Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.34 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về tài chính của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam năm 1997 quy định:
“ NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động NH
và các hoạt động khác có liên quan”.
Theo Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật các tổ chức tín dụng
(năm 2004) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“ NH là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động NH
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình NH gồm: NHTM, NH phát triển, NH đầu tư, NH chính
sách, NH hợp tác và các loại hình NH khác. NHTM là một doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng
số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại
Chương III của Luật tổ chức tín dụng nêu ra các hoạt động của tổ chức
tín dụng, trong đó chủ yếu là NHTM, bao gồm:
Huy động vốn
Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động đặc trưng cho quá trình kinh doanh
của NHTM, là sự khởi đầu tạo cơ sở cho hoạt động kinh doanh của NH. Hoạt
động huy động vốn của NH bao gồm:
*. Nhận tiền gửi: Là hoạt động đặc trưng của NHTM mà các tổ chức tài
chính phi NH không có. Tại điều 45, luật các tổ chức tín dụng có ghi “NH được
nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới hình thức tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác”..
*. Đi vay trên thị trường tiền tệ: Khi có sự gia tăng nhu cầu tín dụng và
nguồn tiền gửi tăng chậm, khoản mục này trở nên quan trọng đối với các
NHTM. NHTM có thể đi vay từ các nguồn sau: Vay NHTW, vay các tổ chức tài
chính khác, vay công chúng.


Hoạt động tín dụng và đầu tư
*. Hoạt động tín dụng: NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân
dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác,
bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN
Cho vay: Đối với các NHTMVN, cho vay là hoạt động tạo khả năng sinh
lời lớn nhất, đem lại nguồn thu chủ yếu cho NH.
Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh NH khác bằng uy
tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các TCTD khác.
Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng
phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng.
*. Hoạt động đầu tư: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để
góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các TCTD khác trong nước
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần
và liên doanh với NH nước ngoài để thành lập NH liên doanh.
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua NH, NHTM
được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa
các NH với nhau thông qua NHNN, NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN nơi
NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo qui định.
Ngoài ra, chi nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNN tỉnh,
thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của
NHTM bao gồm các hoạt động: Cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch
vụ thanh toán trong nước cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ, thực hiện
dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác khi được NHNN cho phép, thực
hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và
tham gia hệ thống thanh toán liên NH trong nước, tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi

được NHNN cho phép.
Các hoạt động cung cấp dịch vụ khác
Ngoài các hoạt động chính như: Huy động tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ
thanh toán và ngân quỹ, NHTM có thể thực hiện một số hoạt động khác, bao gồm: góp
vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh
doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ và bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ
tư vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động NH.
Mặc dù hoạt động NH rất đa dạng và phong phú nhưng các NH chỉ được
thực hiện các hoạt động được nêu trong giấy phép của họ. Những chức năng này
sẽ do NHTW quyết định theo từng trường hợp cụ thể.
1.1.2. Tài chính của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Quan niệm về tài chính NHTM
Tài chính là phạm trù kinh tế có tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong
nền kinh tế. Theo từ điển kinh tế học hiện đại, tài chính biểu thị vốn dưới các dạng
tiền tệ, nghĩa là ở dạng các khoản có thể vay mượn hay đóng góp vốn thông qua
thị trường tài chính hay các định chế tài chính. Nói cách khác tài chính phản ánh
hoạt động mà các cá nhân, công ty và tổ chức tạo lập tiền tệ và sử dụng nguồn
tiền tệ để đáp ứng những nhu cầu phát triển khác nhau.
Như vậy, tài chính có đặc điểm là:
- Tài chính được đặc trưng không chỉ bao gồm các nguồn lực dưới dạng tiền
mặt hay các khoản tiền gửi mà còn dưới dạng các loại tài sản tài chính như: cổ
phiếu, trái phiếu hay các công cụ nợ trao đổi hay chuyển tải giá trị.
- Tài chính liên quan đến việc chuyển giao các nguồn tài chính giữa các chủ
thể với nhau, từ các chủ thể có nguồn vốn tiết kiệm đến các chủ thể cần vốn. Ở
mức độ vĩ mô, mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư biểu thị sự chuyển giao
nguồn lực giữa các cá nhân, doanh nghiệp, Chính phủ trong tổng thể nền kinh tế.
Với cách tiếp cận trên, khái niệm tài chính có thể hiểu một cách tổng quát:
Tài chính là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội, nó
phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn
tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các

nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Tài chính NHTM
NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ.
Hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và
cung ứng các dịch vụ thanh toán. Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt
kinh doanh quyền sử dụng hàng hoá tiền tệ, thực hiện các chức năng: trung gian
tín dụng, trung gian thanh toán và cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Hoạt động kinh doanh: đi vay (mua vốn) và cho vay (bán vốn) của NHTM
để tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đã làm xuất hiện các luồng tiền tệ đi
vào và đi ra khỏi NH, tạo thành sự vận động của các luồng tài chính trong NHTM.
Chính sự vận động của các luồng tiền tệ trong NH đã làm nảy sinh các mối
quan hệ kinh tế trong kinh doanh gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng
các quĩ tiền tệ của NH. Các quan hệ kinh tế đó là:
- Quan hệ giữa NHTM với Nhà nước, thể hiện thông qua việc Nhà nước cấp
vốn cho các NHTMNN để hoạt động và NHTM thực hiện các nghĩa vụ tài chính
đối với Nhà nước như nộp thuế, phí…
- Quan hệ giữa NHTM với NHNN, thể hiện qua các nghiệp vụ dự trữ bắt
buộc, thanh toán, cho vay tái chiết khấu.
- Quan hệ giữa NHTM với NHTM, thể hiện qua các nghiệp vụ trên thị trường
liên ngân hàng.
- Quan hệ giữa NHTM với các doanh nghiệp và cá nhân như: Quan hệ về
thanh toán trong việc vay, cho vay, đầu tư vốn, mua bán tài sản…
- Quan hệ trong nội bộ NHTM như: Thanh toán tiền lương, tiền công, tiền
thưởng, tiền phạt đối với nhân viên trong việc phân phối lợi nhuận sau thuế và
hình thành các quỹ của NH.
Các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị, nảy sinh trong quá trình phân phối
nhằm tạo lập hoặc sử dụng các quĩ tiền tệ của NH để phục vụ cho kinh doanh
chính là các quan hệ tài chính của NH.
Từ đó có thể hiểu tài chính NHTM là sự vận động của các luồng tài chính

gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ phát sinh trong
quá trình hoạt động kinh doanh của NH.
1.1.2.2. Đặc điểm tài chính của NHTM
Đặc điểm kinh doanh của NHTM đã quyết định đến đặc điểm tài chính của
NHTM như sau:
Một là: Tài chính NHTM có tính nhạy cảm cao phụ thuộc môi trường kinh
doanh.
Yếu tố đầu vào và đầu ra của hoạt động kinh doanh NH đều là tiền. Đó là
dòng tiền phát sinh từ các nghiệp vụ tài chính thuần tuý: vay hoặc cho vay trong
NHTM. Đây là dòng tiền vận động độc lập, không có đối trọng với dòng hàng hoá
dịch vụ. Sự vận động này rất nhạy cảm, phụ thuộc vào khách hàng của quá trình
kinh doanh. Khách hàng có gửi tiền vào NH thì NH mới huy động được vốn (đầu
vào tài chính) và mới có nguồn vốn để cho vay. Khách hàng muốn vay vốn của
NH thì NH mới có thể cho vay (đầu ra tài chính). Khi luồng tiền vận động liên tục
thì NHTM mới có thể tồn tại và thực hiện chức năng trung gian của mình.
Hai là: Tài chính NHTM phụ thuộc vào khả năng tạo tiền của NHTM
Xuất phát từ chức năng tạo tiền là chức năng riêng có của NHTM mà tài
chính NHTM có khả năng làm tăng lượng tiền (cho vay không bằng tiền mặt) hoặc
có thể làm giảm lượng tiền (thu nợ không bằng tiền mặt) nhằm cung cấp phương
tiện thanh toán cho nền kinh tế đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng nhất phục
vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. NHTM tạo tiền bằng cách tạo ra bút tệ
(tiền ghi sổ), khả năng tạo tiền này chỉ có thể thực hiện được nếu vốn mà NHTM
huy động được dưới hình thức tiền gửi đã cho vay được và số tiền cho vay đó
phải luân chuyển trong hệ thống NH. Việc tạo tiền được phát sinh sau khi NHTM
cho vay bằng chuyển khoản trong cùng một hệ thống NHTM. Đơn vị vay vốn
được ghi nợ tài khoản cho vay, đơn vị cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ cho đơn
vị cho vay được ghi có vào tài khoản tiền gửi tại một NH. Như vậy trong trường
hợp cho vay như trên, không có nguồn vốn nhưng NHTM vẫn có thể cho vay
được. Đó là bản chất việc tạo tiền ghi sổ của NHTM. Các bút tệ thực sự thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế trên cơ sở nguồn tiền gửi mới do hệ thống NH tạo ra.

Ba là: Tài chính NHTM có kết cấu vốn đặc thù
Để có vốn hoạt động, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn
vốn tự có là chính, vì vậy tỷ trọng vốn tự có tối thiểu phải đạt được 30% trong tổng
nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, là trung gian tài chính, NH
chủ yếu huy động vốn từ các thành phần kinh tế, vì vậy nợ là phần vốn chiếm tỷ
lệ lớn nhất, thường từ 80-90% tổng vốn kinh doanh còn vốn tự có của NH lại
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (<10%). Như vậy, về phương diện vốn hoạt động, NHTM
kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác mà NH không có quyền sở hữu mà
chỉ có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc nhất định.
Bốn là: Một số hoạt động cơ bản của NH gắn liền với doanh nghiệp
Khách hàng là đối tượng chính trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Nếu
khách hàng có tiềm lực tài chính lớn thì đó là điều kiện để NH huy động được
nhiều, đồng thời việc cho vay đầu tư sẽ có hiệu quả. Thông qua chức năng huy
động vốn và phân phối vốn của mình, tài chính NHTM đã điều tiết vốn, chuyển
vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành sản
xuất kinh doanh bình thường không bị gián đoạn. Chính vì vậy, tư cách, năng lực
hoạt động và sức mạnh tài chính của doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định đến
năng lực và sức mạnh tài chính của NHTM. Nếu doanh nghiệp đầu tư bị thua lỗ,
tài sản nợ tài chính gia tăng, kết quả là các khoản tín dụng không thu hồi được sẽ
kéo theo tình trạng tài chính của NH không lành mạnh.
Năm là: Tài chính NHTM luôn tiềm ẩn rủi ro lớn
Xuất phát từ phương thức “đi vay để cho vay”, NHTM tiến hành các hoạt
động kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động của khách hàng. Điều này
đồng nghĩa với việc tài chính NHTM có thể sẽ phải gánh chịu những rủi ro rất lớn
từ cả hai phía: người cho NH vay và người đi vay của NH. Nếu huy động được
vốn mà không cho vay được sẽ gây nên tình trạng ứ đọng vốn, chi phí kinh doanh
cao vì NH vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền. Dòng tiền không vận động sẽ không
tạo ra lợi nhuận cho NH, thậm chí có thể lỗ. Hoặc nếu cho vay mà không thu hồi
được nợ thì không những vốn tự có của NH mất mà NH còn có nguy cơ không
hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng dẫn đến mất khả năng thanh

toán. Như vậy nếu khách hàng gặp rủi ro tài chính thì lập tức tài chính NHTM sẽ
phải gánh chịu. Điều quan trọng là rủi ro tài chính NHTM có ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nền kinh tế, có nguy cơ lây lan làm suy giảm đến cả hệ thống NH, đẩy
nền kinh tế vào suy thoái.
1.2. Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại
1.2.1. Quan niệm về năng lực tài chính của ngân hàng thương mại
“Tài chính NHTM” là sự vận động của các luồng tài chính gắn liền với quá
trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt
động kinh doanh của NH.
Như vậy, “Năng lực tài chính của NHTM” chính là khả năng tài chính để NH
thực hiện và phát triển các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả.
Năng lực tài chính của NH không chỉ là nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh của NH mà còn là khả năng khai thác, quản lý và sử dụng các
nguồn lực đó phục vụ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh. Năng lực tài chính
không chỉ thể hiện sức mạnh hiện tại mà còn thể hiện sức mạnh tài chính tiềm
năng, triển vọng và xu hướng phát triển trong tương lai của NH đó.
1.2.2. Các tiêu chí phản ánh năng lực tài chính của NHTM trong xu thế hội nhập
Năng lực tài chính của một NH chính là việc dùng khả năng tài chính để tạo
ra lợi nhuận ổn định cao hơn các đối thủ khác hoặc cao hơn mức bình quân của
ngành, hoạt động an toàn và đạt được vị thế tốt hơn trên thương trường. Vì hoạt
động của NHTM gồm: Huy động vốn, tín dụng, đầu tư, hoạt động thanh toán nên
năng lực tài chính của NHTM được thể hiện ở hiệu quả hoạt động kinh doanh
trong các mặt hoạt động trên.
Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính là: i/
Phản ánh đúng bản chất của khái niệm năng lực tài chính của NHTM là khả năng
về tài chính để giúp NH thực hiện các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả
không chỉ trong ngắn hạn mà cả tiềm năng và xu hướng có tính dài hạn bền
vững; ii/ Đáp ứng được mục đích của việc đánh giá là xác định đúng năng lực tài
chính và vị thế so sánh của một TCTD so với các TCTD trên thị trường tài chính
trong và ngoài nước; iii/ Có thể thu thập số liệu thống kê, kế toán và tính toán

được; iv/ Phải phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong hoạt động tài
chính – tiền tệ – NH và hạch toán, kế toán, thống kê.
1.1.3.1. Vốn chủ sở hữu lớn
Vốn chủ sở hữu của NHTM là toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ
NH, của các thành viên trong đối tác liên doanh hoặc các cổ đông trong NH, kinh
phí quản lý do các đơn vị trực thuộc nộp lên…
Vốn chủ sở hữu bao gồm hai bộ phận: Vốn của chủ sở hữu ban đầu và
vốn của chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động.
Vốn chủ sở hữu ban đầu đối với các NHTM chính là vốn do ngân sách Nhà
nước cấp khi mới thành lập (đối với các NHTMNN), do cổ đông góp thông qua
việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu (đối với các NHTMCP) bao gồm cổ phần thường
và các cổ phần ưu đãi. Mức vốn này phải đảm bảo bằng mức vốn pháp định.
Vốn của chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động (Vốn chủ sở hữu
bổ sung) do cổ phần phát hành thêm hoặc do ngân sách Nhà nước cấp bổ sung
trong quá trình hoạt động, do chuyển một phần lợi nhuận tích lũy, các quỹ dự trữ,
quỹ đầu tư, bổ sung vốn điều lệ, phát hành giấy nợ dài hạn…
Trên bảng cân đối của NHTM, vốn chủ sở hữu bao gồm các khoản mục cơ
bản: Vốn điều lệ, lợi nhuận chưa phân phối và các quỹ. Trong đó, vốn điều lệ là
vốn được ghi trong điều lệ NH, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn chủ sở
hữu và có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Trong trường hợp NH phá sản hoặc ngừng hoạt động thì nghĩa vụ thanh
toán nợ sẽ được thanh toán theo thứ tự: các khoản tiền gửi của khách hàng,
nghĩa vụ với Chính phủ và người lao động, các khoản vay và cuối cùng mới đến
phần các chủ sở hữu. Nếu quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn thì người gửi tiền và
người cho vay càng cảm thấy an tâm về NH (với các điều kiện khác là như nhau).
Do đó, vốn của chủ sở hữu được coi là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng.
Đồng thời, vốn chủ sở hữu còn thể hiện khả năng tài chính, năng lực hoạt
động của một NH. Vốn chủ sở hữu ảnh hưởng tới quy mô mở rộng mạng lưới
kinh doanh cũng như quy mô hoạt động của NHTM: Khả năng huy động vốn, khả
năng mở rộng tín dụng, dịch vụ, khả năng đầu tư tài chính, trình độ trang bị công

nghệ.
Phần lớn vốn chủ sở hữu là không sinh lời trực tiếp, chúng được ưu tiên tài
trợ cho xây dựng trụ sở, phương tiện làm việc, đầu tư công nghệ. Phần còn lại
của vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình kinh doanh của NH.
Vốn chủ sở hữu lớn cho phép NH thành lập các công ty con và tham gia
hoạt động đầu tư, liên doanh liên kết với các đối tác chiến lược, hùn vốn vào các
công ty và có thể thôn tính các NH khác theo qui định không được vượt quá 40%
vốn điều lệ và quỹ dự trữ.
Tiêu chuẩn quốc tế quy định NH không được cho vay quá 15% vốn và
thặng dư vốn đối với một khách hàng. Đối với các khoản vay được đảm bảo an
toàn thì giới hạn này là 25%. Với mức vốn lớn đồng nghĩa với việc NH được phép
cho vay những dự án lớn, từ đó làm tăng qui mô tín dụng và tăng qui mô tổng tài
sản.
Vốn chủ sở hữu tác động đến khả năng huy động vốn thông qua chỉ tiêu
Hệ số đòn bẩy.
Tổng tài sản nợ bình quân
Hệ số đòn bẩy =
Vốn chủ sở hữu bình quân
Tỷ lệ này tối đa là 12,5 lần.
Vốn chủ sở hữu tác động đến khả năng mở rộng mạng lưới. Số lượng sở
giao dịch, chi nhánh của NHTM được mở tối đa xác định theo công thức:
Trong đó: n: Số sở giao dịch, chi nhánh tối đa NHTM được mở
C: Số vốn điều lệ hiện có của NHTM
Co: Mức vốn pháp định của NHTMCP tối thiểu phải có theo quy định
tại thời điểm xin mở sở giao dịch, chi nhánh (tỷ đồng)
20 tỷ là số vốn phải tăng thêm để mở một sở giao dịch, chi nhánh.
Hệ thống sở giao dịch, chi nhánh của NHTM là kênh trực tiếp cung cấp các
dịch vụ NH đến khách hàng. NHTM có mạng lưới rộng sẽ giúp cho khách hàng
tiếp cận được với các sản phẩm dịch vụ NH được thuận tiện hơn, giúp NH mở
rộng và chiếm lĩnh thị trường, tạo hình ảnh vị thế của NH. Từ đó tăng doanh thu,

lợi nhuận và tăng năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh cho NH. Theo quy định
trên thì NHTM có vốn điều lệ càng cao và khả năng mở rộng vốn chủ sở hữu lớn
thì số lượng mạng lưới mở càng nhiều và ngược lại.
Ngoài ra, nếu NH có tỷ lệ an toàn vốn cao sẽ cho phép đầu tư vào những
lĩnh vực tương đối rủi ro để thoả mãn nhu cầu sinh lời và an toàn.
Khả năng mở rộng vốn chủ sở hữu lệ thuộc vào triển vọng tăng vốn để đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh của NH. Quy mô vốn
chủ sở hữu thường được tính toán theo quy ước quốc tế.
Bảo đảm an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt
trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Để đảm bảo an toàn cho phần tài sản có
chứa đựng rủi ro, NH cần duy trì một mức vốn tự có cần thiết được đo bằng tỷ lệ
vốn an toàn tối thiểu. Theo quy định của hiệp ước (BASEL), hệ số an toàn vốn
(viết tắt là CAR), thể hiện ở 2 cấp độ:
Tổng số vốn loại 1
(1) Tỷ lệ an toàn vốn =
(CAR I) (Tổng tài sản có điều chỉnh theo mức độ rủi ro)
Tổng số vốn (loại 1 và loại 2)
(2) Tỷ lệ an toàn vốn =
(CAR II) (Tổng tài sản có điều chỉnh theo mức độ rủi ro)
- Ở cấp độ (1) tỷ lệ phải

4%;
- Ở cấp độ (2) tỷ lệ phải

8%
Vốn loại 1 là vốn chủ sở hữu chỉ bao gồm: Vốn tự có (vốn góp, vốn cấp),
lợi nhuận không chia, thu nhập từ công ty con, tài sản vô hình.
Vốn loại 2 là vốn được sử dụng ổn định, bao gồm: Các khoản dự phòng
tổn thất, các khoản nợ cho phép chuyển thành vốn chủ sở hữu, nợ thứ cấp (nợ
có tính chất dài hạn).

Thông thường khi nhắc đến hệ số CAR, hệ số này được hiểu là CAR ở cấp
độ 2. Nếu các NH có qui mô vốn nhỏ mà vẫn mở rộng hoạt động của mình đến
mức làm cho tỷ lệ an toàn vốn bị thấp hơn mức tối thiểu 8% thì rủi ro đối với hoạt
động của NH sẽ là rất lớn. Các cơ quan quản lý NH và thị trường tài chính thường
đòi hỏi vốn NH phải phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho
vay và những tài sản rủi ro khác.
Với những ý nghĩa quan trọng đó có thể nói một NH có mức vốn chủ sở
hữu lớn là yếu tố đảm bảo cho NH hoạt động an toàn, đồng thời thể hiện sức
mạnh tài chính của bản thân NH.
1.1.3.2. Nhóm chỉ tiêu về qui mô và tăng trưởng tài sản
NH kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay và cung ứng các
dịch vụ thanh toán. Vì vậy để tăng trưởng tổng tài sản sẽ không chỉ phụ thuộc vào
sự tăng trưởng của tài sản có mà còn phụ thuộc vào sự tăng trưởng của tài sản
nợ của NH.
Tài sản có
Nội dung hoạt động chủ yếu của một NH thể hiện ở phía tài sản. Quy
mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của NHTM. Tài sản có bao gồm tài sản sinh lời (chiếm từ 80-90% tổng tài sản
có) và tài sản không sinh lời (chiếm từ 10-20% tổng tài sản có). Khi nói đến
tăng trưởng của tổng tài sản là nói đến qui mô của hoạt động tín dụng và hoạt
động đầu tư. Chất lượng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền
vững về tài chính, năng lực quản lý của một NHTM. Đánh giá qui mô, chất
lượng tài sản được thể hiện qua các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng của tổng tài
sản, tính đa dạng hoá trong tài sản, tổng dư nợ, tốc độ tăng trưởng của dư nợ,
tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản có, tỷ lệ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, tình hình đảm
bảo tiền vay…
Bên cạnh hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư cũng góp phần tăng qui mô
tổng tài sản của NH. Các khoản đầu tư trên bảng cân đối kế toán gồm các khoản
mục: Chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư và góp vốn đầu tư dài hạn.
Hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: qui mô, tốc độ tăng

trưởng, tỷ lệ dự phòng giảm giá chứng khoán…
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, các yếu tố về biến động chính trị, sự thay
đổi của chính sách và luật pháp của nước ngoài, sự biến động của các đồng tiền
quốc gia… sẽ ảnh hưởng đến tình hình sử dụng tài sản ở nước ngoài, mối tương
quan giữa tài sản nước ngoài và tài sản ngoại tệ trong tổng tài sản của NH.
Nguồn vốn
Khi qui mô huy động vốn càng tăng cũng làm tăng tổng tài sản. Qui mô,
chất lượng nguồn vốn được thể hiện ở tổng nguồn vốn mà NH huy động được
với chí phí thấp, tính ổn định cao và có cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu về
cho vay, đầu tư. Nâng cao chất lượng nguồn vốn có thể hiểu là các hoạt động liên
quan đến việc cung cấp cho các nhu cầu về tín dụng, đầu tư, thanh khoản với các
nguồn vốn phù hợp về kỳ hạn và lãi suất. Điều này đòi hỏi NH phải cân nhắc các
rủi ro, sự ổn định của nguồn vốn để có thể đầu tư vào các dự án có thời gian dài
cũng như sự chênh lệch giữa chi phí vay vốn với mức lợi nhuận có thể thu được
khi vốn được đầu tư vào tín dụng và giấy tờ có giá…Các chỉ tiêu để đánh giá qui
mô, chất lượng nguồn vốn như: Tổng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn,
cơ cấu nguồn vốn, thị phần huy động vốn, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn trên tài sản
ngắn hạn, lãi suất huy động bình quân…
Muốn tăng trưởng tổng tài sản bền vững đòi hỏi phải nghiên cứu mối
tương quan giữa cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Qua mối tương quan này sẽ đánh
giá được tính tối ưu trong cơ cấu tài sản- nguồn vốn, khả năng phản ứng của NH
trước những hiện tượng bất thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu
cầu rút tiền của công chúng. Sự phối hợp hiệu quả sẽ giúp NH tối đa hoá thu
nhập đồng thời kiểm soát chặt chẽ các rủi ro.
1.1.3.3.Khả năng sinh lời cao và ổn định
Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động, đánh giá hiệu quả kinh
doanh và mức độ phát triển của một NHTM. Đứng trên góc độ từ NHTM, thì một
NHTM có khả năng sinh lời cao sẽ có khả năng tích luỹ cao, sẽ có điều kiện trang
bị, đầu tư công nghệ, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ thu hút khách hàng; mặt
khác đứng trên góc độ nhà đầu tư, người gửi tiền sẽ quyết định giao dịch khi nhìn

thấy NHTM đó có thể an toàn do có thể bù đắp rủi ro, từ đó tạo điều kiện tăng
trưởng tổng tài sản.
Theo thông lệ quốc tế người ta thường đo lường khả năng sinh lời của
NHTM bằng các chỉ tiêu định lượng: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc
độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận được hình

×