Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Lao động nữ ở nông thôn Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.63 KB, 122 trang )

Lời nói đầu
Phụ nữ là một lực lượng lao động quan trọng trong lực lượng lao động xã
hội, là một nguồn lực tiềm tàng trong sự phát triển. Họ đã và đang tham gia tích
cực vào các hoạt động sản xuất và đóng một vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế ở nông thôn.
Nghiên cứu về người phụ nữ nói chung và lao động nữ nông thôn nói riêng
là một vấn đề đang được đặt ra và có ý nghĩa to lớn thúc đẩy sự phát triển của
nông nghiệp và nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Do vậy, trong luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu “Lao động nữ
nông thôn Việt nam - Thực trạng và giải pháp”.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ, động
viên nhiệt tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bè bạn.
Tác giả xin chân thành cám ơn:
- Khoa Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội đã tạo mọi thuận lợi cho tác giả
hoàn thành chương trình Cao học và bảo vệ luận văn. Tác giả xin chân thành cảm
ơn các thầy cô giáo trong Khoa, đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo TS.
Phạm Văn Dũng - người hướng dẫn khoa học, đã hướng dẫn và giúp đỡ tác giả
hoàn thành luận văn này.
- Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển
(CGFED) và GS. Lê Thị Nhâm Tuyết đã tạo điều kiện cho tác giả tham gia các dự
án nghiên cứu để có tư liệu viết nên luận văn.
- Các đồng nghiệp, bè bạn, người thân đã chia sẻ công việc, giúp đỡ tác
giả hoàn thành luận văn.
Tác giả
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 76,5% dân số sống ở nông thôn. Vì vậy,
trong quá trình phát triển đất nước thì phát triển nông nghiệp, nông thôn là một
nhiệm vụ rất quan trọng. Để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, bên cạnh
các chủ trương, chính sách xã hội phù hợp, cần có những nguồn lực hỗ trợ cho
quá trình thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn như tài chính, kỹ


thuật - công nghệ... Đặc biệt phải kể đến một nguồn lực quan trọng, đó là nguồn
nhân lực, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Nói
đến chủ thể của quá trình này, không thể không nhấn mạnh đến nguồn nhân lực
nữ ở nông thôn.
Phụ nữ là một lực lượng lao động quan trọng trong lực lượng lao động xã hội ở
nước ta hiện nay (chiếm 50,84% so với tổng số dân; trong lĩnh vực nông nghiệp
và lâm nghiệp, lực lượng lao động nữ chiếm 52,8%). Họ đã và đang tham gia
tích cực vào các hoạt động sản xuất và đóng một vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế ở nông thôn. Tuy nhiên, họ cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong
quá trình lao động sản xuất, từ chính bản thân họ (trình độ chuyên môn kỹ thuật,
sức khoẻ,...) hay những khó khăn hạn chế khách quan (như việc tiếp cận với các
nguồn vốn, việc làm, các dịch vụ xã hội...). Vấn đề đặt ra là cần đánh giá đúng
thực trạng của lực lượng lao động nữ ở nông thôn hiện nay, đồng thời tìm hiểu
những khó khăn và hạn chế của họ, từ đó đề xuất một số giải pháp có tính khả thi
nhằm phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng lao động này và qua đó thúc đẩy sự
nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng chuyên môn hoá, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, chúng tôi chọn đề tài cho luận văn thạc sĩ:
"Lao động nữ ở nông thôn Việt Nam - Thực trạng và giải pháp".
2
2. Tình hình nghiên cứu
Khi nói đến lao động nữ, người ta thường nhắc đến cuốn sách “Vai trò của phụ
nữ trong phát triển kinh tế” của Ester Boserup (1970). Theo nhà khoa học nữ này
thì cho đến những năm 1970, những nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù phụ nữ
thường là những người có đóng góp chính vào năng suất chủ yếu của cộng đồng,
nhất là trong nông nghiệp, nhưng những đóng góp của họ không được tính đến
trong thống kê quốc dân cũng như trong kế hoạch hoá và thực hiện các dự án
phát triển. Cuốn sách của E. Boserup đã được coi là lần đầu tiên đặt lại vấn đề
trong cách đánh giá về vai trò của phụ nữ, qua cuốn sách của mình, bà đã chứng
minh vai trò kinh tế của phụ nữ thông qua nghiên cứu phụ nữ nông dân vùng Tây

Sahara, châu Phi. Điều này trước những năm đầu của thập kỷ 70, các nhà tạo lập
chính sách và trong giới nghiên cứu kể cả những nhà khoa học nữ đã không thấy
hết và do vậy không công nhận một cách đúng đắn vai trò kinh tế rất quan trọng
của phụ nữ.
Ở Việt Nam công trình nghiên cứu về phụ nữ đầu tiên xuất bản được phát hành
rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng là cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại”
của Lê Thị Nhâm Tuyết (1973, 1975). Nhìn từ góc độ nhân học xã hội, tác giả đã
phân tích trong cuốn sách những nét cơ bản về các truyền thống của phụ nữ Việt
Nam trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt về vai trò truyền thống của
phụ nữ Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp. Cuốn sách đã trình bày nhiều tư
liệu dân tộc học - lịch sử có giá trị khoa học, gây tiếng vang trong giới nghiên
cứu. Một phần tư thế kỷ sau, tác giả cuốn sách “Phụ nữ Việt Nam qua các thời
đại” lại cho xuất bản cuốn “Hình ảnh Phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI”
[66]. Như lời giới thiệu cuốn sách của GS. Vũ Khiêu: Cuốn sách này đã thu thập
những ý kiến khác nhau xung quanh những vấn đề lớn của người phụ nữ Việt
Nam và đặc biệt là giới thiệu các kết quả thu được qua các cuộc điều tra khoa
học. Cuốn sách tập trung vào những đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam trong
lịch sử, trong lao động nghề nghiệp, trong gia đình, trong quản lý xã hội.
3
Khoảng mươi năm trở lại đây - nhất là từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII -
có nhiều cuốn sách xuất bản với nội dung đề cập đến vấn đề phụ nữ với phát
triển kinh tế hoặc bàn về phụ nữ với phát triển nông nghiệp, nông thôn. Để tiện
theo dõi, chúng tôi chia theo một số chủ đề như sau:
* Phụ nữ và phân công lao động theo giới:
Phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân (Lê Ngọc Văn, 1999);
Phân công lao động trong kinh tế hộ gia đình nông thôn - vấn đề giới trong cơ
chế thị trường (Vũ Tuấn Huy, 1997); Phân công lao động nội trợ trong gia đình
(Vũ Tuấn Huy và Deborah Carr, 2000); Phân công lao động theo giới trong gia
đình ngư dân đánh bắt hải sản (Lê Ngọc Văn, 1999); Vấn đề giới trong kinh tế
hộ: tìm hiểu phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền

Trung (Lê Tiêu La và Lê Ngọc Hùng, 1998);
* Phụ nữ với phát triển ngành, nghề:
Tìm hiểu cơ cấu kinh tế và khả năng phát triển ngành nghề của phụ nữ nông
thôn (Lê Ngọc Lân, 1997); Vấn đề ngành, nghề của phụ nữ nông thôn với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (Lê Thi, 1999);
Người buôn bán nhỏ ở vùng trung du Bắc bộ (Bùi Quang Dũng, 2000); Những
vấn đề chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn hiện nay (Đỗ Thị Bình,
1997); Phụ nữ nghèo nông thôn trong cơ chế thị trường (Đỗ Thị Bình và Lê
Ngọc Lân, 1996); Vấn đề tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị người phụ
nữ hiện nay (Lê Thi, 1991); Lao động nữ di cư từ nông thôn ra thành phố (Hà
Thị Phương Tiến - Hà Ngọc Quang, 2000)
Những công trình trên đây nghiên cứu khá sâu sắc từng khía cạnh của vấn đề phụ
nữ với phát triển kinh tế nhưng chưa có công trình nào thực sự tập trung vào
nghiên cứu vấn đề lao động nữ ở nông thôn hiện nay. Nghiên cứu đề tài, Tác giả
hy vọng đem lại sự đóng góp nhỏ bé vào việc nghiên cứu một nguồn lực và là
một chủ thể quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
4
3. Mục đích nghiên cứu
Xem xét thực trạng lực lượng lao động nữ ở nông thôn nước ta hiện nay
để thấy được những tiềm năng và trở ngại, hạn chế của họ, từ đó đề ra các giải
pháp để phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng lao động này trong sự nghiệp
phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu vấn đề lao động nữ ở
nông thôn Việt Nam, không chỉ với tư cách là một nguồn lực quan trọng, mà còn
là chủ thể quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn.
Luận văn nghiên cứu vấn đề lao động nữ ở nông thôn với bối cảnh kinh tế
- xã hội của nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử được sử dụng trong luận văn, trong đó các phương pháp cụ thể
sau đây được sử dụng phổ biến: logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống
kê...
Luận văn cũng khai thác và sử dụng những tài liệu, số liệu đã được công bố,
đồng thời cũng sử dụng các kết quả nghiên cứu trong các đề tài khoa học mà tác
giả đã trực tiếp tham gia từ năm 1996 đến nay.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá trên phương diện lý thuyết những vấn đề cơ bản về lao động nữ
nông thôn ở các nước đang phát triển, những đặc điểm và các nhân tố ảnh
hưởng.
5
- Làm rõ thực trạng của lực lượng lao động nữ ở nông thôn nước ta hiện nay,
những thuận lợi và khó khăn của họ.
- Đưa ra được các giải pháp nhằm khai thác, sử dụng và phát huy có hiệu quả
nguồn lực này trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Vài nét về lao động nữ nông thôn ở một số nước đang phát triển
Chương 2: Thực trạng lao động nữ ở nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát huy vai trò lao động nữ ở nông thôn
trong những năm tới
6
CHƯƠNG 1
VÀI NÉT VỀ LAO ĐỘNG NỮ NÔNG THÔN
Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1.1Đặc điểm của lao động nữ nông thôn ở các nước đang phát triển
1.1.1 Lao động nữ nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động
Lao động nữ nông thôn luôn chiếm một tỷ lệ khá cao trong lực lượng lao động

và điều này đúng trong hầu hết các nhóm tuổi. Những nghiên cứu từ các quốc
gia trong khu vực châu Á cho thấy: tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của phụ nữ
theo các nhóm tuổi khác nhau thường rất cao. Một vài số liệu thống kê sau đây
sẽ chứng minh cho nhận định đó:
Bangladesh: Có 67,3% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động so với
82,5% nam giới. Tỷ lệ này của phụ nữ nông thôn cao gấp hơn 2 lần phụ nữ thành
thị (67,3% và 28,9%). Theo nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nhiều
nhất ở độ tuổi 30-49, tiếp đó là ở các nhóm tuổi 25-29, 50-54. Đáng chú ý rằng,
gần 61% phụ nữ nông thôn ở độ tuổi 60-64 vẫn tham gia lực lượng lao động, cao
gấp gần 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi. Đặc biệt phụ nữ nông thôn trên
65 tuổi vẫn có 36% tham gia lực lượng lao động.
Bảng 1.1: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo nhóm tuổi, giới tính và nơi cư
trú, 1989 (%)
Nhóm tuổi Bangladesh Thành thị Nông thôn
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
Tổng số 80.9 61.5 72.7 28.9 82.5 67.3
10-14 40.9 31.3 21.8 13.9 44.3 34.5
15-19 70.7 55.2 52.4 25.3 74.3 61.5
20-24 82.4 64.9 68.1 29.4 85.6 71.4
25-29 96.5 68.9 92.8 27.8 97.1 76.9
30-34 98.7 74.9 97.9 37.5 98.9 82.2
35-39 98.4 78.0 98.5 40.6 98.4 84.3
40-44 98.3 76.9 98.3 38.1 98.3 82.8
45-49 98.3 75.6 97.8 36.1 98.9 81.4
50-54 96.8 73.5 94.4 43.8 97.1 77.5
55-59 95.7 67.8 92.8 36.3 96.1 72.7
60-64 89.4 57.9 79.2 31.8 90.9 60.6
7
65+ 65.2 33.5 55.9 14.7 66.3 35.8
Nguồn: United Nation (1995), Women of Bangladesh - A Country profile

Khác với Bangladesh, ở Trung Quốc, nhóm phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng
lao động cao nhất ở độ tuổi 20-29, tiếp đó là nhóm tuổi 30-39 và giảm dần theo
các nhóm tuổi cao hơn. Điểm tương đồng với Bangladesh là ở nông thôn Trung
Quốc phụ nữ độ tuổi 60-64 vẫn còn 32,53% tham gia lực lượng lao động, con số
này cao gấp 2,5 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi.
Bảng 1.2: Tỷ lệ lao động theo tuổi và giới tính: Điều tra dân số
năm 1982 và 1990 (%)
Nhóm tuổi Điều tra 1982 Điều tra 1990
Trung Quốc Thành thị Nông thôn
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
15-19 70.55 77.82 61.38 68.22 39.97 42.13 68.21 76.43
20-24 96.13 90.34 92.38 89.62 81.41 79.90 96.55 93.02
25-29 98.59 88.77 97.87 90.79 95.51 87.78 98.96 92.10
30-34 98.83 88.77 98.58 90.93 97.36 89.76 99.17 91.49
35-39 98.86 88.46 98.83 91.02 98.06 89.52 99.16 91.76
40-44 98.63 83.34 98.66 88.12 98.18 85.22 98.86 89.31
45-49 97.47 70.57 97.68 81.01 96.91 73.37 97.99 84.09
50-54 91.42 50.90 93.32 61.96 89.93 41.70 94.76 70.69
55-59 82.96 32.87 83.60 44.94 72.98 21.40 88.05 54.16
60-64 63.66 16.37 63.18 27.21 38.52 12.00 72.53 32.53
65+ 31.11 4.73 32.59 7.95 18.96 3.58 37.02 9.33
Nguồn: United Nation (1997), Women in China - A Country profile
Một đặc điểm là phụ nữ thường làm trong nhiều lĩnh vực khác nhau hơn là nam
giới. Ở các nước phát triển, hầu hết các phụ nữ không tham gia sản xuất nông
nghiệp thì tham gia vào các công việc dịch vụ, nhưng ở các nước đang phát triển,
lực lượng nữ tham gia sản xuất trong các nhà máy đang tăng lên ngang bằng với
số phụ nữ làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ. Phụ nữ tham gia sản xuất trong
các lĩnh vực công nghiệp thường tập trung ở một số ngành: 2/3 lực lượng lao
động trong ngành may mặc trên thế giới là phụ nữ, số lượng phụ nữ tham gia
lĩnh vực may mặc chiếm 1/5 số lượng phụ nữ đang lao động trong lĩnh vực công

8
nghiệp. Trong khi đó nam giới lại chiếm tỷ phần lực lượng lao động cao hơn ở
các ngành như: mỏ, cơ khí, xây dựng, giao thông...
Mặt khác, do cầu về lao động tăng bền vững trong thời kỳ tăng trưởng nhanh
cũng đã thu hút một lượng lớn phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động. Các
ngành kinh tế xuất khẩu quan trọng như may mặc và điện tử cũng dựa vào nguồn
lao động nữ kỹ năng thấp, tuy nhiên phần lớn số lao động này đều biết đọc, biết
viết. Năm 1970, phụ nữ chiếm 26-31% lực lượng lao động tại Singapore,
Indonesia và Malaysia (bảng sau). Cho tới năm 1995, tỷ lệ lao động nữ tại các
nước này đã tăng lên, từ 37-40%. Tại Hàn Quốc, tỷ lệ phụ nữ đi làm ăn lương
tăng từ 65% năm 1965 tới 81% năm 1992 và trong ngành khai khoáng và chế
tác, tỷ lệ lao động nữ so với lao động nam tăng từ 0,37 lên tới 0,68
Bảng 1.3: Tỷ lệ phụ nữ trong lực lượng lao động ở Đông Á (% trong tổng số)
Nền kinh tế 1970 1980 1995
Hồng Kông, Trung Quốc 35 34 37
Indonesia 30 35 40
Hàn Quốc 32 39 40
Malaysia 31 34 37
Philippines 33 35 37
Singapore 26 35 39
Thái Lan 48 47 46
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2001) Đưa vấn đề giới vào phát triển
Việc mở rộng sự tham gia của lao động nữ phần lớn được bắt nguồn từ quá trình
tái cơ cấu sản xuất và việc làm tại các khu vực truyền thống. Tại Indonesia, Hàn
Quốc, Malaysia và Thái Lan, tỷ lệ phụ nữ làm nghề nông đã giảm đi, còn tỷ lệ
phụ nữ làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ lại tăng lên (xem bảng).
Tại Hồng Kông nơi mà nông nghiệp không giữ vị trí quan trọng, sự chuyển dịch
lại xuất hiện từ công nghiệp sang khu vực dịch vụ. Ở Đài Loan, Trung Quốc, các
ngành công nghiệp trong nước đòi hỏi kỹ năng cao hơn, bởi vì các công ty đòi
9

hỏi nhiều lao động giản đơn đã chuyển ra nước ngoài, chủ yếu là vào Trung
Quốc đại lục và sang Đông Nam Á
Bảng 1.4: Sự phân bố theo ngành của lực lượng lao động nữ ở Đông Á

(%)
Nền kinh tế Năm Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Hồng Kông, 1970 4.7 61.2 34.2
TQ 1980 1.2 56.1 42.8
1990 0.7 33.0 66.3
1997 0.2 16.4 83.4
Indonesia 1970 65.3 10.0 24.8
1980 55.8 12.4 31.8
1990 56.4 12.5 31.1
1997 39.6 15.4 39.4
Hàn Quốc 1980 37.5 23.1 35.9
1990 20.0 29.5 48.7
Malaysia 1970 66.4 9.9 23.7
1980 49.3 17.7 33.0
1990 25.6 22.7 51.8
1997 14.2 29.8 56.0
Thái Lan 1990 62.8 11.9 22.0
1997 50.8 16.6 31.2
Nguån: Ng©n hµng thÕ giíi (2001) §a vÊn ®Ò giíi vµo ph¸t triÓn
Nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy, từ năm 1978, các xí nghiệp huyện - xã
(TVES) đã thu hút một lượng lớn các công nhân nông thôn, trong đó có nhiều
phụ nữ (tức những người rời đất nhưng không rời quê hương). Giả sử rằng 30%
của số 28,3 triệu công nhân làm việc ở các TVES vào năm 1978 là phụ nữ, khi
đó có khoảng 8,5 triệu phụ nữ làm việc cho các TVES vào năm 1978 và số phụ
nữ trong các TVES tăng tới 15,9 triệu năm 1988 và 19,6 triệu năm 1993. Tuy
nhiên tỷ trọng của phụ nữ trong tổng số công nhân ở các TVES thì chỉ tăng chút

ít từ 32,4% năm 1988 lên 33,9% năm 1993. Tỷ lệ tham gia của phụ nữ vào các
TVES rất khác nhau trong sản xuất công nghiệp, 15-16% trong xây dựng và 10%
ở các hoạt động khác. Trong năm 1993 tỷ trọng của phụ nữ trong tổng số công

Tổng các dòng nếu không bằng 100% là làm tròn hoặc bỏ qua ngành khai khoáng
10
nhân của TVES là 38% trong sản xuất nông nghiệp, 10% trong ngành xây dựng
và 41% ở các hoạt động khác. Trong sản xuất công nghiệp, phụ nữ chiếm tỷ lệ
lớn trong các lĩnh vực như lắp ráp, là những lĩnh vực cần nhiều lao động và sản
xuất những mặt hàng đã được chuẩn hoá và sử dụng công nghệ đơn giản (chẳng
hạn phụ nữ chiếm 60-70% trong những xí nghiệp sản xuất đồ nhựa, dệt và quần
áo).
Bảng 1.5: Tổng số lao động và lao động nữ từ các hộ nông nghiệp ở các khu
vực thành thị và nông thôn theo từng ngành ở Trung quốc, 1990
Công nhân
a
từ các hộ nông nghiệp
b
Tổng số Thành thị
c
Nông thôn
Ngoài nông nghiệp (000) 59622 22393 37229
Phần trăm của công nghiệp
d
52.8 31.6 53.5
Xây dựng 9.4 11.2 8.4
Vận tải và viễn thông 7.0 6.2 7.5
Thương nghiệp
e
12.7 13.7 12.1

Hoạt động khác 18.1 17.4 18.6
Phụ nữ ngoài nông nghiệp (000) 21295 8810 12485
Phần trăm của
- Công nghiệp
d
64.6 60.9 67.2
- Xây dựng 1.5 2.3 1.0
Vận tải và viễn thông 1.4 1.5 1.3
Thương nghiệp
e
16.9 21.6 16.9
Hoạt động khác 15.6 13.7 16.9
Tỷ lệ phụ nữ
Tổng số 46.1 45.5 46.2
Nông nghiệp 47.5 49.2 47.3
Công nghiệp
d
43.7 46.5 42.1
Xây dựng 5.5 7.9 3.6
Vẫn tải và viễn thông 7.0 9.2 5.8
Thương nghiệp
e
47.7 62.2 37.9
Hoạt động khác 30.8 31.1 30.6
a
Những người từ 15 tuổi trở lên có làm việc thường xuyên hoặc tạm thời nhưng đã làm việc được 16 ngày trong
giai đoạn 6 tháng trước khi điều tra dân số
b
Các cá nhân ở Trung quốc đăng ký tên gọi hoặc “hộ nông nghiệp” “hộ phi nông nghiệp”. Sự khác biệt cơ bản là
các hộ nông nghiệp tự cung tự cấp lúa gạo trong khi các hộ phi nông nghiệp phải mua lương thực từ kho Nhà

nước với giá chính thức thành viên của các công xã (tức là nông dân) đều đăng ký như là các hộ nông nghiệp
c
Thành thị được định nghĩa như là tập hợp cả các quận huyện thành thị thuộc những thành phố có tổ chức cơ cấu
quận huyện; các huyện dân cư ở những thành phố không tổ chức cơ cấu quận huyện thành thị; các vùng dưới sự
quản lý của hội đồng khu vực thuộc những thị trấn thị xã chịu sự điều hành của các thành phố không tổ chức cơ
cấu huyện thị và các thành phố nhỏ (thị trấn thị xã) dưới sự quản lý của các tỉnh. Nông thôn là tất cả những vùng
còn lại
d
Kể cả ngành mỏ, phát điện, cấp nước và công nghiệp chế tạo
e
Bao gồm thương nghiệp bán lẻ, cung ứng lương thực thực phẩm, dự trữ hàng hoá
11
Nguồn: Uỷ ban các vấn đề xã hội của quốc hội Việt Nam và cơ quan phát triển
quốc tế Canada (1995), Kỷ yếu hội thảo: Vai trò giới tính và nguồn nhân lực
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

Một điều tra khác ở 4 khu vực ở Lusaka, Guayaquil ở Ecuador, Metro Manila và
Budapest [78, tr.18] đã cho thấy rằng các hoạt động kinh doanh nhỏ đặc biệt
quan trọng đối với phụ nữ trong thời kỳ cải cách kinh tế. Mặc dầu số lượng phụ
nữ và nam giới tham gia lực lượng lao động tăng lên trong thời gian gần đây,
phụ nữ vẫn phụ thuộc vào lao động sản xuất nhỏ hơn là so với nam giới. Tính
cạnh tranh của phụ nữ trong lĩnh vực kinh doanh này thường bị hạn chế do khả
năng đi lại của phụ nữ cũng như khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng như hỗ
trợ vốn hay phương tiện đi lại bị hạn chế. Phụ nữ thường có khuynh hướng
chuyên môn hoá những loại mặt hàng sản xuất không nhằm mục đích kinh doanh
và những dịch vụ công cộng mà có mức thu nhập thấp.
Ở khu vực nông thôn, nơi mà kinh tế quốc doanh thường kém phát triển thì
những hoạt động kinh tế ngoài quốc doanh đóng một vai trò quan trọng chính
yếu. Ở châu Á, tỷ lệ phụ nữ nông thôn tham gia thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh tăng lên đáng kể trong thập kỷ 60-70. Ở Ấn Độ tỷ lệ phụ nữ nông thôn

tham gia sản xuất ngoài quốc doanh cao hơn tỷ lệ nữ tham gia sản xuất trong nền
sản xuất quốc doanh bởi vì số hộ gia đình không có đất sản xuất và nghèo đói ở
nông thôn đang tăng lên. Nguồn nhân lực tham gia sản xuất trong các thành phần
kinh tế ở nông thôn có sự phân chia không đồng đều, phụ nữ nông thôn chiếm đa
phần trong các lao động có tính chất không căn bản, chủ yếu là do phân công lao
động trong gia đình, đặc biệt là do không làm chủ được tình trạng nghèo đói đã
hạn chế khả năng lao động của phụ nữ vì tính cạnh tranh trong công việc, phụ nữ
sẽ không thể có năng suất lao động cao như nam giới nếu họ vừa phải đảm nhận
mọi công việc nuôi con và nội trợ. Do địa vị của mình trên thị trường lao động
12
thấp kém hơn so với nam giới đã ảnh hưởng đến chỉ số về giáo dục, y tế và dinh
dưỡng của phụ nữ.
1.1.2 Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp
Nhìn chung trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ nông thôn ở các nước
đang phát triển còn rất thấp. Ở các nước đang phát triển cho đến nay, 31,6% lao
động nữ không được học hành, 5,2% mới chỉ học xong phổ thông và 0,4% mới
tốt nghiệp cấp hai. Theo điều tra ở Burkina Faso, 40% trong số phụ nữ nông
thôn có kiến thức về các công nghệ trồng trọt và chăn nuôi theo phương thức tiên
tiến. Tuy nhiên, những người phụ nữ này cũng không được học các kỹ thuật một
cách có bài bản mà chủ yếu những kiến thức mà họ có được là do học hỏi từ họ
hàng và bạn bè. Khoảng 1/3 trong số này là học được từ các phương tiện truyền
thông trong khi đó chỉ có 1/5 trong số những người này nói là học kinh nghiệm
từ chồng mình. Đàn ông thường không thích nói lại những kiến thức về chăn
nuôi và trồng trọt cho vợ mình nghe. Ở Malawi, phụ nữ kêu ca rằng chồng mình
rất ít khi chịu nói về những kinh nghiệm mà họ biết cho vợ nghe, nếu chồng họ
có nói về những kinh nghiệm thường không nói đúng những điều mà họ muốn
hỏi. Ở Ấn độ, những người phụ nữ học hỏi kinh nghiệm từ họ hàng bạn bè, hàng
xóm và đôi khi từ chồng của họ. Một hạn chế lớn là những loại kinh nghiệm
được truyền đạt kiểu này thường ít khi làm thay đổi được mô hình cách thức sản
xuất của họ.

1.1.3 Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến
Bất bình đẳng giới tồn tại ở hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó trước hết
bắt nguồn từ tình trạng phụ nữ có học vấn quá thấp, tức là rất ít phụ nữ có kỹ
năng hoặc có điều kiện để cạnh tranh một cách bình đẳng trong những công vệc
13
được trả lương cao. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là những
định kiến xã hội coi thường phụ nữ đã được hình thành ở hầu hết các nước đang
phát triển. Do vậy, ngay cả khi phụ nữ có bằng cấp cao và kỹ năng tốt, công việc
mà họ làm vẫn không được ghi nhận một cách xứng đáng.
Gần như ở khắp nơi, mức thu nhập của phụ nữ nông thôn chưa bằng một nửa của
nam giới nông thôn. Có khi, cùng làm một việc như nhau, nam giới được trả
công nhiều hơn phụ nữ. Phổ biến hơn nữa, người ta chia công việc theo giới.
Trong nghề làm gạch ở Kêrala, phụ nữ bị khoanh vào công việc nặng nhọc - chở
gạch bằng xe kéo - và không bao giờ kiếm nổi quá 5 rupi một ngày, trong khi
đàn ông có thể dự kiến kiếm tới 10 rupi hoặc hơn nữa. Lại nữa, trong ngành công
nghiệp xơ dừa, nữ công nhân tước vỏ dừa không kiếm nổi 4 rupi một ngày trong
khi đàn ông làm việc chuyên chở vỏ dừa kiếm được 12 đến 16 rupi [13, tr. 214].
Thế mặc cả yếu của phụ nữ là do thân phận xã hội thấp kém, thực tế bị nam giới
áp đảo về thể chất, chức phận làm mẹ thôi thúc phải làm việc. Phụ nữ phải nuôi
con và không có lương ăn thì không thể mặc cả, trừ phi cố sống cố chết đòi được
một mức tối thiểu nào đó. Và họ ít khi có khả năng thương lượng vì họ cần việc
làm bằng bất kỳ giá nào trong những thời điểm khó khăn trong năm, đặc biệt
trong mùa mưa và khi giáp hạt. Cho nên, ở Kenia, khi phỏng vấn những nhóm
phụ nữ làm việc ngoài đồng dưới trời mưa như trút, thì họ nói rằng họ chẳng có
khái niệm về việc được trả bao nhiêu tiền cho một ngày làm việc, nhưng họ
chẳng còn cách lựa chọn nào khác ngoài việc phải lao vào làm. Như một phụ nữ
đã kể: "Chúng tôi có thể làm gì? Liệu chúng tôi có ngồi nổi ở nhà nghe con cái
kêu gào vì đói hay không? Chúng tôi có thể chịu đựng một hai đêm, nhưng sau đó
thì chúng tôi phải đến với bất cứ ai cho chúng tôi ít việc làm. Đây là thời buổi khó
khăn và con trẻ phải khổ sở vô cùng. Mà ngay cả cái đói của chính chúng tôi

cũng khó lòng mà chịu đựng nổi" [13, tr. 215]
14
Theo số liệu thống kê năm 1989 thì 60% nam giới tham gia thành phần lao động
này được trả mức lương của người lao động có chuyên môn trong khi đó thì chỉ
có 18% phụ nữ chỉ được trả ở mức như vậy. Trong khi 80% số phụ nữ tham gia
lực lượng lao động chính thức ngoài xã hội cũng là thành viên làm các loại công
việc nhà không được trả lương. Số nam giới như vậy chỉ có 37% mà thôi [43, tr.
42]. Một loại hình lao động phổ biến nhất trong thành phần lao động không
chính thức là buôn bán, tiếp theo là các công việc sửa chữa, chuẩn bị thức ăn,
mua bán và tham gia mô hình sản xuất nhỏ.
Sự tham gia của phụ nữ trong nông nghiệp nhìn chung bị lãng quên. Rất nhiều
lao động của họ trong những hình thức không được trả công và vì thế không
được xem là hoạt động kinh tế. Sự phát triển của công nghệ và hiện đại hoá
không giúp gì cho phụ nữ nông thôn. Các chương trình phát triển nông thôn và
cơ khí hoá nông nghiệp sau này đã giảm bớt đói nghèo nhưng đồng thời nó cũng
đem lại sự giảm đi đáng kể về sử dụng lao động đối với cả nam và nữ.
Ngay cả điều này cũng có những ảnh hưởng bất lợi đối với phụ nữ. Lao động của
họ phần lớn được thực hiện bằng công nghệ hiện đại và một vài trường hợp được
thay thế bởi nam giới. Những nghề trước đây do phụ nữ và nam giới đảm nhận
như thu hoạch mùa màng thì do nam giới đảm trách trong khi phụ nữ lui về lĩnh
vực gia đình của họ, trở thành những người nội trợ hoàn toàn. Đây là quá trình
“nội trợ hoá” phụ nữ nông thôn, một kết quả gián tiếp của những chính sách phát
triển nông nghiệp trước đó. Điều này tạo nên sự phân biệt giữa vai trò khác nhau
trong sản xuất, trong kinh tế gia đình giữa phụ nữ và nam giới, trong đó nam giới
là người đóng vai trò chính còn phụ nữ chỉ là người đóng vai trò phụ.
Các thành viên của tổ chức nông nghiệp mà ở đó giáo dục và đào tạo về công
nghệ mới chủ yếu là nam giới. Sự phân biệt về hệ tư tưởng này giữa nam giới
người đóng vai trò chính và phụ nữ người nội trợ có cái giá phải trả là phụ nữ
15
nông thôn mất một cơ sở kinh tế của họ. Cho dù họ tiếp tục có vai trò quan trọng

trong sản xuất nông nghiệp.
Mặc dầu trong những năm 1980, số lượng đông hơn bao giờ hết các phụ nữ nông
dân đảm đương công việc đồng áng, tạo ra thu nhập từ các hoạt động sản xuất
trong gia đình và nhận tiền lương cũng như các công nhân tạm thời ở các nhà
máy, công việc của họ vẫn thuộc diện được trả công thấp nhất. Như Tamara
Jacka lập luận rằng: “Bất chấp những thay đổi cơ bản trong phương thức làm
việc, các cuộc cải cách nông thôn, không dẫn tới xoá bỏ sự phân công lao động
theo giới, cũng như việc đánh giá lại vị trí của người phụ nữ và nam giới trong
quá trình phân công lao động. Ngược lại, điều đang diễn ra là những gì bao hàm
trong công việc lý tưởng của phụ nữ và nam giới đang bị thay đổi, thế nhưng sự
phân công lao động trên vẫn được duy trì, cũng giống như vị trí ít được quan tâm
đến của phụ nữ trong sự phân công đó" [70, tr. 111].
Ở các nước kém phát triển, phụ nữ nhận được mức thu nhập bằng nửa của nam
giới, một phần là do sự gạt ra, một khuynh hướng phân biệt đối xử chống lại phụ
nữ (và những người thiểu số) trong các nghề nghiệp được trả lương tốt, buộc họ
phải đi vào làm các công việc thấp kém hoặc có lương thấp.
Trong khối các nước đang phát triển, phụ nữ nông thôn chiếm ít nhất 50% sản
xuất lương thực thực phẩm. Công việc này thường không được đưa vào báo cáo,
không được tính toán. Thật vậy, ở những nước đang phát triển có thu nhập thấp,
phần lớn phụ nữ làm việc ngoài nền kinh tế thị trường. Ví dụ ở Cộng hoà
Đôminica đầu những năm 1980, 21% phụ nữ nông thôn đã tham gia vào lực
lượng lao động được trả công, nhưng một điều tra về những hoạt động của khu
vực không chính thức và chính thức cho thấy 84% phụ nữ nông thôn đang làm
việc [24, tr. 308].
Các ước tính bằng số có sự khác nhau đáng kể, nhưng các nghiên cứu cho thấy
phụ nữ làm công việc gia đình nhiều hơn nam giới. Một số nghiên cứu cho biết ở
16
những nước phát triển ngày nay, phụ nữ chỉ làm hơn một nửa công việc gia đình;
một số nghiên cứu khác lại cho biết phụ nữ làm 70% hoặc nhiều hơn công việc
nội trợ. Trong gia đình có cả bố và mẹ, nam giới lao động kiếm tiền và phụ nữ

không được tham gia vào lao động được trả công, vì thế dễ hiểu tại sao phụ nữ
lại làm hầu hết công việc nội trợ. Mặc dù vậy, sự sắp xếp hộ theo kiểu cổ điển
này dẫn đến sự không bình đẳng về quyền lực: phụ nữ làm việc nhà không được
trả công, phụ thuộc vào sự quyết định của chồng trong việc sử dụng thu nhập
bằng tiền.
Trên thế giới, ngày càng có ít người sống trong gia đình có bố mẹ mà chỉ một
người (nam giới) kiếm tiền. Tuy nhiên, ngay cả khi phụ nữ làm công việc được
trả công, gánh nặng về công việc gia đình vẫn nhiều hơn đối với họ. Càng làm
nhiều công việc kiếm tiền hơn, người phụ nữ càng có ít thời gian cho công việc
gia đình, nhưng tổng số giờ làm công việc gia đình vẫn nhiều hơn nam giới. Tính
trung bình, phụ nữ đã có gia đình làm việc cả ngày để kiếm tiền vẫn sử dụng
khoảng 30 giờ mỗi tuần cho công việc gia đình. Những đồ gia dụng hiện đại tiết
kiệm lao động cũng không thực sự có hiệu quả trong việc tiết kiệm thời gian.
Một số ước tính cho rằng trung bình đồ gia đụng hiện đại làm giảm công việc lặt
vặt trong gia đình không nhiều hơn 2 giờ một tuần [24, tr. 309].
Trong khi cho phép nữ giới tăng thu nhập, một nhu cầu cấp thiết, việc tham gia
ngày càng tăng của nữ giới vào lực lượng lao động nữ trong một số trường hợp
đã tạo ra những mối quan tâm mới đối với lao động nữ. Những vấn đề như điều
kiện làm việc tồi tàn, sự tiếp xúc với những nguy cơ sức khoẻ, tỉ lệ mắc các bệnh
nghề nghiệp cao hơn, sức khoẻ và an toàn của người lao động, và những hình
thức bóc lột mới như lạm dụng tình dục ở nơi làm việc đang được quan tâm. Tỷ
lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động tăng, đặc biệt ở Đông Nam Á và một phần
của Nam Á và khu vực Thái Bình Dương chủ yếu là do sự huy động và tham gia
của những phụ nữ trẻ vào những việc làm công ăn lương chính thức ở các ngành
17
công nghiệp chế tạo có tỉ trọng lao động cao và định hướng xuất khẩu, đặc biệt là
những ngành điện tử, may mặc và giày dép. Phải thừa nhận rằng những ngành
công nghiệp này đã tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm kèm theo các lợi ích cho nữ
giới. Đồng thời, rất nhiều trong số những công việc này có khuynh hướng không
đáng tin cậy, ngắn hạn, thuộc về loại không có kỹ năng hoặc bán kỹ năng với rất

ít cơ hội thu được kỹ năng với điều kiện lao động chung phi tiêu chuẩn và lương
thấp. Trong những trường hợp này, những lợi ích tích cực đối với nữ giới bị
trung hoà bởi những ảnh hưởng bất lợi của điều kiện làm việc không tốt, đặc biệt
là về những phương diện sức khoẻ và an toàn của người lao động.
1.2 Vai trò của lao động nữ ở các nước đang phát triển
Tổ chức Lao động quốc tế ước tính rằng, phụ nữ chiếm tới 443 triệu hoặc 32%
của lực lượng lao động gồm 1354 triệu ở các nước đang phát triển và chiếm tới
676 triệu hoặc 35% của lực lượng lao động toàn cầu gồm 1955 triệu vào năm
1995. Nhìn vào một số nước trong các khu vực của châu Á chúng ta có thể thấy
được vai trò của phụ nữ trong lực lượng lao động ở các quốc gia trong các khu
vực này.
Bảng 1.6: Tỷ lệ nữ giới trong toàn bộ lực lượng lao động
ở một số nền kinh tế châu Á, 1970-1995 (%)
Khu vực và nền kinh tế 1970 1980 1990 1995
Đông á 33.6 38.4 39.9 39.9
Trung Quốc 41.7 44.0 45.7 46.0
Hồng Kông 34.7 34.2 6.7 36.4
Đông Nam á 39.1 40.6 42.0 42.7
Indonesia 30.2 35.8 39.5 40.6
Malaysia 31.0 33.7 35.7 36.8
Myanma 44.4 43.7 44.1 44.7
Philippin 32.9 35.0 36.2 36.6
Thái Lan 48.2 47.4 46.7 47.0
18
Việt Nam 47.7 48.1 50.1 50.2
Nam á 21.6 33.3 34.6 35.8
Bangladesh 5.4 43.0 40.7 42.2
Ấn ®é
29.4 33.8 31.2 32.1
Nª pan 39.3 39.4 40.3 40.5

Pakistan 9.0 23.4 26.1 28.5
Srilanka 25.0 27.0 34.6 35.7
Nguån: ADB (1999), ChÝnh s¸ch vÒ giíi vµ ph¸t triÓn
Bảng trên cho thấy, phụ nữ tham gia lực lượng lao động tăng dần trong gần 3
thập kỷ qua và tuỳ theo khu vực mà nữ giới chiếm khoảng hơn 1/3 đến 1/2 trong
toàn bộ lực lượng lao động ở một số nền kinh tế châu Á
Bảng trên cũng cho thấy sự khác biệt lao động nữ ở một số nền kinh tế châu Á.
Phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất ở Đông Nam Á, sau đó là Đông Á
và Nam Á. Theo thời gian, tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động tăng dần,
tăng nhanh nhất là ở Nam Á (từ 21,6% lên 35,8%), gấp 1,5 lần trong thời kỳ
1970-1995. Tiếp đó là Đông Á 6,3% (từ 33,6% lên 39,9%); Đông Nam Á tăng
3,6% (từ 39,1% lên 42,7%). Có sự khác biệt này, đặc biệt là ở Nam Á, theo
chúng tôi do những yếu tố tác động đến phụ nữ như văn hoá, chính trị, tôn giáo.
Nam Á xuất phát điểm với tỷ lệ thấp (21,6%) sau 1/4 thế kỷ đã tăng lên 1,5 lần,
trong khi đó tốc độ tăng lao động nữ ở 2 khu vực còn lại chậm hơn. Xu hướng
biến đổi này của các nước châu Á cũng phản ánh một xu thế chung của các quốc
gia khác trên thế giới, đặc biệt là ở những nước đang phát triển
Nghiên cứu cho thấy rằng đàn ông thường tham gia lực lượng lao động ngoài xã
hội khi ở độ tuổi 20-60 và tỷ lệ tham gia là hơn 90% ở tất cả các nước. Tỷ lệ nữ
tham gia lực lượng sản xuất rất khác nhau trên mỗi nước cũng như trong từng
vùng của mỗi nước. Năm 1990, ở Trung Đông và Bắc Phi cứ 10 đàn ông thì có 2
phụ nữ tham gia lực lượng lao động ngoài xã hội trong khi đó tỷ lệ này là 3/10 ở
Nam Á, 6/10 ở hạ Sahara và 7/10 ở Đông Nam Á. Trên phạm vi toàn thế giới tỷ
lệ nữ tham gia lực lượng lao động xã hội là 41% nhưng ở các nước đang phát
triển con số tương ứng là 31% [76, tr. 17]. Nhưng chỉ sau đó 3 năm, một nghiên
19
cứu đặc biệt lại nói rằng 84% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng sản xuất.
Bản điều tra trước đó đã bỏ không tính đến những hoạt động như là làm vườn,
chăn nuôi gia súc trong nhà. Ở Ấn Độ lại có những định nghĩa khác nhau về
“việc làm” dẫn đến đã có kết quả trong đánh giá tỷ lệ phụ nữ tham gia thấp là

13% và cao là 88% [78, tr. 17]
Phụ nữ thường là trụ cột của nền kinh tế nông thôn, nhưng trong nền kinh tế hiện
đại hoá dần dần họ có ít lợi thế. Trong khi nam giới đi tìm công ăn việc làm
hưởng lương ở các thành phố, phụ nữ đóng vai trò chủ yếu trong các nông trại
quy mô nhỏ thường là những mảnh đất nhỏ và có thu nhập thấp hơn so với các
hộ gia đình có đàn ông đứng đầu. Khối lượng công việc của phụ nữ là nặng nhọc
do phải nuôi nấng trẻ con (5 đứa trẻ trong một gia đình cỡ trung bình ở nông
thôn các nước kém phát triển) phải lấy nước, kiếm củi, làm cỏ nhiều hơn với
những giống mới và những công việc nông trại khác do áp lực dân số nông thôn
tăng lên. Ngoài ra, khi những sáng chế công nghệ làm tăng năng suất của các
loại cây trồng mang tính thương mại, những người đàn ông thường chuyển
hướng diện tích gieo trồng, không trồng các loại cây lương thực của phụ nữ.
Bảng 1.7: So sánh phụ nữ với nam giới:
Tỷ lệ việc làm/dân số, tỷ lệ làm việc và thất nghiệp (%)
1990 1998 1999
Tỷ lệ việc làm/dân số
Nam giới 78.2 76.0 76.6
Phụ nữ 52.5 54.4 55.4
Tỷ lệ lực lượng lao động/dân số
Nam giới 82.7 81.2 81.5
Phụ nữ 56.4 58.8 59.5
Tỷ lệ thất nghiệp
Nam giới 5.4 6.4 6.0
Phụ nữ 6.9 7.6 6.9
Nguồn: ILO (2001), World Employment Report
20
Số liệu tỷ lệ việc làm/dân số cho thấy trong khi phụ nữ tham gia lao động ngày
càng tăng từ 52,5% lên 55,4% thì nam giới lại giảm từ 78,2% xuống 76,6%.
Điều này tương ứng với tỷ lệ lực lượng lao động/dân số, tỷ lệ phụ nữ tăng từ
56,4% lên 59,5%, trong khi nam giới giảm từ 82,7% xuống 81,5%. Đáng lưu ý

rằng tỷ lệ thất nghiệp của nam giới tăng 0,6% trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ không
tăng.
Dưới đây là vai trò lao động nữ nông thôn ở một số quốc gia đang phát triển
trong khu vực châu Á:
Vai trò của lao động nữ ở nông thôn Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ dân số hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp lớn nhất thế giới, ở quốc gia này lao động nông thôn có một vai
trò quan trọng. Phụ nữ Trung Quốc cũng đã tham gia nhiều vào các lĩnh vực kinh
tế - xã hội của đất nước. Từ sau khi đất nước tiến hành cải cách và mở cửa đến
nay, phụ nữ Trung Quốc đã có nhiều tiến bộ vượt bậc. Hiện nay phụ nữ chiếm
44% tổng số lực lượng lao động trong xã hội, ở khu vực nông thôn, phụ nữ
chiếm khoảng 50% lực lượng lao động, ở khu vực viên chức nhà nước, phụ nữ
chiếm khoảng 38% (với khoảng 56 triệu phụ nữ). Họ tham gia vào hầu hết các
lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, kiến trúc, giao thông vận
tải, y tế, giáo dục, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội... Nông thôn Trung
Quốc hiện nay có hơn 120 triệu người làm việc trong các xí nghiệp hương trấn,
trong đó 40% lực lượng lao động là phụ nữ [61, tr. 66]
Khi sản xuất nông nghiệp được tập thể hoá các quyết định phân phối được
chuyển từ hộ gia đình sang các hợp tác xã thì chính sách tăng cường sự tham gia
của phụ nữ vào sản xuất nông nghiệp được thực hiện rất nhanh chóng. Tỷ trọng
của phụ nữ nông dân trong độ tuổi làm việc tham gia vào sản xuất nông nghiệp
đã tăng từ dưới 40% vào cuối những năm 40 lên 50-70% vào giữa những năm 50
và 60-80% vào những năm 60 và 70 và số ngày trung bình mà phụ nữ làm việc
21
trong sản xuất nông nghiệp cũng tăng lên rất đáng kể. Sự gia tăng tham gia của
phụ nữ vào sản xuất nông nghiệp dường như là sự thay đổi quan trọng duy nhất
mà phụ nữ nông dân Trung Quốc đạt được trước năm 1978.
Ngoài việc tham gia vào sản xuất nông nghiệp, một số phụ nữ nông dân còn
được lựa chọn trong số người rời bỏ nông nghiệp. Trong những năm 60 và 70,
phụ nữ chiếm tới 25% những người được lựa chọn để làm việc trong các xí

nghiệp quốc doanh, 20% thanh thiếu niên được chọn đi học tiếp ở các thành phố,
32% số bác sĩ, 40% số giáo viên ở nông thôn, và khoảng 30% được cử vào các xí
nghiệp công xã. Tuy nhiên, phần lớn phụ nữ nông thôn làm việc trong sản xuất
nông nghiệp. Cuộc điều tra dân số năm 1982 cho thấy trong số phụ nữ làm việc ở
nông thôn Trung quốc, 92% làm việc trong nông nghiệp, so với con số 85% của
nam giới [70, tr. 105].
Quá trình rời bỏ đất đai của nông dân cũng làm thay đổi sự phân bố công việc
sản xuất nông nghiệp ngay trong các hộ gia đình. Do số nam giới rời bỏ đất đai
nhiều hơn phụ nữ cho nên quá trình phát triển phi nông nghiệp nhanh chóng ở
nông thôn đã dần tới hiện tượng “phụ nữ hoá” sản xuất nông nghiệp ở một số
khu vực Trung quốc (đặc biệt là ở miền nam Jiangsu và châu thổ sông Ngọc ở
Quảng Đông). Nhiều báo cáo chỉ ra rằng, trong những năm 80, do nam giới trong
các hộ gia đình hoặc tham gia vào các công việc phi nông nghiệp hoặc vắng mặt
ở làng xã trong thời gian dài cho nên phụ nữ đảm đương phần chủ yếu trong
công việc đồng áng (thường với sự giúp đỡ của thiếu niên và những người đứng
tuổi)
Những thay đổi này sâu rộng như thế nào? Tổng số lao động tăng lên ở Trung
Quốc từ 1982 đến 1990 là 125,7 triệu người, trong số đó 42,3 triệu (hay 33,6%)
tìm được công việc ngoài lĩnh vực nông nghiệp [68, tr. 107]. Tỷ trọng của những
công nhân xuất thân từ các hộ nông dân là bao nhiêu? Và trong số đó thì phụ nữ
chiếm bao nhiêu? Dù rằng không thể đưa ra được các câu trả lời chính xác,
22
nhng cú nhng lý do tin rng mt phn quan trng cỏc cụng nhõn phi nụng
nghip mi xut thõn t cỏc h nụng dõn trong s h cú nhiu ph n.
Bng 1.8: Tng s lao ng v lao ng n t cỏc h nụng nghip
cỏc khu vc thnh th v nụng thụn theo tng ngnh Trung quc, 1990
Cụng nhõn
a
t cỏc h nụng nghip
b

Tng s Thnh th
c
Nụng thụn
Tng s (000) 100% 522784 59627 463156
T l %
- trong nông nghiệp
88.6 62.4 92.0
- Ngoài nông nghiệp 11.4 37.6 8.0
Phụ nữ (000) 241201 27113 21088
Phần trăm của
- Nông nghiệp 91.2 67.5 94.2
- Ngoài nông nghiệp 8.8 32.5 5.8
(Nguồn: Uỷ ban các vấn đề xã hội của quốc hội Việt Nam và cơ quan phát triển quốc tế
Canada (1995), Kỷ yếu hội thảo: Vai trò giới tính và nguồn nhân lực trong chiến lợc
phát triển kinh tế - xã hội)
Vai trũ ca lao ng n nụng thụn Malaysia
Vic thc hin cỏc chng trỡnh phỏt trin trong nhng nm 1970 cho thy s
phỏt trin nhanh chúng cỏc hot ng v lnh vc cụng nghip v dch v m
trong ú s thu hỳt ph n trong lc lng lao ng mc nhanh hn v t l
cao hn. iu ny dn n mt s gim sỳt t l lao ng n trong nụng nghip.
Nm 1957, s liu iu tra dõn s cho thy, 77% ph n lm vic trong lnh vc
nụng nghip, nm 1986, t l ny cũn 27,5%. Nh th trong vũng 30 nm t l
lao ng n nụng nghip gim gn 50%, bỡnh quõn 1,6%/nm. Tc gim
nhanh vo giai on 75-86, t 50,3% cũn 27,5%, gim bỡnh quõn 2,1%/nm. S
gim lao ng n trong nụng nghip l h qu ca vic chuyn i c cu ngnh
a
Nhng ngi t 15 tui tr lờn cú lm vic thng xuyờn hoc tm thi nhng ó lm vic c 16 ngy trong
giai on 6 thỏng trc khi iu tra dõn s
b
Cỏc cỏ nhõn Trung quc ng ký tờn gi hoc h nụng nghip h phi nụng nghip. S khỏc bit c bn l

cỏc h nụng nghip t cung t cp lỳa go trong khi cỏc h phi nụng nghip phi mua lng thc t kho Nh
nc vi giỏ chớnh thc thnh viờn ca cỏc cụng xó (tc l nụng dõn) u ng ký nh l cỏc h nụng nghip
c
Thnh th c nh ngha nh l tp hp c cỏc qun huyn thnh th thuc nhng thnh ph cú t chc c cu
qun huyn; cỏc huyn dõn c nhng thnh ph khụng t chc c cu qun huyn thnh th; cỏc vựng di s
qun lý ca hi ng khu vc thuc nhng th trn th xó chu s iu hnh ca cỏc thnh ph khụng t chc c
cu huyn th v cỏc thnh ph nh (th trn th xó) di s qun lý ca cỏc tnh. Nụng thụn l tt c nhng vựng
cũn li.
23
nghề, cơ cấu kinh tế. Như chúng ta thấy là động nữ tăng nhanh ở các lĩnh vực
công nghiệp (17-22,5%) và dịch vụ (30,6-47,5%). Như đã chỉ ra ở bảng sau sự
phân chia tỷ lệ lao động nữ trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm nhanh:
Bảng 1.9: Sự phân chia tỷ lệ lao động nữ trong các lĩnh vực tại Penisular,
Malaysia từ 1975-1986
1 2 3 4 5 6 7
1975 50.3 0.4 17.0 0.9 0.1 0.7 30.6
1979 43.8 0.4 19.9 0.9 0.3 1.0 33.6
1980 40.2 0.4 20.7 1.0 0.2 1.0 36.4
1981 37.6 0.3 21.8 1.3 0.3 1.3 37.4
1982 33.4 0.4 22.1 1.3 0.1 1.0 41.7
1983 30.9 0.5 23.4 1.5 0.0 1.0 42.7
1984 29.9 0.3 22.4 1.3 0.1 1.2 44.8
1985 28.9 0.3 21.9 1.3 0.0 1.4 46.2
1986 27.5 0.3 22.5 1.0 0.0 1.2 47.5
1. Nông nghiệp
2. Mỏ đá và khai thác quặng đá
3. Công nghiệp
4. Xây dựng
5. Điện, gas, nước và dịch vụ vệ sinh
6. Giao thông, trông kho và liên lạc

7. Các dịch vụ
(Nguồn: Jamilah Ariffin (1992), Women and Development in Malaysia)
Vai trò của lao động nữ nông thôn Hàn Quốc
Trước đây ở nông thôn, nông nghiệp chủ yếu dựa vào lao động chân tay. Vì vậy,
mỗi khi vào vụ, bất kỳ già trẻ, gái trai đều phải tham gia vào công việc. Sau khi
tầng lớp thanh niên, trung niên di chuyển đến đô thị trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá những năm qua, sức lao động chủ yếu chỉ là người già và phụ
nữ, đồng thời hiện tượng nữ hoá và lão hoá ngày càng trầm trọng. Năm 1990, số
phụ nữ tham dự vào công việc đã lên tới 45%.
Bảng 1.10: Biến đổi tỷ lệ cơ cấu thời gian lao động của nhà nông
theo giới tính (%)
24
Năm Lao động gia đình Đổi công Tổng số
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1967 69.3 30.3 73.4 26.6 71.9 28.1
1971 65.8 34.2 62.9 37.1 66.7 33.3
1975 64.6 35.4 69.3 30.7 66.7 33.3
1980 58.3 41.7 49.5 50.5 57.4 42.6
1985 59.3 40.7 46.9 53.1 57.2 42.8
1990 55.4 44.6 36.5 63.5 52.7 47.3
Nguồn: Jeong Nam Song (1996), Một số đặc điểm của nông thôn Hàn Quốc
Bảng trên cho thấy thời gian lao động của phụ nữ so với nam giới năm 1967 là
30,3%, năm 1990 là 44,6%. Đặc biệt về mặt đổi công của phụ nữ trong cùng thời
gian đó tăng lên từ 26,6% (năm 1967) đến 63,5% (năm 1990) gấp đôi so với đổi
công của đàn ông
Thực tế, những năm 60 lực lượng lao động ở nông thôn rất phong phú nên chỉ có
1/3 số người làm nghề nông là tham gia vào công việc, lao động già và lao động
nữ trở thành thứ yếu. Song hiện nay đại bộ phận mọi người đều đã tích cực tham
gia lao động. Cùng với họ tầng lớp cư dân phi kinh tế dưới 14 tuổi cũng đã được
huy động vào làm việc.

Mặc dù nông nghiệp nông thôn Hàn Quốc đã có trình độ cơ khí hoá cao nhưng
số người trong mỗi hộ không nhiều, lại còn phải sử dụng lao động vào việc bảo
dưỡng máy móc,... nên tỷ lệ lao động trong các hộ gia đình năm 1967 chiếm tới
78% và năm 1990 là 80,7%. Thời gian làm việc bình quân của một nông dân
năm 1967 là 568,99 giờ, năm 1990 là 923,95 giờ (tính bình quân thời gian làm
việc của một hộ nông nghiệp là 1,592,69 giờ) [43, tr. 353]
1.3 Chính sách của Nhà nước tác động đến lao động nữ ở các nước đang
phát triển
Ở các nước đang phát triển, các chính sách của Nhà nước tác động đáng kể đến
sự phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, đối với lao động nữ, sự tác động của
các chính sách lại rất có chừng mực.
25

×