Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN LƯU CHUYỂN HÀNG HÓA NHẬP KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.99 KB, 31 trang )

313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN LƯU CHUYỂN HÀNG HÓA
NHẬP KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP KINH
DOANH NHẬP
KHẨU
I- Đặc điểm chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong cơ chế thị
trường:
1- Vai trò và vị trí của hoạt động NK trong cơ chế thị trường:
1.1 Nhập khẩu và vai trò của hàng hoá NK đối với các quốc gia trên thế giới
và Việt Nam:
Đối với thế giới: Đặc trưng quan trọng của nền kinh tế thế giới ngày nay là xu
hướng quốc tế hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển thì mỗi nước dù lớn
hay nhỏ đều phải tham gia vào sự phân công lao động trong khu vực và quốc tế.
Ngày nay, không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình bằng tự lực cánh
sinh . Hơn nữa, trên thế giới luôn tồn tại sự khác biệt nhất định giữa các quốc gia
về điều kiện tự nhiên, điều kiện sản xuất. Bởi vậy, nếu các quốc gia thực hiện chế
độ tự cung tự cấp, không buôn bán với nước ngoài thì đường ranh giới khả năng
sản xuất-tiêu dùng trong nước bị thu hẹp rất nhiều so với khi tiến hành hoạt động
ngoại thương. Có thể nói, hoạt động ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và
tiêu dùng, cho phép một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng trong nước
không thể sản xuất được, sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu hay sản xuất được nhưng
với chi phí cao hơn (tiêu dùng hàng NK). Với sự phát triển nền sản xuất hàng hoá
của xã hội, người ta có thể nhận thấy lợi ích của cả hai bên khi mỗi nước đi vào sản
xuất chuyên môn những mặt hàng cụ thể mà nước đó có lợi thế tương đối, xuất
khẩu những hàng hoá của mình, NK một số mặt hàng từ các nước khác. Muốn phát
triển nhanh, mỗi nước không chỉ đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà còn phải
biết tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu kinh tế, khoa học, kỹ thuật mà loài
người đạt được. Như vậy, một nền kinh tế mở sẽ tạo ra hướng phát triển mới, tạo
điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có của một đất nước kết hợp với hoạt
động nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ ... hiệu quả tạo yếu tố tác động tích cực đến sự
phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân.


Thực tế các nước phát triển và các nước công nghiệp mới có được sự vươn lên
nhanh chóng đều phải gắn liền nền kinh tế nước mình với hệ thống kinh tế thế giới
và thông qua hoạt động NK kỹ thuật công nghệ hiện đại
Ở Việt Nam: Hiểu được tầm quan trọng của hoạt động ngoại thương, Đảng và
Nhà nước đã nhận định: ”Tăng cường hoạt động ngoại thương là đòi hỏi khách
quan của thời đại”. Và thực tế đã cho thấy từ khi nước ta thực hiện chính sách mở
1


1
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
cửa, đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành nước thành viên của ASEAN, lệnh cấm vận
kinh tế của Mỹ được xoá bỏ thì các mối quan hệ và giao lưu quốc tế của nước ta
ngày càng được tăng cường và mở rộng. Với chủ trương: “ Giảm nhập khẩu, tăng
cường xuất khẩu” là xu thế của nước ta khi tiến vào thế kỷ mới song không vì thế
mà vị trí của nhập khẩu bị giảm sút. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay,
vai trò của hoạt động này vẫn rất quan trọng vì nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa đất nước,
bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển cân đối
và ổn định. Nhờ có nhập khẩu mà mức sống của nhân dân ngày càng được cải thiện
và không ngừng được nâng cao vì họ được tự do lựa chọn những hàng hóa phù
hợp với thu nhập, sở thích, thẩm mỹ.... mà chất lượng vẫn được đảm bảo. Nhập
khẩu không chỉ thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng mà còn
đảm bảo đầu vào cho sản xuất góp phần không nhỏ tạo việc làm ổn định cho người
lao động trong nước. Ngoài ra, hàng nhập khẩu còn làm tăng sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước, xoá tan thế độc quyền của hàng nội địa buộc các doanh nghiệp
nước ta muốn có chỗ đứng vững chắc trên thị trường phải luôn thay đổi, cải tiến
công nghệ, nâng cao chất lượng và tìm mọi cách hạ giá thành. Đồng thời, nhập
khẩu còn có vai trò rất tích cực khác là thúc đẩy xuất khẩu, sự tác động này thể hiện
ở chỗ hoạt động nhập khẩu đã tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi

trường thuận lợi cho hàng Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài.
1.2- Đặc trưng cơ bản của hoạt động nhập khẩu hàng hóa trong cơ chế thị
trường:
1.2.1- Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Hoạt động NK là một mặt của lĩnh vực ngoại thương, là sự trao đổi hàng hoá,
dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán trên phạm vi toàn thế giới. Đối với
Việt Nam, thực chất hoạt động NK là hoạt động mua hàng hóa của thương nhân
Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua hàng hóa, bao gồm
cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hóa.
Hoạt động NK là hoạt động kinh doanh có thị trường rộng lớn, không giới hạn
giữa nhiều nước với nhau, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển sản xuất kinh doanh
trong và ngoài nước. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động NK chịu sự
chi phối của nhiếu yếu tố như chế độ quản lý của Nhà nước về NK, chế độ kế toán
hiện hành, sự biến động tỷ giá, biến động giá cả của các mặt hàng trên thế giới ...
Nhìn chung, hoạt động NK thể hiện những đặc điểm cơ bản sau:
- NK có thị trường rộng lớn, đa dạng về mặt hàng, phức tạp về phương tiện
thanh toán
- Do ảnh hưởng về mặt địa lý, phương tiện vận tải, thủ tục hải quan nên thời gian thanh
toán, thời gian giao hàng thường kéo dài hơn các đơn vị kinh doanh hàng hoá trong
nước và có thể gặp nhiều rủi ro khi chuyển hàng từ nước ngoài về.
2


2
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
- Hàng hoá NK do nước ngoài sản xuất nên có đặc điểm riêng, cần lựa chọn những
hàng hoá phù hợp với thị hiếu, nhu cầu, phong tục tập quán của người tiêu dùng
trong nước.
- Bên đối tác của hoạt động NK là phía nước ngoài nên có trình độ quản lý, cách thức
kinh doanh, chính sách ngoại thương khác với nước ta.

- Hầu hết các chỉ tiêu kinh doanh của các đơn vị XNK được phản ánh bằng ngoại tệ vì
vậy mức độ thực hiện các chỉ tiêu không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động ngoại
thương mà còn bị chi phối bởi tỷ giá ngoại tệ.....
Như vậy, hoạt động NK là hoạt động phức tạp về quy trình và đa dạng về hình
thức. Đặc trưng của hoạt động NK có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức kinh doanh
cũng như tổ chức hạch toán nghiệp vụ NK ở nước ta.
Trước kia, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế Việt Nam
là nền kinh tế đóng, tự cung tự cấp. Hoạt động ngoại thương chỉ thu hẹp trong một
vài nước xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu dựa trên các khoản viện trợ và mua bán theo
chỉ tiêu pháp lệnh. Sự quản lý quá sâu của Nhà nước đã làm cho hoạt động NK
không phát huy được vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế-xã hội.
Ngày nay, trong cơ chế mới cùng với sự quản lý, chỉ đạo hợp lý, hiệu quả của
Nhà nước, hoạt động NK đã phát huy được vai trò của mình trong việc phát triển
kinh tế, đồng thời thúc đẩy việc khai thác tiềm năng thế mạnh của đất nước, tạo ra
sự cạnh tranh giữa sản xuất trong và ngoài nước, tạo động lực phát triển. Nhập
khẩu trở thành cầu nối thông suốt nền kinh tế trong và ngoài nước, đưa nước ta hoà
nhập với xu thế hợp tác hoá-toàn cầu hoá, phát huy thế mạnh nội tại, tận dụng lợi
thế các nước khác phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
1.2.2- Đối tượng nhập khẩu và điều kiện kinh doanh nhập khẩu hàng hóa.
a. Đối tượng nhập khẩu.
Đối tượng hoạt động nhập khẩu là các mặt hàng phù hợp với ngành, nghề ghi
trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trừ những mặt hàng thuộc danh mục
hàng hóa cấm nhập khẩu và những mặt hàng tạm ngừng nhập khẩu. Hàng hóa nhập
khẩu là những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp
ứng đủ yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là các trang thiết bị, máy
móc, vật tư kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Bên cạnh các mặt hàng doanh nghiệp
được tự do nhập khẩu còn có các mặt hàng nhập khẩu có điều kiện và các mặt hàng
cấm nhập khẩu (đồ cổ, thuốc phiện, chất độc hoá học.....)
Những mặt hàng NK chủ yếu của Việt Nam hiện nay là dây chuyền sản xuất,
thiết bị toàn bộ, thiết bị phụ tùng lẻ, hàng tiêu dùng, vật tư y tế....

b. Điều kiện kinh doanh nhập khẩu
- Quyền kinh doanh nhập khẩu: Thương nhân là các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật, được quyền nhập khẩu
3


3
Xin giấy phépnhập khẩuMở L/C hoặcđiện chuyểntiềnYêu cầu người bán giao hàngThuê phương tiện vận tải
Mua bảohiểm Làm thủ tụchải quanTiến hành giao nhận hàng hóa
Kiểm tra
Thanhtoán
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
hàng hóa theo ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau
khi đã đăng ký mã số tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố theo quy định.
- Quyền được nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa: Thương nhân đã đăng ký
mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có quyền được nhận ủy thác nhập
khẩu hàng hóa phù hợp với nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với
hàng hóa có hạn ngạch và hàng hóa có giấy phép của Bộ Thương mại, thương nhân
chỉ được nhận ủy thác nhập khẩu trong phạm vi số lượng hoặc giá trị ghi tại văn
bản phân bổ hạn ngạch của cơ quan có thẩm quyền hoặc giấy phép của Bộ Thương
mại; thương nhân được ủy thác không được sử dụng hạn ngạch hoặc giấy phép do
Bộ Thương mại cấp cho mình để nhận ủy thác nhập khẩu.
1.2.3 - Quy trình cơ bản của hoạt động nhập khẩu hàng hóa
- Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu là mộ7t biện pháp quan trọng để Nhà nước
quản lý XNK. Ngày nay, trong xu thế tự do hoá mậu dịch, nhiều nước giảm bớt số
mặt hàng cần phải xin giấy phép XNK chuyến. Ở nước ta, theo Nghị định 89/CP
ngày 15/12/1995, kể từ ngày 1/2/1996 trở đi, chỉ còn 9 trường hợp phải xin giấy
phép XNK chuyến (hàng XNK mà Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch, máy móc
thiết bị NK bằng nguồn vốn ngân sách.....)
- Bước 2: Mở L/C:

Người mua căn cứ vào hợp đồng kinh tế làm thủ tục xin mở một tài khoản tín
dụng chứng từ tại một ngân hàng theo thỏa thuận yêu cầu, ngân hàng này trả tiền
cho người bán khi người bán nộp đủ bộ chứng từ phù hợp với quy định trong L/C.
Người bán kiểm tra kỹ L/C, nếu L/C thoả mãn các điều kiện thì sẽ giao hàng cho
người mua. Sau khi giao hàng, người bán lập chứng từ thanh toán nhờ ngân hàng
chuyển bộ chứng từ cho người mua đồng thời thu tiền của người mua
- Bước 3: Yêu cầu người bán giao hàng (Doanh nghiệp có hàng nhập khẩu sẽ
gửi thư hay cử người đại diện đến giục người bán giao hàng).
- Bước 4: Thuê phương tiện vận tải được tiến hành dựa vào 3 căn cứ: những
điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua và điều kiện
vận tải.
- Bước 5: Mua bảo hiểm do hàng hoá chuyên chở trên đường vận chuyển dài
thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Các chủ hàng NK của ta, khi cần mua bảo hiểm
đều mua tại các công ty Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo
hiểm bao hoặc chuyến.
- Bước 6: Làm thủ tục hải quan, hàng hoá đi ngang qua biên giới quốc gia NK
phải làm thủ tục hải quan, gồm 3 bước chủ yếu sau: khai báo hải quan chi tiết hàng
hoá, xuất trình hàng hoá để kiểm soát, chủ hàng có nghĩa vụ thực hiện nghiêm túc
các quyết định của hải quan.
- Bước 7: Giao nhận hàng
4


4
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
Theo quy định 200 /CP ngày 31/12/1997 “ Các cơ quan vận tải (ga, cảng) có
trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo
quản hàng hóa đó quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt
hàng theo lệnh giao hàng của Tổng công ty đã nhập hàng đó.” Do đó, với mọi điều
kiện giao nhận hàng uỷ thác cho cơ quan giao thông, còn người mua hay người

được uỷ thác không được quyền trực tiếp nhận hàng.
- Bước 8: Kiểm tra hàng nhập khẩu.
Quá trình kiểm tra hàng nhập khẩu có sự chứng kiến của các bên: Cơ quan giao
thông, đơn vị ngoại thương và đơn vị đặt hàng nội địa (nếu đây là đơn vị ủy thác
nhập khẩu hoặc mua hàng ngay tại cảng hay biên giới).
- Bước 9: Làm thủ tục thanh toán
Đơn vị nhập khẩu sẽ kiểm tra bộ chứng từ xem có xác thực, đồng bộ, phù hợp
với L/ C hay không trong vòng 5 -7 ngày trước khi chấp nhận thanh toán theo các
điều kiện đã ký kết trong hợp đồng.
Ngoài ra, có thể xảy ra bước thứ 10 là bước khiếu nại (khiếu nại người bán,
công ty bảo hiểm hoặc công ty nếu hàng hóa nhập khẩu không đạt yêu cầu).
2- Các phương thức nhập khẩu hàng hóa:
2.1- Các phương thức nhập khẩu hàng hoá:
Trong kinh doanh nhập khẩu có các phương thức nhập khẩu chủ yếu sau:
- Phương thức trực tiếp : là hình thức mà ở đó các đơn vị sản xuất kinh
doanh NK được Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh NK, trực tiếp tổ chức quan hệ,
đàm phán giao dịch, ký kết hợp đồng, thanh toán, bán hàng... Nhập khẩu trực tiếp
được tiến hành theo hiệp định hoặc nghị định thư đã ký kết giữa hai nhà nước (gọi
là nhập khẩu theo nghị định thư) hoặc hoạt động thương mại đã ký kết giữa hai hay
nhiều tổ chức buôn bán cụ thể (gọi là nhập khẩu ngoài nghị định thư).
 Nhập khẩu ngoài nghị định thư: là phương thức trong đó các doanh nghiệp hoàn
toàn chủ động tổ chức hoạt động nhập khẩu của mình từ khâu đầu tiên đến khâu
cuối cùng. Doanh nghiệp phải tự tìm kiếm nguồn hàng, bạn hàng, tự cân đối tài
chính, ký kết thực hiện hợp đồng, tổ chức giao dịch sao cho đạt hiệu quả kinh
doanh cao nhất. Đây là phương thức hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu.
 Nhập khẩu theo nghị định thư: là phương thức mà các doanh nghiệp phải tuân
thủ theo chỉ tiêu, pháp lệnh của Nhà nước. Nhà nước ta ký kết với chính phủ các
nước khác những nghị định thư hoặc hiệp định về trao đổi hàng hóa và giao cho các
đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thực hiện. Trong điều kiện nền kinh tế

thị trường hiện nay, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức này
rất ít, trừ những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt.
5


5
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
Phương thức trực tiếp được sử dụng khi doanh nghiệp nhập khẩu am hiểu thị
trường cũng như mặt hàng nhập khẩu. Trường hợp mua hàng của nước tham gia
triển lãm, hội chợ tại nước ta cũng coi là nhập khẩu trực tiếp.
- Nhập khẩu theo phương thức ủy thác: là hình thức NK áp dụng đối với
doanh nghiệp được Nhà nước cấp giấy phép NK nhưng chưa có đủ điều kiện trực
tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài hoặc có thể chưa trực tiếp lưu
thông hàng hoá giữa trong và ngoài nước nên phải uỷ thác cho doanh nghiệp có
chức năng làm hộ. Trong hình thức này, doanh nghiệp giao uỷ thác NK là doanh
nghiệp được tính doanh số, doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ đóng vai trò đại lý và
được hưởng một tỷ lệ hoa hồng tính trên giá trị của lô hàng NK theo tỷ lệ hai bên
thoả thuận trong hợp đồng.
- Nhập khẩu theo phương thức kết hợp cả trực tiếp và ủy thác: (hỗn hợp)
nghĩa là doanh nghiệp vừa được nhà nước cho phép nhập khẩu trực tiếp vừa nhờ
các doanh nghiệp khác nhập khẩu hộ hoặc nhập khẩu hộ các doanh nghiệp khác.
Thông thường các doanh nghiệp tuỳ thuộc vào quy định của nhà nước và khả
năng tài chính của mình mà lựa chọn phương thức nhập khẩu hàng hoá thích hợp
để đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho doanh nghiệp. Song hình thức nhập khẩu
trực tiếp có lợi hơn vì doanh nghiệp có thể nắm bắt thông tin về thị trường nước
ngoài một cách toàn diện chính xác không bị phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác,
lợi nhuận không bị chia sẻ, có điều kiện mở rộng với bạn hàng nước ngoài.
2.2- Các phương thức thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu hàng hoá:
Phương thức thanh toán là một điều khoản quan trọng trong các hợp đồng
ngoại và nó cũng có ảnh hưởng lớn tới việc hạch toán kế toán hoạt động nhập khẩu

hàng hoá. Trong buôn bán, người ta có thể lựa chọn nhiều phương thức khác nhau
để thu và trả tiền nhưng dù lựa chọn phương thức nào cũng đều xuất phát từ yêu
cầu của người bán là thu tiền nhanh và đủ, và yêu cầu của người mua là nhập hàng
đúng số lượng, chất lượng và đúng thời hạn.
Sau đây là 3 phương thức thanh toán phổ biến mà các đơn vị kinh doanh NK
thường sử dụng:
-Thư tín dụng (L/C):Theo phương thức này, người mua căn cứ vào hợp đồng
kinh tế làm thủ tục xin mở một tài khoản tín dụng chứng từ tại một ngân hàng theo
thoả thuận yêu cầu, ngân hàng này phải trả tiền cho người bán khi người bán nộp
đủ bộ chứng từ phù hợp với quy định trong L/C, nếu L/C thoả mãn các điều kiện
thì sẽ giao hàng cho người mua. Sau khi giao hàng, người bán lập chứng từ thanh
toán nhờ ngân hàng chuyển hộ bộ chứng từ cho người mua đồng thời thu tiền của
người mua để trả tiền cho người bán:
 Trường hợp 1: Hai bên mua bán ở khác địa phương.
 Trường hợp 2: Hai bên mua bán không tin cậy ở khả năng trả tiền
 Trường hợp 3: Số tiền tương đối lớn.
6


6
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
Ưu điểm: Phương thức này có tính bảo đảm cao, vì vậy được sử dụng phổ biến
nhất. Thường sử dụng khi nhận lô hàng có giá trị lớn.
Nhược điểm: Tính rủi ro ở phía nhà nhập khẩu cao hơn nhà xuất khẩu và chi phí
thanh toán khá tốn kém.
-Phương thức chuyển tiền: Là phương thức mà theo đó, người mua yêu cầu
ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người bán ở một địa điểm
nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do người mua yêu cầu. Phương tiện chuyển
tiền thường là hai hình thức chủ yếu sau:
 Điện báo: là hình thức mà ngân hàng thực hiện việc chuyển tiền bằng cách

điện ra lệnh cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người nhận.
 Thư chuyển tiền: là hình thức ngân hàng chuyển tiền bằng cách gửi thư ra
lệnh cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người nhận.
Ưu điểm: thủ tục đơn giản, phí thanh toán không cao, tiết kiệm thời gian. Thường
sử dụng khi nhận những lô hàng có giá trị không lớn.
Nhược điểm: đơn vị nhập khẩu có thể gặp rủi ro do bộ chứng từ giả, không thể sử
dụng khi nhận những lô hàng lớn (do ngân hàng không cho phép).
Trong hai hình thức trên thì hình thức điện báo có lợi cho nhà NK hơn vì thời
gian thực hiện nhanh hơn nhưng chí phí sẽ cao hơn cho nhà NK.
-Phương thức nhờ thu: theo phương thức này người bán sau khi giao hàng
ký phát hối phiếu đòi tiền người mua và thông qua ngân hàng nhờ thu hộ số tiền
ghi trên hối phiếu. Phương thức này có hai loại:
 Nhờ thu phiếu trơn: người bán nhờ ngân hàng thu hộ tiền người mua qua
hối phiếu, còn chứng từ thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
Phương thức này đơn giản và thường áp dụng với những bạn hàng tin cậy
lẫn nhau hoặc có quan hệ liên doanh với nhau. Phương thức này không
được áp dụng nhiều trong thanh toán mậu dịch vì nó không bảo đảm quyền
lợi cho người bán cũng như gây bất lợi cho người mua vì hối phiếu thường
đến sớm hơn chứng từ.
 Nhờ thu kèm chứng từ : theo đó người bán nhờ ngân hàng thu tiền hộ ở
người mua căn cứ cả vào hối phiếu và bộ chứng từ gửi kèm, khi người mua
chấp nhận trả tiền, ngân hàng sẽ giao bộ chứng từ cho người mua. Hìmh
thức này gồm hai loại : nhờ thu trả tiền đối chứng từ và nhờ thu chấp nhận
đối chứng từ.
Ngoài ra, còn có các phương thức thanh toán khác như: phương thức thanh
toán bằng séc, phương thức ghi sổ, phương thức thư uỷ thác mua, phương thức thư
bảo đảm trả tiền, phương thức thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài…
3- Các phương thức tiêu thụ hàng chủ yếu trong đơn vị kinh doanh nhập
khẩu hàng hoá:
3.1- Các mặt hàng nhập khẩu được tiêu thụ:

7


7
Nhận hàngtại cảngKý hợpđồng nội
Thanh toán
Người mua
Kho (Cửa hàng)
Đại lý hoặc nơi gửi bán
Viết hóa đơnbán hàng
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
Hàng nhập khẩu là hàng hóa mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta mua
từ nước ngoài theo các hợp đồng mua bán ngoại thương đã ký kết với các nước
bạn.
- Vật tư phục vụ cho phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.
- Hàng tiêu dùng thiết yếu
- Thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất, máy móc, công nghệ mới,...
3.2- Quy trình bán hàng nội địa:
- Trực tiếp: Trước khi nhập hàng, đơn vị nhập khẩu đã ký kết với một (hay
nhiều) người mua một hợp đồng nội tức là hàng đã được người mua đặt
trước khi nhập khẩu và họ sẽ nhận hàng ngay tại cảng hoặc được vận
chuyển đến tận nơi với số lượng theo thoả thuận trong hợp đồng (số lượng
thường rất lớn) gọi là giao hàng trực tiếp không qua kho Khi hàng giao
cho người mua xong thì hàng hóa đó được coi là tiêu thụ và doanh nghiệp
bị mất quyền sở hữu.
- Gián tiếp: Có ba hình thức cơ bản.
 Hàng bán tại kho (hoặc cửa hàng): Hàng sau khi làm xong thủ tục hải quan
được đơn vị nhập khẩu chuyển về kho hoặc cửa hàng bán lẻ hoặc bán buôn
cho người mua.
 Hàng gửi bán: Được chuyển cho người mua tới một địa điểm ghi trong hợp

đồng và số hàng đó vẫn thuộc quyền sở hữu của người bán cho tới khi được
người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng đó mới được
coi là tiêu thụ.
 Hàng gửi đại lý: Đây là hình thức xuất hàng giao cho các đại lý hoặc chuyển
đến cho các đại lý (coi như gửi đi bán). Các đại lý được hưởng chênh lệch
giá hoặc được chủ hàng trả hoa hồng tùy theo thỏa thuận giữa hai bên khi
tiêu thụ xong số hàng.
3.3- Các phương thức tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa:
Có hai phương thức tiêu thụ hàng mà các doanh nghiệp nhập khẩu hay áp dụng:
- Bán buôn: Đây là phương thức tiêu thụ hàng với số lượng lớn và là phương
thức bán chủ yếu nhất trong kinh doanh hàng nhập khẩu bao gồm: bán buôn theo
8


Nhận
hàng
8
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
phương thức trực tiếp (qua kho hoặc chuyển thẳng), bán buôn theo phương thức
chuyển hàng chờ chấp nhận, bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh
toán.
Ưu điểm: Bán được nhiều hàng trong một thời gian ngắn, không tốn chi phí vận
chuyển vì hàng thường được bán ngay tại cảng.
Nhược điểm: Giá không cao như hình thức bán lẻ và thường phải cho người mua
hưởng giảm giá hoặc chiết khấu khi bán hàng.
- Bán lẻ: Đây là phương thức tiêu thụ hàng với số lượng nhỏ bao gồm: bán hàng
thu tiền tập trung, bán hàng thu tiền trực tiếp, bán hàng tự chọn...
Ưu điểm: Bán được hàng với mức giá cao.
Nhược điểm: Hàng tiêu thụ chậm, tốn chi phí thuê cửa hàng, kho bãi.
II- Tổ chức hạch toán kế toán quá trình nhập khẩu hàng hóa:

1- Ý nghĩa và nhiệm vụ của tổ chức hạch toán kế toán quá trình nhập khẩu
hàng hóa:
1.1 Ý nghĩa tổ chức hạch toán kế toán nghiệp vụ nhập khẩu hàng hóa:
NK là hoạt động cơ bản và chủ đạo trong quan hệ kinh tế đối ngoại, là hoạt
động có ý nghĩa chiến lược đối với quá trình hiện đại hoá-công nghiệp hoá của đất
nước. Bởi vậy, mọi quốc gia đều coi trọng và có những chính sách, biện pháp nhằm
thúc đẩy hoạt động NK, đặc biệt công nghệ kỹ thuật hiện đại. Song đây lại là một
công việc hết sức khó khăn do tính chất phức tạp và đa dạng của nó. Đó là sự đa
dạng về đối tượng, phương thức NK, giá hàng NK, phương thức thanh toán, thị
trường nhập, đối tác xuất khẩu, pháp luật điều chỉnh. Đó là sự phức tạp có trong
mọi khâu của quá trình NK, từ tìm hiểu thị trường, nhu cầu, đối tác xuất khẩu đến
việc giao dịch, ký kết hợp đồng với những kỹ thuật nghiệp vụ đòi hỏi chuyên môn
sâu phức tạp trong khâu tổ chức thực hiện hợp đồng NK ( ký hợp đồng NK, tiến
hành NK, thanh quyết toán hợp đồng NK ), rồi có thể phải giải quyết những tranh
chấp, khiếu nại…Một sai sót nhỏ trong công tác NK cũng có thể gây ra những thiệt
hại rất lớn, nhiều khi không chỉ đơn thuần là thiệt hại về kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của NK đối với nền kinh tế quốc dân cũng
như tính chất và đặc điểm của nó, việc kiểm soát quản lý một cách toàn diện, chặt
chẽ hoạt động NK là công việc cần thiết. Điều này đặc biệt quan trọng đối với một
nước đang phát triển như Việt Nam. NK là con đường để có thể đón đầu phát triển
công nghệ hiện đại, hội nhập với thế giới song đó cũng có thể là con đường để
những biến động của thế giới tác động xấu đến nền kinh tế thị trường còn non trẻ
của Việt Nam. Do đó yêu cầu quản lý và đẩy mạnh hoạt động NK càng trở nên cần
thiết.
Hoạt động NK là hoạt động phức tạp nên công việc quản lý NK cũng không
kém phần khó khăn, đòi hỏi nhà quản lý phải sử dụng và phối hợp nhiều công cụ
9


9

313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
quản lý khác nhau.Với vai trò là một công cụ quản lý kinh tế tài chính trong doanh
nghiệp, thực hiện công việc thu thập xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ hoạt
động kinh tế tài chính phát sinh cũng như tình hình và kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp, kế toán có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động NK. Kế toán
hoạt động NK sẽ thu thập và cung cấp những thông tin, số liệu đã được tổng hợp và
hệ thống hoá toàn bộ quá trình kinh doanh NK, về hiệu quả của quá trình này. Các
nhà quản lý doanh nghiệp phải nắm chắc công cụ này để phục vụ tốt công tác quản
lý hoạt động NK, để có những quyết định, điều chỉnh, định hướng và có những biện
pháp thích hợp cho hoạt động NK mang lại hiệu quả cao.
Do tầm quan trọng của kế toán, của hoạt động NK mà ngoài việc bảo đảm
những nguyên tắc cơ bản của kế toán doanh nghiệp nói chung, kế toán hoạt động
NK còn phải vận dụng đúng đắn hình thức tổ chức kế toán thích hợp, xây dựng hệ
thống sổ sách chứng từ một cách khoa học tuỳ thuộc vào đặc điểm, quy mô hoạt
động NK và đặc điểm công tác quản lý doanh nghiệp. Phải xác định một cách đúng
đắn thời điểm, quy mô hoạt động NK để đảm bảo phản ánh chính xác kịp thời
những nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động NK. Tổ chức kế toán phải kết
hợp với những chứng từ, tài khoản, sổ sách kế toán trong mối liên hệ chặt chẽ của
một hệ thống mới có thể cung cấp thông tin chính xác,toàn diện về tình hình hoạt
động NK nói chung cũng như tình hình và kết quả của hoạt động NK theo từng
thương vụ nói riêng.
1.2-Nhiệm vụ tổ chức hạch toán kế toán quá trình nhập khẩu hàng hóa :
Trong các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa nói
riêng, hạch toán kế toán là công cụ cho việc quản lý tài sản, quản lý kinh doanh và
thực hiện hạch toán kinh tế. Nhiệm vụ của kế toán nhập khẩu:
- Phản ánh và kiểm tra tình hình ký kết và thực hiện các hợp đồng nhập khẩu.
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc kế toán ngoại tệ.
- Thanh toán kịp thời công nợ của các thương vụ nhập khẩu để đảm bảo cán cân
ngoại thương.
- Phản ánh và giám đốc các nghiệp vụ nhập khẩu hàng hóa:

 Kế toán việc đảm bảo an toàn hàng hóa nhập khẩu cả về số lượng và giá trị.
 Tổ chức kế toán tổng hợp và chi tiết nghiệp vụ mua hàng nhập khẩu và các
nghiệp vụ thanh toán ngoại tệ một cách hợp lý, phù hợp đặc điểm kinh doanh
của đơn vị.
 Phản ánh chi tiết và tổng hợp các khoản chi phí, thu nhập phát sinh trong
kinh doanh nhập khẩu. Trên cơ sở đó, tính toán chính xác, trung thực các
khoản thu, chi.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, kế toán phải tổ chức kế toán nhập khẩu
hàng hóa sao cho từ việc thu thập xử lý, kiểm tra về chứng từ ban đầu được đảm
bảo tính hợp lệ, hợp pháp từ khâu mua (sử dụng ngoại tệ hiệu quả và tiết kiệm) đến
10


10
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
khâu bán (đảm bảo thu được tiền không những thu hồi đủ vốn mà còn có lãi). Bên
cạnh đó, kế toán phải áp dụng phương pháp hạch toán được quy định trong chế độ
kế toán doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 1141- TC/QĐ/CĐKT của
Bộ trưởng Bộ Tài chính và các quy định được ban hành khác có liên quan. Căn cứ
vào các quy định này, kế toán ghi sổ sách kế toán và lập báo cáo để cung cấp tin
tức cho lãnh đạo, giúp họ đưa ra những quyết định đúng đắn phục vụ cho quá trình
nhập khẩu và bán hàng.
2- Hệ thống chứng từ sử dụng cho kế toán nhập khẩu:
Khi một nghiệp vụ kinh tế phát sinh, chứng từ chính là phương tiện minh
chứng tính hợp pháp của nghiệp vụ, đồng thời là phương tiện thông tin về kết quả
nghiệp vụ đó. Chứng từ chứa đựng tất cả các chỉ tiêu đặc trưng cho từng nghiệp vụ
kinh tế.
Đối với doanh nghiệp NK, ngoài chứng từ thông thường như các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh nội địa, doanh nghiệp kinh doanh NK còn có những
loại chứng từ riêng biệt. Đó là những chứng từ cơ bản của quá trình thực hiện hợp

đồng ngoại thương, là những chứng từ xác nhận việc chấp hành hợp đồng đó như
việc người bán giao hàng, chuyên chở hàng, bảo hiểm hàng, thủ tục hải quan…
Căn cứ vào chức năng, nội dung, các chứng từ của hoạt động NK được chia
thành nhiều loại:
Các chứng từ liên quan đến hàng nhập khẩu:
 Chứng từ hàng hóa: nêu rõ những đặc điểm của hàng hóa. Các chứng từ này do
người bán xuất trình và người mua trả tiền khi nhận chúng.
Những chứng từ hàng hóa chủ yếu là:
 Hoá đơn thương mại hay còn gọi là vận đơn nước ngoài: là chứng từ cơ bản
trong việc thanh toán, ghi rõ số tiền người mua phải trả cho người bán và là cơ
sở để theo dõi việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu hoặc khai báo hải quan.
 Bảng kê chi tiết: là chứng từ ghi chi tiết hàng hóa trong kiện hàng. Chứng từ này
tạo điều kiện để kiểm tra hàng hóa.
 Chứng từ vận tải trong nước hay còn gọi là vận đơn trong nước là chứng từ xác
nhận việc chuyên chở hàng hóa do người chuyên chở hoặc người đại diện cấp cho
đơn vị nhập khẩu.
 Chứng từ bảo hiểm : gồm hoá đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm.
 Chứng từ kho hàng: do công ty kho hàng cấp cho người chủ hàng.
Các chứng từ liên quan đến kho hàng là:
 Biên lai kho hàng: biên nhận đã lưu kho số hàng hóa theo thoả thuận với chủ hàng.
 Chứng chỉ lưu kho: xác nhận hàng hóa đã được tiếp nhận trong kho.
 Chứng từ hải quan: là chứng từ mà người chủ hàng phải xuất trình với cơ quan hải
quan khi hàng hóa ngang qua biên giới quốc gia. Gồm:
11


11
313131 Luận văn Phạm Mỹ Hạnh
 Tờ khai hải quan: do cơ quan hải quan cấp cho người nhập khẩu và là căn cứ để
cơ quan này tính thuế nhập khẩu và thuế GTGT hàng nhập khẩu.

 Giấy phép nhập khẩu: do Bộ Thương mại cấp cho phép người chủ hàng thực
hiện nhập khẩu hàng hóa theo các điều khoản chi tiết nhất định.
Ngoài ra còn có các loại hóa đơn khác như: Giấy thanh toán tiền tạm ứng, thông
báo của hải quan về thuế nhập khẩu, phiếu chi (séc), phiếu nhập kho...
- Các chứng từ liên quan đến bán hàng nội địa:
Gồm có: phiếu xuất kho, phiếu chi, phiếu thu, hóa đơn <GTGT> hoặc hóa đơn
bán hàng, bảng kê tính thuế GTGT đầu ra phải nộp, biên bản hàng bán bị trả lại,
chứng từ về giảm giá hàng bán hoặc chiết khấu thanh toán,...
3- Hệ thống tài khoản sử dụng cho kế toán nhập khẩu:
Trong chế độ kế toán có hệ thống tài khoản kế toán thống nhất được sử dụng đủ
để phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế-tài chính của các ngành kinh tế quốc dân.
Ngành kinh doanh XNK có thể căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán thống nhất
của Nhà nước và đặc điểm kinh doanh của ngành để xây dựng hệ thống tài khoản
kế toán thống nhất trong ngành. Do vậy, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu sử
dụng các tài khoản thuộc hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp được ban hành
theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 và bổ sung thêm một số tài
khoản theo Thông tư số 10/TT/CĐKT ngày 20/03/1997.
- Những tài khoản sử dụng đối với hoạt động nhập khẩu: TK 1112- Tiền mặt
tại quỹ là ngoại tệ, 1122- Tiền gửi ngân hàng là ngoại tệ, TK 133- Thuế GTGT đầu
vào, TK 144- Thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn, TK 151- Hàng mua đang đi
đường, TK1561- Trị giá hàng mua, TK1562- Chi phí mua hàng, TK 331- Phải trả
người bán (chi tiết), TK 3333- Thuế xuất nhập khẩu, TK 413- Chênh lệch tỷ giá,
TK 6112- Mua hàng hóa, TK 007- Ngoại tệ các loại (Nguyên tệ) .....Đặc biệt, TK
6112 chỉ sử dụng trong các doanh nghiệp áp dụng phương pháp hạch toán hàng tồn
kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
- Những tài khoản sử dụng đối với hoạt động tiêu thụ hàng nhập khẩu:
TK 131- Phải thu khách hàng (chi tiết), TK 157-Hàng gửi bán, TK 3331- Thuế
GTGT hàng NK, TK 511-Doanh thu bán hàng hóa, TK 531- Hàng bán bị trả lại,
TK 532- Giảm giá hàng bán, TK 641- Chi phí bán hàng, TK 642- Chi phí quản lý
doanh nghiệp, TK 911- Xác định kết quả kinh doanh .....

4- Tổ chức hạch toán kế toán quá trình nhập khẩu hàng hóa
4.1-Xác định thời điểm hàng hóa được coi là NK và giá hàng NK :
4.1.1- Xác định thời điểm hàng hóa được coi là nhập khẩu
Xác định thời điểm hàng hóa được coi là nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng
đối với công tác kế toán. Theo quy định chung của quốc tế thì thời điểm hàng được
12


12

×