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các
chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính
toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và phải chảy vào bể liên tục để đảm bảo các chi phí
- đầu ra của BHXH không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. Khi mức chi ra lớn, những
người hoạch định phát triển BHXH phải tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Khái
niệm Quỹ BHXH được khái quát như sau:
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của
các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác, sử dụng để bù đắp hoặc thay thế một

phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm
suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; nhằm ổn định đời sống
cho họ và gia đình họ và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH, góp phần đảm
bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó
vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật chất quan
trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
1.3.2 Vị trí của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính nhà nước
Hoạt động tài chính diễn ra rất đa dạng và phong phú ở bất kỳ lĩnh vực nào của
đời sống xã hội. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động, các hoạt động tài chính có cùng một tính
chất, đặc điểm, vai trò gắn liền với một chủ thể. Có những quỹ tiền tệ đặc thù được
hình thành và sử dụng để đáp ứng các nhu cầu và lợi ích khác nhau của đời sống xã hội,
thì ở đó hình thành một khâu tài chính độc lập. Các khâu tài chính tồn tại một cách độc
lập, nhưng giữa chúng có những mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau trong quá
trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ, do đó chúng không thể tách rời nhau mà cùng nhau
hợp thành một hệ thống tài chính thống nhất của mỗi quốc gia.
Hiện nay, hệ thống tài chính ở Việt Nam bao gồm các khâu tài chính sau:
1. Ngân sách Nhà nước(NSNN).
2. Tài chính doanh nghiệp.
3. Quỹ bảo hiểm.
4. Quỹ tín dụng.
5. Tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình.
Trong quá trình vận động, Quỹ BHXH có thể quan hệ trực tiếp với các khâu tài
chính Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính tín dụng, tài chính các tổ
chức xã hội và hộ gia đình qua việc tạo lập quỹ dưới hình thức thu BHXH, BHYT và sử
dụng quỹ dưới hình thức chi trả các chế độ BHXH, BHYT. Mặt khác thông qua thị
trường tài chính, Quỹ BHXH có quan hệ gián tiếp với các khâu tài chính khác trong hệ
thống tài chính khi nguồn tài chính của quỹ này tạm thời nhàn rỗi được sử dụng giống
như các quỹ tín dụng khác.
Quan hệ với ngân sách Nhà nước:

NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước trong hệ thống tài chính quốc
gia để phát triển kinh tế - xã hội và duy trì bộ máy quản lí nhà nước. Toàn bộ các khoản
thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước.
Luật ngân sách của Việt Nam ban hành 1996 đã xác định: NSNN là toàn bộ các
khoản thu, chi của nhà nước được dự toán và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. NSNN được hình thành từ mọi khoản
thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp
tự nguyện của các tổ chức và cá nhân; các khoản cho vay của Chính phủ; các khoản
viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi NSNN được bố trí theo
yêu cầu phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, bảo đảm
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tài
chính quốc gia. Hoạt động của NSNN gắn liền với chủ thể là Nhà nước. Các nguồn tài
chính từ các khâu tài chính khác được hút một cách mạnh mẽ để hình thành nên quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước - quỹ ngân sách. Với quyền lực của mình, Nhà nước đã
ban hành Luật BHXH, Điều lệ BHYT, Quy chế quản lý tài chính đối với hệ thống
BHXH Việt Nam trong đó quy định việc tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH
trong thời gian tạm thời nhàn rỗi đã trở thành nguồn tài chính được hút vào quỹ Ngân
sách dưới hình thức các khoản cho NSNN vay. Từ những khoản cho vay này, NSNN có
quyền sử dụng, thông qua chức năng phân phối để tạo lập các quỹ tiền tệ nhỏ ở các
khâu tài chính khác dưới hình thức cấp phát như cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị
hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, vốn Điều lệ cho Doanh nghiệp Nhà nước,
cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế... vay vốn để hoạt động, hỗ trợ kinh phí hoạt
động cho các tổ chức đoàn thể, trợ cấp xã hội.... Những khoản cấp phát, trợ cấp, cho
vay này của NSNN lại trở thành một nguồn thu bổ sung vào các quỹ tiền tệ ở các đơn vị
kinh tế khác. Như vậy, một cách gián tiếp Quỹ BHXH đã tạo lập nên các quỹ tiền tệ ở
các khâu tài chính khác như: tài chính doanh nghiệp, tín dụng, tài chính các tổ chức xã
hội và tài chính hộ gia đình.

Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là các đơn vị thuộc khối hành chính sự
nghiệp, lực lượng vũ trang sử dụng kinh phí do NSNN cấp, hỗ trợ để hoạt động trong
đó có khoản trích nộp BHXH. Hàng tháng, các đơn vị này phải trích từ khoản kinh phí
do NSNN cấp, hỗ trợ để nộp BHXH, BHYT. Đối tượng đang hưởng chế độ trợ cấp
BHXH hàng tháng do nguồn NSNN đảm bảo; người có công, thân nhân sỹ quan quân
đội tại ngũ, người nhiễm chất độc màu da cam, người nghèo... hàng tháng được hưởng
các khoản trợ cấp từ NSNN cũng là đối tượng tham gia BHXH do đó NSNN cũng dành
một phần kinh phí của mình để nộp BHYT cho họ. Như vậy, hoặc trực tiếp hoặc gián
tiếp quỹ NSNN lại đuợc hút vào quỹ BHXH dưới hình thức nộp BHXH, BHYT để hình
thành nên quỹ BHXH.
Quan hệ với tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia. Trong
quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình, doanh nghiệp phát
sinh các quan hệ tài chính trong đó có quan hệ với cơ quan BHXH về thu, nộp BHXH
và nhận về các khoản trợ cấp cho người lao động trong trường hợp họ bị ốm đau, tai
nạn lao động- BNN, nghỉ thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ.
Lao động là một yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do đó
cùng với việc trả lương, doanh nghiệp phải thực hiện việc trích nộp BHXH cho người
lao động theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH theo tỷ lệ quy
định cho cơ quan BHXH, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng tiền từ nguồn vốn kinh doanh
của mình làm chuyển dịch nguồn tài chính của doanh nghiệp vào quỹ BHXH. Các
khoản trích nộp BHXH khi chưa đến hạn phải nộp sẽ được doanh nghiệp khai thác, huy
động và sử dụng tạm thời để đảm bảo có đủ nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh và như vậy gián tiếp quỹ BHXH đã được bổ sung bởi các quỹ tiền tệ của
doanh nghiệp. Mặt khác khi tham gia BHXH, trong trường hợp người lao động nữ nghỉ
sinh con, người lao động không may bị ốm, bị tai nạn không tham gia được vào quá
trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp lúc này người lao động sẽ được quỹ
BHXH chi trả các chế độ BHXH ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, TNLĐ - BNN. Như
vậy bằng cơ chế sử dụng quỹ của mình, Quỹ BHXH đã trực tiếp tạo nên nguồn thu cho
khâu tài chính hộ gia đình và gián tiếp tham gia vào khâu tài chính doanh nghiệp.

Quan hệ với quỹ tín dụng:
Tín dụng là khâu quan trọng trong hệ thống tài chính. Quỹ tín dụng được tạo lập
bằng cách huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế,
vốn tự có và sử dụng để cho vay, đầu tư chứng khoán, trả lãi theo nguyên tắc hoàn trả
có thời hạn và có lợi tức.
Cơ chế quản lý tài chính của BHXH cho phép BHXH Việt Nam được thực hiện
các hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Trong thời gian nhàn rỗi chưa sử dụng đến,
quỹ BHXH được phép cho các Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng chính sách
vay; mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu công trái của Kho bạc Nhà nước và của các
Ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong quá trình vận động của mình với mục đích cho
vay, quỹ BHXH đã trở thành một trong những nguồn vốn huy động tạo lập nên quỹ tín
dụng nhằm cung ứng một cách linh hoạt nhu cầu vốn ngày càng nhiều cho các hoạt
động kinh tế, xã hội. Đồng thời, sau một thời gian sử dụng tiền của quỹ BHXH, các tổ
chức tín dụng phải trả cho quỹ BHXH khoản tiền lãi theo thỏa thuận và lúc này tiền lại
ra khỏi Quỹ tín dụng để tạo lập Quỹ BHXH. Quan hệ này cứ lặp đi lặp lại tạo nên mối
quan hệ khăng khít và quay vòng giữa Quỹ BHXH và Quỹ tín dụng.
Các tổ chức tín dụng cũng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo Điều lệ
BHXH vì vậy hàng tháng, từ Quỹ tín dụng này một lượng tiền nhất định sẽ được rút ra
để nộp BHXH, BHYT cho chính những lao động đang làm việc trực tiếp trong các tổ

×