CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN
XUẤT
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG
1. Khái niệm
Tín dụng đã xuất hiện ngay từ thời kỳ phong kiến, tự cấp tự túc. Khi đó,
trong nền kinh tế đã có sự phân chia của cải. Phần lớn tư liệu sản xuất nằm
trong tay một số ít địa chủ. Nông dân chiếm đại đa số những không có tư liệu
sản xuất họ phải làm thuê mà vẫn không đủ ăn. Để duy trì cuộc sống, họ phải đi
vay. Giai cấp thống trị nắm trong tay tư liệu sản xuất đã thực hiện quá trình sản
xuất và phát triển theo hướng có lợi cho họ, đó là cho nông dân vay nặng lãi.
Lãi suất cho vay lên tới 200-300% năm và lãi suất này đã chiếm toàn bộ phần
thặng dư. Tín dụng ra đời, thời kỳ này lãi suất cao do sản xuất hàng hoá chưa
phát triển, Nhà nước chưa có sự điều tiết đối với quan hệ tín dụng nên người
cho vay tự ấn định mức lãi suất.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị trường
đã hình thành và phát triển nhiều loại hình sở hữu, có sự phân công lao động, tổ
chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Luôn luôn tồn tại một thực tế là ở bất kỳ
một thời điểm nào trong nền kinh tế cũng xảy ra hiện tượng thừa vốn hay thiếu
vốn tạm thời do tính chất mùa vụ, chu kỳ kinh doanh. Người thiếu vốn cần vay
để giải quyết nhu cầu, người thừa vốn lại muốn cho vay ra để tăng thêm lợi
nhuận. Đây chính là tiền đề tạo ra quan hệ tín dụng.
Vậy tín dụng là gì?
Có quan niệm cho rằng, “tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ
thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng
trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết
hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận”.
Tuy nhiên, sự phát triển và biến đổi là hết sức đa dạng và phong phú.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, có rất nhiều cách thức loại hình
của nghiệp vụ tín dụng. Việc đưa ra một khái niệm như thế sẽ là gò bó và không
linh hoạt. Vì vậy khái niệm tín dụng chỉ nên đưa ra một cách đơn giản như sau:
“Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau một cách tạm thời
dựa trên nguyên tắc có hoàn trả và sự tin tưởng”.
Từ khái niệm trên, ta có thể hiểu tín dụng theo một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, quan hệ tín dụng là quan hệ vay mượn và sử dụng vốn của
nhau giữa các chủ thể kinh tế. Vốn ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng trong đó
bao hàm cả tiền và tài sản. Các chủ thể có thể là hai hoặc nhiều bên cùng tham
gia vào hoạt động tín dụng - điều này giải thích khái niệm đồng tài trợ.
Thứ hai, vốn này chỉ được sử dụng một cách tạm thời nghĩa là có thời
hạn. Thời hạn ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Và khi hết
thời hạn này vốn phải được hoàn trả chủ sở hữu hoặc người cho vay.
Thứ ba, quan hệ tín dụng phải được dựa trên sự tin tưởng. Trên cơ sở có
sự tin tưởng mà một bên sẽ đồng ý cho bên kia sử dụng vốn của mình trong một
thời gian thoả thuận. Trường hợp cho vay không cần bảo đảm chính là đã được
dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Nếu như bên cho vay không tin tưởng bên đi vay
thì họ sẽ yêu cầu đảm bảo bằng tài sản có giá trị tương đương - đây là trường
hợp cầm cố thế chấp bảo lãnh.
Trong quan hệ tín dụng có nhiều loại hình, chủ thể tham gia như: Nhà
nước, ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân người tiêu dùng và với mỗi loại chủ thể
có thể phát sinh nhiều loại quan hệ tín dụng khácn hau như tín dụng Nhà nước,
tín dụng thương mại, tín dụng hợp tác xã, tín dụng tiêu dùng, tín dụng thuê bao.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng mà chủ thể tham gia gồm một
bên là ngân hàng và một bên là phần còn lại của nền kinh tế - gồm tất cả các tổ
chức kinh tế xã hội, Nhà nước, cá nhân dân cư.
Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách:
ngân hàng đóng vai trò là người đi vay khi nó nhận tiền gửi của khách hàng,
phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn ngân hàng Nhà nước và
các ngân hàng khác; ngân hàng đóng vai trò là người cho vay khi nó ứng vốn ra
nền kinh tế.Về tính chất phức tạp của hoạt động cho vay nên khi nói đến tín
dụng người ta thường đề cập đến cho vay mà ít khi đề cập đến mặt thứ hai đó là
đi vay.
Trên cơ sở khái niệm tín dụng trên đây, vậy thì một khoản như thế nào
được coi là có hay không đạt được chất lượng tín dụng?
Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay của ngân
hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ,... để
tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi, trang trải chi
phí và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn T-H-T’ như
trên, ngân hàng sẽ thu hồi vốn gốc và có lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có
hiệu quả Xét về tổng thể ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế, vừa tạo ra
được hiệu quả xã hội.
Trên cơ sở đó, khi cho vay, ngân hàng phải tính toán cân nhắc để vừa đảm
bảo không vi phạm luật, vừa giải quyết được đầu ra. Để thực hiện được điều này
các ngân hàng phải nghiên cứu kỹ về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng
tài chính, mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Đây chính là các cơ sở chủ
yếu cho việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Như vậy chất lượng được hình thành
và đảm bảo từ hai phía: ngân hàng và khách hàng.
Và như thế, hoạt động tín dụng sẽ mang lại hiệu quả khi mà nó càng ngày
càng thực hiện được nhiềm món vay có chất lượng cao, góp phần tích cực cho
sự phát triển không chỉ riêng cho bản thân ngân hàng mà là cả sự phát triển của
nền kinh tế xã hội. Hiệu quả hoạt động tín dụng ngày càng cao thể hiện mức độ
đóng góp của hoạt động ngân hàng đối với xã hội ngày càng lớn. Điều đó cũng
có nghĩa hoạt động tín dụng hiệu quả khi nó đạt được sự tăng trưởng quy mô và
nằm trong tầm quản lý của ngân hàng để giữ ổn định chất lượng tín dụng. Trong
cơ chế thị trường hiệu quả hoạt động tín dụng là điều kiện tiên quyết cho sự tồn
tại và phát triển của ngành ngân hàng mà trước hết là các tổ chức tín dụng là nơi
trực tiếp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
2. Phân loại tín dụng
Tín dụng cho vay tồn tại dưới rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy
nhiên, căn cứ vào một số các tiêu thức mà người ta có thể phân loại các loại
hình như sau:
a- Phân loại theo mục đích:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp
thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn để bổ xung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giốgn cây trồng, lao động,...
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn cho vay để trang trải
các khoản chi phí thông thường của đời sống thông dụng dưới tên gọi là tín
dụng tiêu dùng và phát hành thẻ tín dụng là một ví dụ.
- Thuê mua và các loại tín dụng khác.
b. Phân loại theo thời hạn:
Theo cách này tín dụng cho vay phân làm ba loại.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được
dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn. Đối với ngân hàng thương mại, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ
trọng cao nhất.
- Cho vay trung hạn: Thời hạn cho vay trung hạn thường là cố định.
Trước đây theo thời hạn của Ngân hàng Nhà nước thì thời hạn cho vay trung
hạn là 1-3 năm. Tuy nhiên cho đến nay, để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vay của
các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại đã đưa thời hạn cuối cùng của vay
trung hạn lên 5 năm giải quyết được hai vấn đề. Thứ nhất là đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của doanh nghiệp bởi lẽ đối với, một số tài sản nhất định thời hạn sử
dụng của chúng tương đối dài nên cần phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp
mới có thể hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng. Thứ hai là tránh tình trạng tiền
cho vay của ngân hàng bị chuyển vào nợ quá hạn chỉ vì thể chế và quy định gây
ra, trong khi doanh nghiệp vẫn làm ăn có lãi và có đầy đủ khả năng trả nợ. Còn
đối với các nước trên thế giới, loại cho vay này có thời hạn lên tới 7 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc
đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất.... Trong nông nghiệp, cho vay
trung hạn chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước,
xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...
- Cho vay dài hạn là loại cho vay mà thời hạn của nó là dài hơn đối với
cho vay trung hạn. Loại hình tín dụng này được cung cấp để đáp ứng nhu cầu
dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn
xây dựng xí nghiệp nhà máy mới, các dự án đầu tư phát triển như cơ sở hạ tầng.
- Nghiệp vụ cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho
vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ
trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ ngân hàng.
c. Phân loại theo căn cứ đảm bảo.
- Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối vói
những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh,
quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi nguồn
thu nợ bổ xung.
- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung cấp với điều
kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có
bảo đảm. Sự bảo đảm này căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ
hai, bổ xung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền
vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ.
d. Phân loại theo phương thức hoàn trả tiền vay.
Theo cách này thì khoản cho vay có thể được hoàn trả theo các cách sau:
+Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc
và lãi theo định kỳ ( khoản tiền vay sẽ được trả làm nhiều lần theo nhiều kì nợ).
+Tín dụng phi trả góp: Là loại tín dụng được thanh toán một lần theo kỳ
hạn thoả thuận( Trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn).
+Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: Là loại tín dụng mà người vay có thể
hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập.
Cách thứ nhất là trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn. Hai là khoản
tiền vay sẽ được trả làm nhiều lần theo nhiều kỳ nợ. ở Việt Nam, nếu doanh
nghiệp không trả nợ vào lần sau hoặc lần sau nữa. Trong khi đó ở các nước khác
nếu ngay từ lần trả đầu tiên mà không trả được nợ thì bị coi là nợ quá hạn để có
biện pháp giải quyết.
e. Phân loại theo xuất xứ vốn vay.
Có loại do ngân hàng trực tiếp cho vay, có loại cho vay gián tiếp tức là
ngân hàng mua lại nợ từ chủ nợ khác.
f. Phân loại theo hình thức giá tự có .
Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng
được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
Hai là cho vay bằng tài sản - loại này được áp dụng phổ biến dưới hình
thức tài trợ thuê mua.
3. Chức năng và vai trò của tín dụng ngân hàng
a.Chức năng của tín dụng ngân hàng:
*Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ.
Thực hiện chức năng này tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi
trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ xung
vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm đầu tư cho sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Hiện nay vốn tín dụng là một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp.Trong phạm vi
toàn bộ nền kinh tế, tín dụng ngân hàng là hình thức phân phối vốn gián tiếp.
*Chức năng tiết kiệm tiền mặt.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng
và phát triển đa dạng. Từ đó, nó thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng
tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này sẽ làm giảm chi
phí lưu thông giấy bạc ngân hàng, đồng thời cho phép Nhà nước điều tiết một
cách linh hoạt khối lượng tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ cho sản
xuất và lưu thông hàng hoá phát triển .
*Chức năng phản ánh tổng hợp và kiểm soát quá trình hoạt động của nền
kinh tế.
Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín
dụng có khả năng phản ánh một cách tổng hợp nhạy bén tình hình hoạt động
của nền kinh tế.Do đó tín dụng còn là một công cụ quan trọngcủa Nhà nước để
kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược hoạch định, phát triển
kinh tế. Mặt khác, trong khi thực hiện chức năng tiết kiệm tiền mặt,gắn liền với
việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tín dụng có thể
phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản phẩm quốc dân trong nền kinh
tế.
b. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng là một lĩnh vực khá rộng, bao quát một không gian nhiều chiều
(ngang dọc, trên dưới, trong ngoài) của chính sách tiền tệ quốc gia. Hệ quả của
hoạt động tín dụng có quan hệ biện chứng với tiến trình vận hành chiến lược
phát triển kinh tế -xã hội và hội nhập thị trường thế giới. Xét về tầm quản lý vĩ
mô, tín dụng là một phạm trù gắn chặt với xu hướng “tạo tiền”, sự tạo tiền này
sẽ được xoá đi khi hoàn trả tín dụng đến hạn. Chính vì vậy, tín dụng ngân hàng
đóng vai trò rất quan trọng:
+Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả.
+Tín dụng ngân hàng là công cụ của Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ
lưu thông trong nền kinh tế.
+Tín dụng ngân hàng thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của
nền kinh tế .
+Tín dụng ngân hàng góp phần bình ổn giá cả trong nền kinh tế .
+Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, mở rộng quan hệ lưu thông hàng hoá quốc tế.
+Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi
động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế.
+Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho Ngân
hàng Thương Mại.
Với những đóng góp vô cùng to lớn ấy, có thể nói hoạt động tín dụng là
một trong những hoạt động to lớn, chủ yếu của ngân hàng và trên thực tế chỉ ra
rằng hoạt động tín dụng đã mang lại cho ngân hàng số lợi nhuận khổng lồ, tạo
điều kiện cho chính ngân hàng đó phát triển. Song bất cứ hoạt động nào cũng
tồn tại hai mặt, tín dụng là điều kiện để ngân hàng phát triển nhưng chính nó
cũng có thể đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản, gặp những rủi ro lớn. Do đó việc
xem xét rủi ro tín dụng trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết.
II. KHÁI NIỆM HỘ SẢN XUẤT
Trong các văn bản pháp luật, hộ sản xuất được xem như một chủ thể
trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn
vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế
chung. "Hộ sản xuất" là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn
tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Theo phụ lục 1 - văn
bản 499A ngày 2/9/1993 của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được quan
niệm là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về kết quả h oạt động sản xuất kinh doanh của mình. Quan
niệm về hộ sản xuất theo văn bản này và theo quyết định 180 của NHNo &
PTNT Việt Nam thì hộ sản xuất gồm các đối tượng sau:
+ Hộ chuyên sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp có tính chất tự sản, tự tiêu
do cá nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
+ Hộ cá thể, tư nhân làm kinh tế hộ gia đình theo nghị định 29 ngày
29/3/1998.
+ Hộ là thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh
nghiệp nhà nước.
+ Các cá nhân là nhóm kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT ngày
2/3/1992.
+ Các doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp tư nhân.
Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của hộ sản xuất nói trên là các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp ở nông thôn, thị trấn, thị xã
ven đô và thường khi nói đến hộ sản xuất thì người ta thường nghĩ đến hộ nông
dân là chủ yếu vì hộ nông dân chiếm phần lớn dân số cả nước và chiếm đa số
lực lượng lao động trên toàn lãnh thổ.
* Khái niệm tín dụng hộ sản xuất.
Tín dụng hiểu theo các đơn giản là quan hệ kinh tế trong đó "người này"
chuyển cho "người khác" quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật. Với
những điều kiện mà hai bên thoả thuận (về số lượng hay mục đích sử dụng, thời
hạn hoàn trả, phương thức hoàn trả, lãi phải trả, đảm bảo). Tuỳ từng chủ thể để
tham gia quan hệ tín dụng mà người ta phân thành tín dụng thương mại, tín
dụng ngân hàng... Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ tín dụng giữa một
bên là ngân hàng với một bên là các tổ chức kinh tế và dân cư. Nó bao gồm hai
mặt hoạt động chính là huy động vốn và cho vay. Do đặc điểm riêng của mình,
tín dụng ngân hàng có ưu thế hơn các hình thức tín dụng khác về khối lượng,
thời hạn và phạm vi đầu tư. Nguồn vốn của ngân hàng là tiền nên thích hợp với
mọi đối tượng xin vay nên có thể đầu tư vào nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế khác
nhau. Vì lý do trên tín dụng ngân hàng là hình thức quan trọng nhất trong các
hình thức tín dụng hiện tại và là hình thái tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị
trường.
Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất là quan hệ tín dụng giữa một bên
là ngân hàng và một bên là hộ sản xuất. Hình thức tín dụng này đã có từ lâu trên
thế giới nhưng ở Việt Nam nó chỉ thực sự xuất hiện khi có nghị quyết 10 của Bộ
chính trị với sự thừa nhận quyền tự chủ của thành phần kinh tế cá thể. Sau khi
được thừa nhận và cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường kinh tế hộ
sản xuất đã phát triển nhanh chóng và đã đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế
nói chung, đặc biệt là lương thực thực phẩm. Có được thành công trên phải nói
đến sự đóng góp không nhỏ của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất.
Điều này được thể hiện ở vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất.
III. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG VIỆC PHÁT
TRIỂN KIN TẾ HỘ SẢN XUẤT
Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển
của nền kinh tế hàng hoá. Đối với Nhà nước thì ngân hàng là một công cụ đắc
lực, hữu hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với các doanh nghiệp, các cá nhân thì
tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm thời về vốn sản xuất.
Đặc biệt trong cơ chế quản lý mới hiện nay, Nhà nước đã giao quyền sử dụng
đất lâu dài cho từng hộ sản xuất. Mỗi hộ sản xuất giờ đây đã trở thành một hộ
kinh tế tự chủ, phải tự tính toán mức chi phí bỏ ra, khả năng thu thập, xác định
mức độ vốn cần đầu tư cho sản xuất, khả năng vốn tự có, số vốn cần phải đi vay.
Do đó trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng có vai trò rất lớn đối với
kinh tế hộ sản xuất. Sau đây là một số vai trò chủ yếu của tín dụng ngân hàng
trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất.
1. Đáp ứng yêu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất
liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định, hiện tượng tạm
thời thừa thiếu vốn thường xảy ra đối với các tổ chức kinh tế nói chung và đối
với hộ sản xuất nói riêng. Hoạt động đầu tư tín dụng ngân hàng cho hộ sản xuất
đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu