Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.81 KB, 14 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1.VỊ TRÍ CỦA NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ
NHIỆM VỤ HẠCH TOÁN KẾ TOÁN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu (NVL) là hàng tồn kho thuộc tài sản lưu động. Là một trong
những đối tượng lao động thể hiện dưới dạng vật hoá. Trong các doanh nghiệp sản xuất,
vật liệu được sử dụng cho việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ hay sử
dụng cho bán hàng, quản lí doanh nghiệp.
Đặc điểm của NVL
- Mang đặc điểm chung của hàng tồn kho là có thời gian luân chuyển ngắn.
thường là trong vòng một chu kỳ kinh doanh hoặc trong một năm.
- Các đặc điểm riêng:
+ NVL chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất- kinh doanh nhất định và toàn bộ giá
trị vật liệu được chuyển hết một lần vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
+ Khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vật liệu bị biến dạng hoặc
tiêu hao hoàn toàn hay nói cách khác là thay đổi toàn bộ hình thái vật chất so với ban
đầu để tạo ra thực thể của sản phẩm mới.
Vai trò của NVL
NVL chiếm một vai trò rất quan trọng trong bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất
nào, bởi nó chiếm phần lớn tỷ trọng trong giá thành sản phẩm sản xuất hoàn thành.
NVL có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Hơn nữa, hạ thấp giá thành mà vẫn nâng cao
được chất lượng sản phẩm, chiếm đựơc lòng tin khách hàng, từ đó tăng lợi nhuận luôn
là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Muốn làm được điều đó thì việc đầu tiên là
phải quan tâm đến vấn đề quản lí NVL ngay từ khâu thu mua, bảo quản, sự dụng và dự
trữ.
Hơn nữa, làm tốt khâu quản lí NVL sẽ cung cấp thông tin kịp thời, chính xác
phục vụ cho người quản lí nắm đựơc số lượng, chất lượng, đặc điểm và tình hình sử
dụng các loại NVL; cung cấp thông tin nhập vào, xuất ra, tồn kho; cung cấp thông tin
để cân đối cung cầu, vốn lưu động cho nhập, xuất giá trị NVL; cung cấp thông tin về


tình hình sử dụng NVL để đo lường chi phí sử dụng NVL, quản lí và điều chỉnh hợp lí
định mức tiêu hao NVL…
1.1.2. Phân loại nguyên vật liệu
Phân loại tài sản nói chung và phân loại NVL nói riêng là việc sắp xếp các loại
tài sản khác nhau thành từng nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp có nhiều chủng
loại mặt hàng, phẩm cấp, đa dạng về chất lượng, mẫu mã…do đó cần sử dụng rất nhiều
loại NVL khác nhau, thì việc phân loại NVL là hết sức cần thiết. Mỗi loại NVL với đặc
điểm, vai trò, công dụng, tính chất cơ lí hoá khác nhau, lại biến động thường xuyên, liên
tục trong quá trình sản xuất nên đựơc sử dụng chế biến và bảo quản khác nhau. Vì thế
việc phân loại NVL được xem như một công việc cần thiết giúp cho việc sử dụng, bảo
quản NVL được nhanh chóng, thuận lợi, giúp cho khâu quản lí NVL được dễ dàng.
Dưới đây là một số tiêu thức phân loại NVL:
- Phân loại theo vai trò, tác dụng của nguyên vật liệu trong sản xuất
+ NVL chính: là những thứ NVL mà sau quá trình gia công, chế biến sẽ cấu thành
nên thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm.
+ VL phụ: là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng
kết hợp với NVL chính để tăng thêm đặc tính của sản phẩm, hay để phục vụ hoạt động
sản xuất, bảo quản máy móc thiết bị được hoạt động liên tục, hoặc dùng để phục vụ cho
nhu cầu kỹ thuật, nhu cầu quản lí.
+ Nhiên liệu: : là những thứ dùng để cung cấp nhiệt trong quá trình sản xuất
kinh doanh như than đá, than bùn, củi, xăng, dầu… Nhiên liệu thực chất là một loại vật
liệu phụ, tuy nhiên trong phân loại, người ta lại tách chúng ra thành một loại riêng. Vì
một mặt, việc sản xuất và tiêu dùng chúng chiếm một tỷ trọng lớn và chúng đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân; mặt khác, nhiên liệu có yêu cầu về kỹ thuật quản
lý hoàn toàn khác với các vật liệu phụ thông thường khác.
+ Phụ tùng thay thế: là các chi tiết, phụ tùng dùng để sửa chữa, bảo dưỡng và
thay thế thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải.
+ Thiết bị và vật liệu xây dựng: bao gồm các loại thiết bị và vật liệu (cần lắp
hoặc không cần lắp, vật kết cấu, công cụ, khí cụ...) mà doanh nghiệp mua vào nhằm

phục vụ hoạt động xây lắp, xây dựng cơ bản.
+ Phế liệu: là những vật liệu thu được trong quá trình sản xuất hoặc là những vật
liệu thu được trong quá trình thanh lý tài sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài. +
Vật liệu khác: Bao gồm các loại vật liệu còn lại ngoài các thứ đã kể trên như bao bì, vật
liệu dùng để đóng gói, các loại vật tư đặc chủng...
Đây là cách phân loại được các doanh nghiệp hiện nay sử dụng nhiều nhất. Việc
phân loại trên có ưu điểm là phân biệt rõ vai trò và tác dụng của từng loại NVL trong
quá trình sản xuất kinh doanh, giúp người quản lý đưa ra những quyết định cụ thể để
hạch toán từng loại, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và sử dụng NVL. Tuy nhiên, nó
còn bộc lộ nhược điểm là đôi khi rất khó phân loại trong trường hợp doanh nghiệp sử
dụng NVL chính cũng giống như đối với VL phụ.
- Phân loại theo nguồn hình thành
+ Vật liệu mua ngoài: là vật liệu sử dụng cho sản xuất kinh doanh được DN mua
ngoài thị trường (trong nước hoặc nhập khẩu từ nước ngoài)
+ Vật liệu tự sản xuất: là những loại vật liệu do chính doanh nghiệp tự sản xuất,
chế biến hay thuê ngoài gia công, chế biến.
Phân loại NVL theo cách này có ưu điểm là giúp người quản lí và người sử dụng
theo dõi được tình hình NVL nhập theo nguồn nào, qua đó sẽ đánh giá được sự cung
ứng, hiệu quả SX và sử dụng cho từng loại NVL. Tuy nhiên, cách phân loại này có hạn
chế là đơn điệu và không thấy rõ được vai trò, giá trị của từng loại NVL một cách cụ
thể và chi tiết hơn.
- Phân loại theo chủ sở hữu
- Nguyên vật liệu tự có: là những NVL do DN mua sắm, nhận cấp phát, tặng
thưởng, nhận góp vốn liên doanh…
- Nguyên vật liệu giữ hộ hay nhận gia công: là những NVL do DN nhận giữ hộ
hoặc nhận gia công cho bên ngoài.
Cách phân loại này gần giống với cách phân loại thứ hai nhưng theo giác độ sở
hữu, chúng cho phép các nhà quản lý nắm vững nguồn NVL và giá trị NVL mà mình
đang nắm giữ.
Nhìn chung, mỗi cách phân loại đều đáp ứng một yêu cầu riêng của công tác

quản lý. Để đảm bảo thuận tiện, tránh nhầm lẫn cho công tác quản lý và hạch toán về số
lượng và giá trị từng loại vật liệu thì doanh nghiệp cần lập "Số danh điểm vật liệu".
Việc sử dụng sổ này nhằm thống nhất tên gọi trong toàn DN, và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc sử dụng máy tính,giúp các bộ phận phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác
quản lí NVL.
1.1.3. Tính giá nguyên vật liệu
Tính giá NVL là dùng tiền để biểu hiện giá trị của NVL. Đây là một công tác quan
trọng trong việc tổ chức hạch toán NVL. Việc tính giá NVL phải tuân thủ theo chuẩn mực
kế toán số 02- Hàng tồn kho.
Theo chuẩn mực thì NVL nói riêng và hàng tồn kho nói chung, khi nhập kho hay
xuất kho đều được phản ánh lên sổ kế toán và trong các Báo cáo kế toán theo giá thực
tế (giá gốc). Tuy nhiên để đơn giản và giảm bớt khối lượng ghi chép, tính toán hàng
ngày, riêng giá nhập kho thì buộc phải tính theo giá thực tế, còn giá xuất kho có thể lựa
chọn các phương pháp tính giá hạch toán, giá bình quân dự trữ…tuỳ theo từng nguồn
nhập để tính tÝnh to¸n cho phï hîp, sau đó mới ghi vào tài khoản kế toán và sổ kế toán
tổng hợp theo giá thực tế. Để đánh giá NVL(thuộc vật tư, hàng hoá) phải tuân thủ các
nguyên tắc: nguyên tắc giá gốc, nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc nhất quán.
Việc tính giá NVL được thực hiện cụ thể cho các trường hợp sau:
1.1.3.1. Tính giá nguyên vật liệu nhập kho
NVL nhập kho được tính theo giá thực tế. Giá thực tế chính là chi phí thực tế mà
DN đã bỏ ra cho đến khi vật tư được đưa vào sử dụng, hay nói cách khác là giá được
hình thành trên cơ sở các chứng từ hợp lệ, chứng minh cho các khoản chi hợp pháp của
DN để tạo ra vật liệu. Giá thực tế của NVL nhập kho được tính riêng cho từng nguồn
nhập cụ thể:
Với NVL mua ngoài
Giá
nhập
=
Giá
Mua

theo
hoá
đơn
-
Các
khoản
giảm giá
mua
+
Thuế
nhập
khẩu
(nếu có)
+
Thuế
TTĐB
(nếu có)
+
Các
khoản
chi phí
thu mua
+ Giá mua: là giá ghi trên hoá đơn của người bán.
+ Các khoản giảm giá mua: bao gồm, khoản chiết khấu thương mại được
hưởng trên giá mua, và các khoản giảm giá mua (kể cả hồi khấu).
+ Các chi phí thu mua: chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí bao bì, chi phí của
bộ phận thu mua độc lập, chi phí thuê kho, thuê bãi; tiền phạt lưu kho, lưu hàng, lưu
bãi, lệ phí kiểm nhận khi nhận hàng…
Như vậy, nếu doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ thì trong giá
thực tế của NVL nhập kho không bao gồm thuế GTGT đầu vào được khấu trừ mà chỉ

bao gồm các khoản thuế không được khấu trừ như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt (nếu có). Còn nếu doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp thì trong giá
nhập NVL bao gồm cả thuế.
Ví dụ:Căn cứ vào hoá đơn số 90089 ngày 20/6/2006. Phiếu nhập số 228 ngày
28/6/2006, nhập vật liệu với số lượng 3.000 kg, đơn giá là 2.100 đ/kg( thuế GTGT
10%). Công ty thanh toán ngay bằng chuyển khoản
Tổng trị giá thực tế NVL nhập kho bằng giá thanh toán ghi trên hoá đơn là:
3.000 × 2.100 = 6.300.000
Định khoản:
Nợ TK 152: 6.300.000
Nợ TK 133(1331): 630.000
Có TK 112: 6.930.000
Với NVL do doanh nghiệp tự sản xuất
Giá thực tế ghi sổ của vật liệu là giá thành sản xuất thực tế (giá thành công
xưởng thực tế) của sản phẩm sản xuất ra.
Với NVL do thuê ngoài gia công

×