Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.49 KB, 25 trang )

HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
I. HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
Khi nhà đầu tư thiết lập một danh mục đa dạng hoá đầu tư, rủi ro phi hệ
thống là loại đầu tư không được thị trường trả giá. Nói cách khác, thị trường chỉ
chấp nhận mang lại thu nhập cao hơn cho tài sản có mức rủi ro thị trường lớn
hơn chứ không phải mức tổng rủi ro lớn hơn. Do đó, vấn đề đặt ra là để xác
định mức thu nhập mong đợi của đầu tư vào một tài sản người ta cần phải đo
lường “ mức rủi ro thị trường” của tài sản đó ( mức mà thị trường trả giá cho
nó). Hệ số bêta là hệ số đo lường mức rủi ro thị trường này của từng tài sản
cũng như của từng danh mục.
Các chuyên gia tài chính cho rằng các tài sản khác nhau mang theo mình
những rủi ro không đa dạng hoá được khác nhau phụ thuộc vào sự biến động
của chúng so với sự biến động của toàn thể thị trường. Hệ số bêta là hệ số đo
lường sự biến động trong lợi suất của lợi suất toàn thể thị trường trong từng thời
kỳ.
Theo định nghĩa trong từ điển tài chính Collins thì : hệ số bêta là một đại
lượng đo lường sự phản ứng của lợi suất kỳ vọng của một chứng khoán tài
chính riêng biệt, có liên quan tới những biến động trong lợi suất kỳ vọng trung
bình của các chứng khoán còn lại trong thị trường. Hệ số bêta được coi như một
thước đo rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Hệ số bêta liên kết lợi suất của cổ
phiếu với lợi suất của cổ phiếu với lợi suất trung bình của thị trường. Rủi ro thị
trường bình quân của tất cả các cổ phiếu trên thị trường bằng 1, đó là, việc tăng
10% trong lợi nhuận thị trường được phản ánh như 10% tăng thêm trong lợi
nhuận một chứng khoán A. Nếu lợi suất của một chứng khoán B, là 20%, nhưng
chỉ có 10% tăng thêm trong lợi suất thị trường, thì chứng khoán này có β =2 chỉ
ra một rủi ro lớn hơn của thị trường. Nếu một chứng khoán C có β =0.5, điều đó
nói lên chứng khoán này ít rủi ro hơn thị trường chung”.
Hệ số beta cũng được xem như là một yếu tố “ đòn bẩy” đối với lợi nhuận
của tài sản tài chính. Khi phần bù rủi ro thị trường (R
m
-R


f
) thay đổi 1% thì lợi
nhuận kỳ vọng của tài sản tài chính thay đổi β %.
Trên thị trường đầu tư, hệ số bêta được tính toán và sử dụng rất rộng rãi
trong việc tạo ra các quyết định đầu tư và đánh giá hoạt động của các nhà quản
lý đầu tư, trong phân tích cũng như hoạch định chiến lược đầu tư.
Do hệ số bêta là hệ số đo lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số đo
lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số bêta của công ty mình, các nhà
quản lý đồng thời ước lượng được rủi ro mà công ty mình đang gánh chịu, trên
cơ sở đó họ có thể đưa ra những đối sách hợp lý trong chiến lược phát triển của
công ty.
Trên một thị trường tài chính chuyên nghiệp, nơi mà việc đầu tư vào các
tài sản tài chính được thực hiện theo các danh mục và được quản lý bởi các nhà
quản lý đầu tư, hệ số bêta sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà
quản lý lựa chọn tài sản vào danh mục của mình. Hơn thế dựa vào thước đo này
các nhà quản lý sẽ cho người đầu tư của mình biết mức rủi ro thị trường (rủi ro
hệ thống) mà họ gánh chịu theo mục tiêu họ đặt ra. Với hệ số bêta, thước đo về
mức độ thành công trong hoạt động đầu tưu và quản lý được đo lường và thể
hiện rõ ràng hơn.
Như vậy, chúng ta có thể thấy hệ số bêta có vai trò rất quan trọng trong
việc đánh giá cổ phiếu, tài sản tài chính của các công ty trên thị trường cũng
như trong các hoạt động đầu tư. Một thị trường phát triển cần phải có những
danh mục công bố bêta của các tài sản trên thị trường.
Có rất nhiều phưong pháp để ước lượng hệ số rủi ro bêta cho các cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán. Việc sử dụng phương pháp nào tuỳ thuộc vào sự
phù hợp của phương pháp đó với thị trường đang xét, tuỳ thuộc vào ý muốn chủ
quan của người đánh giá, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả mà phương pháp đó
mang lại. Các phương pháp thường được sử dụng là:
+ Ước lượng bêta thông qua các phương pháp đơn giản bằng đồ thị.
+ Ước lượng bêta bằng mô hình chỉ số đơn.

+ Ước lượng bêta bằng mô hình CAPM dựa trên số liệu lịch sử
Trong đó ước lượng beta qua mô hình CAPM là phương pháp được sử dụng phổ
biến nhất.
1. Khái niệm về hệ số beta trong mô hình CAPM
- Hệ số beta của một chứng khoán theo mô hình CAPM :
E(r
i
) = r
f
+
[ ]
fm
rrE

)(
*
i
β
(13)
Trong đó:
E(r
i
) : Là lợi suất kỳ vọng của cổ phiếu i.
R
f
: Là lợi suất phi rủi ro trên thị trường.
E(r
m
): Là lợi suất kỳ vọng của thị trường.


i
β
: Là thước đo về mức độ rủi ro của tài sản.
i
β
=
2
),(
m
mi
rrCov
σ
Hệ số bêta của một chứng khoán xác định theo mô hình CAPM là thước đo rủi
ro của chứng khoán, nó xác định số phần trăm thay đổi lợi suất kì vọng của một
chứng khoán khi có 1 % thay đổi trong lợi suất của danh mục thị trường. Hay
nói cách khác nó là thước đo mức độ biến động của lợi suất chứng khoán so với
danh mục thị trường.
- Danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện đầu tư bằng cách lựa
chọn các vị thế của các tài sản và tập hợp chúng gọi là danh mục đầu tư.
- Hệ số bêta của một danh mục đầu tư : Là thước đo mức độ biến động của
một danh mục đầu tư so với danh mục thị trường. Nó được xác đinh dựa trên tỉ
trọng của các tài sản trong danh mục cùng với các hệ số bêta tương ứng. Hệ số
bêta của danh mục được xác định như sau :

i
n
i
iP
ωββ


=
=
1
*
Trong đó : - β
P
là hệ số beta của danh mục
- β
i
là hệ số beta của một chứng khoán
- ω
i
là tỉ trọng của chứng khoán i trong danh mục
2. Danh mục đầu tư và sự phòng hộ rủi ro cua danh mục đầu tư
2.1. Lý thuyết danh mục đầu tư
2.1.1. Khái niệm về danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư là một nhóm các tài sản như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc
một số tài sản khác như bất động sản, quyền chọn,.. do một nhà đầu tư hoặc một
tổ chức nắm giữ. Trên thị trường chứng khoán thì danh mục đầu tư ở đây nghĩa
là việc nắm giữ các tài sản là các chứng khoán.
Hay có thể nói danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện việc đầu
tư bằng cách chọn lựa vị thế đối với các tài sản, và tập hợp các vị thế này gọi là
một danh mục đầu tư.
Có nhiều cách để thể hiện một danh mục đầu tư nhưng cách thuận lợi nhất
là thể hiện dưới dạng tỉ trọng các tài sản đầu tư trong danh mục. Ví dụ có danh
mục P:
1 2 N
(w , w ,..., w )
với
n

i
1
w 1
i=
=

,
i
w
là tỉ trọng của tài sản thứ i.
Phân tích và quản lý danh mục đầu tư là dựa vào thái độ đối với rủi ro
của nhà đầu tư, phân tích biến động chứng khoán từ đó điều chỉnh vị thế các tài
sản trong danh mục. Hai yếu tố quan trọng phải xem xét đó là lợi suất, và độ rủi
ro của danh mục mà nhà đầu tư chấp nhận. Bởi vì có thể với cùng một tài sản
nhưng thái độ với tài sản đó của nhà đầu tư không giống nhau, hay cùng với một
danh mục nhưng thái độ với rủi ro của từng nhà đầu tư là khác nhau.
Quản lý danh mục đầu tư là việc công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý
theo sự ủy thác của từng nhà đầu tư trên cơ sở hợp đồng thông qua việc mua
bán, nắm giữ các chứng khoán, tài sản. Công ty quản lý quỹ phải lưu giữ số tiền
ủy thác của nhà đầu tư trong tài khoản tại ngân hàng do hai bên thỏa thuận, bảo
quản chứng khoán, tài sản thuộc sở hữu của khách hàng tại một thành viên lưu
ký được cấp phép; được hưởng phí quản lý danh mục đầu tư, các khoản thưởng
nếu có theo thỏa thuận.
Vấn đề danh mục đầu tư không chỉ đơn giản là sự kết hợp của những
chứng khoán riêng lẻ mà còn cả những đặc trưng rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong
muốn của danh mục. Điều đó chỉ ra rằng, chúng ta phải xem xét mối quan hệ
giữa những phương thức đầu tư để thiết lập được một danh mục tối ưu đáp ứng
được những yêu cầu đề ra. Điều đó được giải thích trong lý thuyết đa dạng hóa
danh mục đầu tư.
Nhà đầu tư mong muốn tối đa hóa tỷ suất lợi tức từ việc đầu tư với một

mức rủi ro cho phép. Các tài sản trong danh mục tác động qua lại lẫn nhau và
việc mục danh mục tốt không chỉ đơn giản là một danh mục gồm toàn các tài
sản tốt.
Bên cạnh đó, việc thành lập một danh mục tối ưu, chúng ta còn phải quan
tâm đến thái độ đối với rủi ro của từng nhà đầu tư. Từ đó xác định được mức rủi
ro mà nhà đầu tư có thể chấp nhận.
Như vậy việc phân tích và quản lý danh mục là việc thiết lập mối quan hệ
giữa rủi ro mà mỗi nhà đầu tư có thể chấp nhận và lợi suất kỳ vọng thu được
của danh mục.
2.1.2. Lý thuyết về thị trường hiệu quả
Nội dung chính của lý thuyết cho rằng thị trường hiệu quả là thị trường
trong đó giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ, tức thời tất cả các thông
tin hiện có trên thị trường. Điều này có nghĩa là giá cả được xác định ở mức
công bằng và phản ánh đầy đủ thông tin hiện có trên thị trường. Giá cả chứng
khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên do ảnh hưởng của những thông tin không
thể dự đoán được.
Có 3 hình thái của thị trường có hiệu quả, đó là hình thái yếu, hình thái
trung bình và hình thái mạnh.
• EMH cấp thấp - hình thái yếu của thị trường: Trong hình thái này, giá cả
của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và kịp thời những thông tin trong quá khứ
về giao dịch của thị trường như giá cả giao dịch, khối lượng, động thái,... Khi
hình thái yếu của thị trường tồn tại thì các nhà phân tích kỹ thuật sẽ bị “vô hiệu
hoá”.
• EMH cấp trung - hình thái trung bình của thị trường: Trong hình thái này
giá cả của chứng khoán đã phản ánh tất cả các thông tin liên quan đến công ty
đã được công bố công khai bên cạnh các thông tin trong quá khứ. Khi hình thái
trung bình tồn tại thì không có hình thức phân tích nào kể cả phân tích cơ bản và
phân tích kỹ thuật có thể đem lại lợi nhuận siêu ngạch cho nhà đầu tư nếu việc
phân tích chỉ dựa trên các thông tin trên thị trường.
• EMH cấp cao - hình thái mạnh của thị trường: Trong hình thái này giá cả

của chứng khoán phản ánh tất cả những thông tin cần thiết liên quan đến tổ chức
phát hành thậm chí đó là những thông tin nội gián, thông tin mật. Điều này có
nghĩa là thị trường sẽ phản ánh hết sức nhanh trước những thông tin. Và vì vậy,
trong hình thái này không thể thực hiện bất kỳ một hình thức phân tích nào.
2.1.3. Lý thuyết về đa dạng hoá rủi ro
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá danh mục, nhà đầu tư phải đánh giá hai
thành phần quan trọng của danh mục đó là rủi ro và tỉ suất lợi nhuận. Tất cả các
quyết định điều chỉnh danh mục đều được cân nhắc dưới góc độ rủi ro và tỉ suất
lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đó. Các nhà đầu tư đều muốn cùng một mức
độ rủi ro của danh mục thì lợi suất kỳ vọng của danh mục là lớn nhất hoặc cùng
với một mức lợi suất nhất định thì mức độ rủi ro là nhỏ nhất. Ta biết mối quan
hệ giữa lợi suất và rủi ro: Rủi ro càng lớn thì lợi suất kỳ vọng càng cao. Do đó
tùy vào mục tiêu đầu tư của từng nhà đầu tư mà chọn cho mình một danh mục
chứng khoán với lợi suất thích hợp.
Trước hết tìm hiểu rủi ro là gì? Rủi ro được xem như là khả năng xuất hiện
những khoản thiệt hại không lường trước. Những chứng khoán nào có khả năng
xuất hiện các khoản lỗ lớn được xem như là có rủi ro lớn hơn những chứng
khoán có khả năng xuất hiện khoản lỗ thấp hơn. Nói cách khác rủi ro thể hiện sự
biến đổi không chắc chắn của các tỷ suất lợi nhuận liên quan đến một chứng
khoán hay một tài sản nào đó. Rủi ro danh mục được thể hiện bằng độ biến
động của danh mục đó, thể hiện sự biến động trong tương lai kết quả thu được
của việc đầu tư.
Lợi suất của một tài sản hay của một danh mục thể hiện phần trăm thay
đổi giá trị của tài sản (danh mục) tại thời điểm xem xét với giá trị của tài sản
(danh mục) ban đầu. Lợi suất của tài sản (danh mục) thể hiện đầy đủ các thông
tin và đặc điểm của tài sản (danh mục) và lợi suất của tài sản thì không phụ
thuộc vào quy mô của việc đầu tư.
Một danh mục đầu tư là sự kết hợp các vị thế của các tài sản tài chính với
nhau. Điều đó thể hiện một nguyên tắc trong đầu tư tài chính là “ không bỏ tất
cả trứng vào cùng một giỏ”. Sự đa dạng hoá đầu tư sẽ giảm thiểu rủi ro danh

mục bằng cách kết hợp đầu tư nhiều loại chứng khoán mà các chứng khoán này
có giá hoặc lợi suất biến động không cùng chiều với nhau.
Như vậy rủi ro có thể loại trừ được bằng cách đa dạng hoá danh mục đầu
tư.
2.2. Rủi ro của danh mục đầu tư
- Mỗi tài sản tài chính đều tiềm ẩn hai loại rủi ro: rủi ro hệ thống và rủi ro
phi hệ thống.
- Rủi ro hệ thống là loại rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các
tài sản trên thị trường. Vì thế người ta gọi nó là rủi ro thị trường. Một số nguyên
nhân có thể dẫn đến rủi ro hệ thống như là thay đổi trong lãi suất, thay đổi trong
sức mua, thay đổi trong kỳ vọng của nhà đầu tư về triển vọng của nền kinh tế...
- Rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc
một nhóm nhỏ các tài sản, nghĩa là loại rủi ro này chỉ liên quan đến từng doanh
nghiệp cụ thể. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro phi hệ thống này như
năng lực và quyết định quản trị, đình công, nguồn cung ứng nguyên vật liệu,
những tác động về cạnh tranh của nước ngoài, mức độ sử dụng đòn bẩy tài
chính và đòn bẩy kinh doanh...
Tổng rủi ro = Rủi ro hệ thống + Rủi ro phi hệ thống
Tổng rủi ro của danh mục P:
2
2 2 2
*
P M P
PM
ε
β
σ σ σ
= +
Trong đó:


2 2 2
1
*
w
N
P i i
i
ε ε
σ σ
=
=

: rủi ro riêng, rủi ro phi hệ thống của danh mục.

2
2
*
M
PM
β
σ
: rủi ro hệ thống hay rủi ro thị trường.
Sự kết hợp giữa những tài sản rủi ro này sẽ tạo nên rủi ro cho danh mục.
Rủi ro phi hệ thống có thể loại trừ được bằng cách đa dạng hoá, còn rủi ro thị
trường thì không thể loại bỏ được. Điều đó thể hiện qua đồ thị sau:
Rủi ro hệ thống
N

Thực tế chứng minh khi tăng số lượng chứng khoán trong một danh mục
thì rủi ro của danh mục giảm xuống, nhưng việc giảm này chỉ đạt đến một điểm

nhất định chứ không thể giảm mãi được. Như vậy danh mục khi tăng số tài sản
lên thì nó đã giảm thiểu rủi ro phi hệ thống, còn rủi ro hệ thống là rủi ro do thị
trường tác động không thể giảm thiểu được.
2.3. Phòng hộ rủi ro của danh mục đầu tư bằng các công cụ phái sinh
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công
cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán
rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
2.3.1. Một số kiến thức cơ bản về các công cụ phái sinh
2.3.1.1. Quyền lựa chọn (Option)
- Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó
được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối
lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và trong một thời gian nhất
định.Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ
số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
- Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
+ Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
+ Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
+ Thời hạn của quyền.
+ Mức giá thực hiện theo quyền.
- Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là:
+ Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
+ Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
+ Giá quyền lựa chọn.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của
chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức
là người có quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền đó. Nếu giá thực hiện
bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn (at the money), và nếu
cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money).
Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá
bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền

nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở mà họ muốn
cung cấp.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện
quyền được gọi là giá trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất
tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng
giá trị nội tại.
Giá bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với
giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội
giá trị theo thời gian. Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá
thực hiện).
2.3.1.2. Quyền mua trước (right)
Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi
chỉ vài tuần. Quyền này được phát hành khi các công ty tăng vốn bằng cách
phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một cổ đông mua cổ
phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời gian xác

×