Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.79 KB, 30 trang )

Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của
ngân hàng thương mại
1.1. tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu và nhu cầu tài trợ
cho xuất nhập khẩu
1.1.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào
nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có
sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...mà mỗi quốc gia
có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu
quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày một đa dạng ở
trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng
cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu
thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm
nảy sinh nhu cầu mua bán trao đổi quốc tế (hay thương mại quốc tế).
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra
ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh
tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở
mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và
nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm
thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động
thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những
nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ
thuật lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó
tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những
điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng
hơn.
Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua
một số khía cạnh cơ bản sau:


1* Xuất khẩu
- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều
kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các
ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định
và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ
tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh doanh, sự quan
tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công nghệ cũng như
nâng cao chất lượng của sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn
nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra.
2* Nhập khẩu
Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước
và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với
chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt
nhất, từ đó tạo sự ổn định về cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định
kinh tế vĩ mô.
- Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ
thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
- Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc
cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng
như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường.
Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối
với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế.
1.1.1.2. Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu
Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng

hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các
nước phát triển, giữa các nước đang phát triển, giữa các nước phát triển và
đang phát triển...) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài
nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa
các nước phát triển và đang phát triển.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát
triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công
nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản
xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ
thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã, sản xuất và
cung cấp công trình.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát
triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ
chế... Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu
cầu vốn tạm thời.
Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất
nhập khẩu ta sẽ xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu
hình thành trong cùng một hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá máy móc, thiết
bị kĩ thuật, công nghệ.
3* Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường
kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ
thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể:
+ Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại
diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Đây là giai đoạn đầu
tiên và có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các bước sau của cả hoạt
động xuất khẩu. Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia phải thực hiện
các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng
mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài

liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những
hoạt động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài
chính còn hạn hẹp.
+ Giai đoạn đưa ra đề nghị chào hàng: Các đề nghị chào hàng trong
khuôn khổ đấu thầu quốc tế thường được để kèm theo bản bảo đảm đấu thầu
của một ngân hàng có uy tín trong giao dịch quốc tế. Do vậy các doanh nghiệp
xuất khẩu cũng cần được sự giúp đỡ của ngân hàng.
+ Giai doạn kí kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có
uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc
bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng
hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận.
Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu
là người nước ngoài đang gặp khó khăn và không có khả năng đặt cọc từ
nguồn vốn riêng của mình thì nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của
mình một tài trợ đặt cọc có lợi cho đối tác thương mại của mình.
+ Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu
sẽ tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như,
nhà máy, xí nghiệp... việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt
cọc.
+ Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh
toán tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu
cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh
toán giữa chừng. Ngoài ra, với các mặt hàng lớn như máy móc công nghệ... thì
nhiều khi nhà xuất khẩu còn cần phải được tài trợ cho các chi phí xây dựng
kho bãi, chuẩn bị mặt bằng sản xuất, đào tạo người sử dụng máy móc... ở nước
nhập khẩu.
+ Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể
nảy sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo
điều kiện cung ứng.
+ Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá

được bàn giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp
chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán.
+ Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu
được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
+ Thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được
thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh
toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp
nhận được. Nhu cầu tài trợ ở giai đoạn này thường lớn để đảm bảo vốn cho
quá trình tái sản xuất khi mà người nhập khẩu chưa đến hạn phải thanh toán.
4* Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để
đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu
tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về
phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt.
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập
khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác
nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các
nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu.
Ngoài ra, nhiều khi nhà nhập khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng ra bảo đảm
để tìm nguồn tài trợ ở nước ngoài.
- Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này
nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho
nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu
tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện
cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm
đối với các nhà nhập khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất
trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường

nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ
hoặc có thể tài trợ được.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán
tiếp thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian
từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu ở trên ta có thể
khẳng định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ
rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới
đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho xuất nhập khẩu.
1.1.2. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản,
do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những
nguồn tài trợ thường được sử dụng là:
- Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ
được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các
công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được
ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết
khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối
phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp nhận hay
bảo đảm.
- Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa
nộp, phải trả cán bộ công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây
là nguồn tài trợ mang tính thời điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định.
- Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có
thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần
hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên
và phần lợi nhuận để lại cộng khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có
thể giảm được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài
trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ

lại lợi nhuận cao.
- Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ
có thể phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy
động và sử dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể
không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ
hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm hệ số nợ của
doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện
nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước ta, do thị trường tài
chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc
nếu có sử dụng thì vẫn khó có thể đem lại hiệu quả cao.
- Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá
phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định
cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng
phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị
trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó
phát huy tốt được ưu thế của nó.
- Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp
thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho
vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm
bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu
vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết
bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể
áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc
điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất
cũng như thời hạn.
- Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư
nước ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay

các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó
nguồn tín dụng ngân hàng nắm giữ một vị trí đặc biệt bởi nó có thể được cung
cấp thông qua nhiều hình thức cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau và các
hình thức tài trợ khác muốn thực hiện được phần nào cũng cần sự hỗ trợ từ
phía ngân hàng.
1.1.3. Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.3.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động
xuất nhập khẩu
5* Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế
học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội
giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua
sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc
hiện vật.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng
bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên
lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ
quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả
năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không
ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có
lĩnh vực kinh tế đối ngoại mà cụ thể hơn là hoạt động xuất nhập khẩu, nó đã
trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động xuất nhập khẩu
của các quốc gia.
6* Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập
khẩu
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được
thể hiện qua các mặt sau:

- Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một
nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu mua dự
trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thông thường...phục vụ cho
quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của doanh nghiệp.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trên thị trường .
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn ra
thuận lợi nhanh chóng hơn.
- Thứ tư, do sự cần thiết phải có được những giao dịch dễ dàng ít tốn kém,
người bán cũng như người mua đều cần phải có sự tài trợ của ngân hàng
thông qua các hình thức tín dụng như cho vay mở thư tín dụng, chuyển trả
tiền trực tiếp...
- Thứ năm, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự
có mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn
chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung
cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín dụng của ngân
hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan trọng trong khi
khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
- Thứ sáu, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của
nước ngoài cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn
tài trợ của các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được
thực hiện qua các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng nước sở
tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng có
ý nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có
chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp
cho các nhà xuất nhập khẩu những khoản tín dụng lớn với lãi suất ưu đãi mà
nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của
mình.

1.1.3.2. Các hình thức và qui trình tín dụng xuất nhập khẩu của ngân
hàng thương mại
Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều hình
thức khác nhau và tuỳ trình độ phát triển của ngân hàng và những qui định
của pháp luật mà các ngân hàng lựa chọn áp dụng các hình thức cho phù hợp.
Dưới đây ta sẽ xem xét một số hình thức tín dụng xuất khẩu và tín dụng nhập
khẩu thông dụng.
1.1.3.2.1.Tín dụng xuất khẩu
Ngân hàng thương mại cho các cơ sở xuất khẩu vay dưới các hình thức
như cho vay thông thường, cho vay trên cơ sở hối phiếu, cho vay trên cơ sở
phương thức thanh toán nhờ thu, cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ ...
7* Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản
tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay phải
trả đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là hình thức tín dụng truyền thống, về kỹ thuật và
phương pháp cho vay giống như các dạng tín dụng nội địa tương ứng thông
thường khác. Nó bao gồm các phương thức như cho vay một lần, cho vay theo
hạn mức tín dụng và cho vay theo hợp đồng tín dụng tuần hoàn. Đối với các
nhà xuất khẩu hình thức tín dụng này ngoài việc được sử dụng cho các mục
đích thu mua sản xuất, chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động nó
còn được sử dụng để trang trải các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất
như: phí thuê tàu, thuế xuất khẩu...
8* Cho vay trên cơ sở hối phiếu
Nhà xuất khẩu khi cần tiền có thể vay ngân hàng bằng cách đem chiết
khấu các hối phiếu chưa đến hạn trả tiền (số tiền vay bằng cách chiết khấu hối
phiếu thường nhỏ hơn số tiền ghi trên hối phiếu. Số chênh lệch là lợi tức chiết
khấu). Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước bởi vì việc chiết khấu
thường dễ dàng và ngay khi giao chứng từ về hàng hoá người xuất khẩu đã có
thể sử dụng được lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu để tái đầu tư.

Thời hạn vay bằng cách chiết khấu hối phiếu là thời hạn còn lại chưa đến
hạn thanh toán của hối phiếu. Người hoàn trả tiền vay và lợi tức là người có
nghĩa vụ trả tiền ghi trên hối phiếu.
Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi
đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu. Giá trị chiết khấu thường được
xác định ở các ngân hàng theo công thức:
Lck
Tck = M x (1- x t ) - P
360
Trong đó: Tck: Giá trị chiết khấu
M: Mệnh giá hối phiế
P: Lệ phí
t: thời gian chiết khấu (ngày)
Lck: lãi suất chiết khấu theo năm
Trong các yếu tố trên thì lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn
cả. Tỷ lệ này phụ thuộc các yếu tố:
- Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu
- Thời hạn thanh toán
- Giá trị hối phiếu...
9* Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá
Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ
sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này
ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh
tương tự như chiết khấu hối phiếu. Tỉ lệ chiết khấu phụ thuộc vào phương
thức chiết khấu:
- Chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi: là ngân hàng sau khi thực hiện chiết
khấu bộ chứng từ, sẽ quay lại truy đòi nhà xuất khẩu nếu bên nước ngoài từ
chối thanh toán, lãi xuất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp.
- Chiết khấu miễn truy đòi: là trường hợp ngân hàng mua đứt bộ chứng
từ, nếu bên nước ngoài không thanh toán thì ngân hàng chiết khấu chịu rủi ro,

không được truy đòi lại khách hàng. Tỉ lệ chiết khấu này thường cao.
10* Tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu các doanh
nghiệp cũng có thể đề nghị ngân hàng tạm ứng cho một nghiệp vụ xuất khẩu
cho đến khi thu được lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức tín dụng
này bao gồm hai hình thức cơ bản sau:
- Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ : Sau khi
lập song bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ liên
quan khác, nhà xuất khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền.
Ngân hàng của nhà xuất khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu
(hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị chỉ giao chứng từ khi đã thanh toán
(điều kiện D/P: Documents against Payment) hoặc chấp nhận một hối phiếu
đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A: Documents against Acceptance).
Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung
gian, thực hiện và thừa hành theo uỷ nhiệm để giảm bớt những rủi ro về tiêu
thụ, thanh toán cũng như về cung ứng. Tuy nhiên, từ khi gửi các chứng từ tới
ngân hàng xuất khẩu cho tới khi xuất trình với người thanh toán thường mất
một khoảng thời gian nhất định (đặc biệt khi thoả thuận ngày thanh toán
muộn hơn). Điều này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm
thời. Khi đó họ có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước một phần trị giá với bộ

×