Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.87 KB, 38 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM
TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Kiểm toán báo cáo tài chính
Thuật ngữ kiểm toán thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ hơn
một chục năm cuối thế kỷ XX. Kiểm toán không phải là hoạt động tự thân và vị thân.
Kiểm toán sinh ra từ yêu cầu của quản lý và phục vụ cho yêu cầu của quản lý.
Theo đối tượng cụ thể của kiểm toán, kiểm toán được phân thành kiểm toán
báo cáo tài chính, kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán liên kết. Kiểm toán tài chính là
hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán bởi nó chứa đựng đầy đủ sắc thái kiểm toán
ngay từ khi ra đời cũng như trong quá trình phát triển. Kiểm toán tài chính là xác
minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính của các thực thể kinh tế do những
người có trình độ nghiệp vụ tương xứng đảm nhận và dựa trên hệ thống pháp lý đang
có hiệu lực”.Thông thường, thực thể kinh tế (khách thể của kiểm toán tài chính ) là
các đơn vị kinh doanh và mục đích của kiểm toán tài chính là xem xét các thông tin
trình bày trên báo cáo tài chính có trung thực, khách quan theo những nguyên tắc kế
toán được chấp nhận rộng rãi.
Đối tượng kiểm toán tài chính là bảng khai tài chính. Bộ phận quan trọng của
các bảng khai này là Báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là hệ thống báo cáo được
lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành phản ánh các thông tin kinh tế, tài
chính chủ yếu của đơn vị. Chủ thể kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính là
kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập hay kiểm toán nội bộ.Theo Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam số 200: “Mục tiêu của kiểm toán Báo cáo tài chính là giúp cho kiểm
toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng Báo cáo tài chính có
được lập trên cơ sở chuẩn mực chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, có
tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính
trên các khía cạnh trọng yếu hay không? ” ( Trích mục 11 Chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam số 200 về mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán Báo cáo tài
chính ).
Với kiểm toán tài chính có hai cách cơ bản để phân chia các bảng khai tài
chính thành các phần hành kiểm toán: phân theo khoản mục hoặc phân theo chu


trình.
Phân theo khoản mục là cách phân chia máy móc từng khoản mục hoặc nhóm
các khoản mục theo thứ tự trong các Bảng khai vào một phần hành. Cách chia này
đơn giản song không hiệu quả do tách biệt những khoản mục ở vị trí khác nhau
nhưng có liên hệ chặt chẽ với nhau như hàng tồn kho và giá vốn hàng bán chẳng hạn.
Phân theo chu trình là cách tiếp cận thông dụng hơn căn cứ vào mối liên hệ
chặt chẽ lẫn nhau giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành, các yếu tố trong một
chu trình chung của hoạt động tài chính. Cách phân chia này hiệu quả hơn do xuất
phát từ mối liên hệ vốn có của các nghiệp vụ và từ đó thu gom được các đầu mối của
các mối liên hệ trong kinh tế và trong ghi sổ kế toán chứa đựng trong bảng khai tài
chính. Theo cách phân chia này kiểm toán bảng khai tài chính thường gồm các phần
hành cơ bản sau:
Kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền
Kiểm toán tiền mặt
Kiểm toán chu trình mua hàng trả tiền
Kiểm toán chu trình thuê mướn nhân công và trả lương
Kiểm toán hàng tồn kho
Kiểm toán huy động- hoàn trả vốn
1.1.2 Kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính
Quy trình một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính thường tiến hành theo ba giai
đoạn như sau: lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp kiểm toán, thực hiện kế
Giai đoạn ILập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Giai đoạn IIThực hiện kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn IIIHoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm TOÁN
hoạch kiểm toán, hoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán. Quy
trình một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính được khái quát qua sơ đồ số 1.
Sơ đồ 1: Các giai đoạn của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
Kế hoạch kiểm toán là quá trình cân đối tích cực giữa nhu cầu và nguồn lực đã
có. Lập kế hoạch là bước công việc đầu tiên của tổ chức công tác kiểm toán nhằm tạo
ra tất cả các điều kiện và tiền đề cụ thể trước khi thực hành kiểm toán. Kế hoạch

kiểm toán bao gồm : kế hoạch chiến lược, kế hoạch tổng thể và chương trình kiểm
toán.
- Kế hoạch chiến lược: là định hướng cơ bản cho cuộc kiểm toán dựa trên hiểu
biết của Công ty kiểm toán về tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn
vị được kiểm toán.
- Kế hoạch tổng thể: là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và phương pháp
tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục kiểm toán.
- Chương trình kiểm toán: là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán
cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các kiểm toán
viên cũng như dự kiến về những tư liệu, thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập.
Kế hoạch kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả
chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán giúp các kiểm toán viên thu
thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để các kiểm toán
viên đưa ra ý kiến xác đáng về báo cáo tài chính. Từ đó giúp các kiểm toán viên hạn
chế những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và
giữ vững được uy tín nghề nghiệp đối với khách hàng. Ngoài ra kế hoạch kiểm toán
còn giúp các kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau và là căn cứ để các công ty
kiểm toán tránh xảy ra những bất đồng đối với khách hàng.
1.2 Trình tự lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát
Việc lập kế hoạch kiểm toán là tiền đề để cuộc kiểm toán đạt kết quả tốt, hoàn
thành đúng hạn và đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán.
Theo đó, việc lập kế hoạch kiểm toán thường được triển khai qua các bước chi tiết
sau.
1.2.1.1 Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán là bước công việc đầu tiên nhằm tạo ra tất cả
tiền đề và điều kiện cụ thể cho việc lập kế hoạch kiểm toán tổng quát. Công việc này
bắt được bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán thu nhận một khách hàng.
Thu nhận khách hàng là quá trình kiểm toán viên liên lạc với khách hàng tiềm năng.
Đó là những khách hàng có nhu cầu cần kiểm toán báo cáo tài chính. Khi có yêu cầu

kiểm toán từ phía khách hàng, kiểm toán viên phải đánh giá nên hay không nên chấp
nhận yêu cầu kiểm toán. Đối với những khách hàng hiện tại, đã được công ty kiểm
toán qua các năm trước, kiểm toán viên phải quyết định có nên tiếp tục kiểm toán hay
chấm dứt kiểm toán. Trên cơ sở đã xác định được đối tượng khách hàng có thể phục
vụ trong tương lai, công ty kiểm toán sẽ tiến hành các công việc cần thiết để chuẩn bị
lập kế hoạch kiểm toán tổng quát bao gồm: đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán,
nhận diện các lý do kiểm toán, lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán và ký hợp đồng
kiểm toán.
Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán là việc kiểm toán viên xem xét chấp
nhận một khách hàng mới hay tiếp tục kiểm toán cho một khách hàng cũ có khả năng
làm tăng rủi ro cho hoạt động của kiểm toán viên hoặc ảnh hưởng đến uy tín của
công ty kiểm toán không? Công việc này được thực hiện thông qua các bước sau:
+ Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng:
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 220 Kiểm soát chất lượng đối với việc
thực hiện một hợp đồng kiểm toán của công ty kiểm toán cho rằng kiểm toán viên
phải xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm
toán.
Để đưa ra quyết định chấp nhận hay giữ lại một khách hàng thì công ty kiểm
toán phải xem xét đến tính độc lập của kiểm toán viên, khả năng phục vụ khách hàng
của công ty kiểm toán và tính liêm chính của ban giám đốc công ty khách hàng.
+ Tính liêm chính của ban giám đốc công ty khách hàng:
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ, tính liêm chính của ban giám đốc là bộ phận cấu thành then chốt của môi trường
kiểm soát. Đây là nền tảng cho tất cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm soát nội
bộ. Do đó, tính liêm chính của ban giám đốc rất quan trọng đối với quy trình kiểm
toán bởi lẽ ban giám đốc có thể phản ánh sai các nghiệp vụ hoặc giấu diếm các thông
tin dẫn tới các sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính. Ban giám đốc được xem là
nhân tố rủi ro ban đầu của việc báo cáo gian lận các thông tin tài chính. Nếu ban
giám đốc thiếu liêm chính, kiểm toán viên không thể dựa vào bất kì bản giải trình
nào của ban giám đốc cũng như không thể dựa vào các sổ sách kế toán. Thêm vào đó,

ban giám đốc là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc tạo ra một môi trường kiểm
soát vững mạnh. Nếu kiểm toán viên nghi ngờ về tính trung thực của ban giám đốc,
có ảnh hưởng nghiêm trọng tới báo cáo tài chính kiểm toán viên có thể kết luận cuộc
kiểm toán không thể thực hiện được.
+ Liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm:
Đối với những khách hàng tiềm năng: nếu khách hàng này trước đây đã được
kiểm toán bởi một công ty kiểm toán khác thì kiểm toán viên mới ( kiểm toán viên kế
nhiệm) phải chủ động liên lạc với kiểm toán viên cũ ( kiểm toán viên tiền nhiệm) vì
đây là nguồn thông tin đầu tiên để đánh giá khách hàng. Chuẩn mực kiểm toán yêu
cầu kiểm toán viên kế nhiệm phải liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm về những
vấn đề liên quan đến cuộc kiểm toán để quyết định có chấp nhận kiểm toán hay
không. Các vấn đề này bao gồm: những thông tin về tính liêm chính của ban giám
đốc, những bất đồng giữa ban giám đốc và kiểm toán viên tiền nhiệm về các nguyên
tắc kế toán, thủ tục kiểm toán hoặc các vấn đề quan trọng khác… và lý do thay đổi
kiểm toán viên của khách hàng. Ngoài ra kiểm toán viên có thể xem xét hồ sơ kiểm
toán của kiểm toán viên tiền nhiệm để hỗ trợ cho kiểm toán viên kế tục trong việc lập
kế hoạch kiểm toán.
Đối với những khách hàng mà trước đây chưa từng được công ty kiểm toán
nào kiểm toán thì để có thông tin về khách hàng, kiểm toán viên có thể thu thập các
thông tin này qua việc nghiên cứu sách báo, tạp chí chuyên ngành, thẩm tra các bên
liên quan như ngân hàng, cố vấn pháp lý, các bên có mối quan hệ tài chính buôn bán
với khách hàng… Ngoài ra kiểm toán viên có thể thuê các nhà điều tra chuyên
nghiệp để điều tra về vấn đề cần thiết khác. Cách thu thập tin tức này cũng có thể áp
dụng trong trường hợp khách hàng đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán
trước đây nhưng khách hàng không đồng ý cho kiểm toán viên mới tiếp xúc với kiểm
toán viên tiền nhiệm. Hoặc do trước đây có những bất đồng nghiêm trọng giữa khách
hàng và kiểm toán viên tiền nhiệm nên kiểm toán viên tiền nhiệm không cung cấp đủ
các thông tin cần thiết vho kiểm toán viên mới.
Đối với khách hàng cũ, hàng năm kiểm toán viên phải cập nhật các thông tin
về khách hàng và đánh giá xem liệu có rủi ro nào khiến kiểm toán viên phải ngừng

cung cấp các dịch vụ kiểm toán cho khách hàng. Những mâu thuẫn về các vấn đề
như: phạm vi thích hợp của cuộc kiểm toán, loại báo cáo kiểm toán phải công bố,
tiền thù lao, giữa hai bên có những vụ kiện tụng hoặc trong trường hợp kiểm toán
viên cho rằng ban giám đốc khách hàng thiếu liêm chính…thì việc có tiếp tục kiểm
toán hay không tiếp tục kiểm toán được kiểm toán viên xem xét một cách kỹ
lưỡng.Từ những thông tin thu được, kiểm toán viên có thể cân nhắc đánh giá khả
năng chấp nhận hay tiếp tục kiểm toán cho khách hàng.
Điều quan trọng nhất của kiểm toán viên khi đánh giá có chấp nhận khách
hàng hay không chính là việc xác định khả năng có thể kiểm toán của khách hàng.
Khả năng có thể kiểm toán được xác định theo một vài yếu tố chi phối. Tính thận
trọng nghề nghiệp đòi hỏi kiểm toán viên phải đánh giá tính liêm chính của ban giám
đốc và hệ thống kế toán của khách hàng. Hệ thống kế toán của khách hàng phải cung
cấp đầy đủ bằng chứng chứng minh cho các nghiệp vụ phát sinh và đảm bảo rằng tất
cả các nghiệp vụ cần được ghi chép thì thực tế cũng đã được ghi lại. Những nghi ngờ
về hệ thống kế toán có thể làm cho kiểm toán viên kết luận rằng khó có thể có bằng
chứng tin cậy và đầy đủ làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên về các báo cáo tài
chính.
Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán là tiền đề cho công việc tiếp theo của
kiểm toán viên trong giai đoạn chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán đó là: nhận diện các
lý do kiểm toán của công ty khách hàng.
Thực chất của việc nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là
việc xác định người sử dụng báo cáo tài chính và mục đích sử dụng của họ.
Để biết được điều đó, kiểm toán viên có thể phỏng vấn trực tiếp ban giám đốc
khách hàng ( đối với khách hàng mới ) hoặc dựa vào kinh nghiệm của cuộc kiểm
toán đã được thực hiện trước đó ( đối với khách hàng cũ ). Và trong suốt quá trình
thực hiện kiểm toán sau này, kiểm toán viên sẽ thu thập thêm thông tin để hiểu biết
thêm về lý do kiểm toán của công ty khách hàng.
Việc xác định người sử dụng báo cáo tài chính và mục đích sử dụng của họ là
hai yếu tố chính ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng kiểm toán phải thu thập và mức
độ chính xác của ý kiến kiểm toán viên đưa ra trong báo cáo kiểm toán. Cụ thể, nếu

các báo cáo tài chính cần được sử dụng rộng rãi thì mức độ trung thực, hợp lý của
các thông tin trên báo cáo tài chính đòi hỏi càng cao. Do đó số lượng bằng chứng
kiểm toán cần thu thập cũng như quy mô và độ phức tạp của cuộc kiểm toán sẽ càng
tăng lên. Điều này lại càng đòi hỏi phải có một số lượng và cơ cấu kiểm toán viên
thích hợp để thực hiện kiểm toán. Do đó lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm
toán là bước quan trọng tiếp theo trong giai đoạn chuẩn bị kế hoạch kiểm toán.
Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích hợp cho cuộc kiểm toán không chỉ
hướng tới hiệu quả của cuộc kiểm toán mà còn tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán
chung được thừa nhận ( GENERALLY ACCEPTED AUDITING STANDARDS - GASS). Chuẩn mực
Kiểm toán chung đầu tiên nêu rõ: “ quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi một
hoặc nhiều người đã được đào tạo đầy đủ thành thạo như một kiểm toán viên”( trích
trang 248 Lý thuyết kiểm toán ).Việc lựa chọn này được tiến hành trên yêu cầu về số
người, trình độ khả năng và yêu cầu chuyên môn kỹ thuật và thường do ban giám đốc
công ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo.
Trong quá trình lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán, công ty kiểm
toán cần quan tâm tới ba vấn đề:
Thứ nhất: Nhóm kiểm toán viên có những người có khả năng giám sát một
cách thích đáng các nhân viên mới và chưa có nhiều kinh nghiệm, và điều này cũng
được Chuẩn mực đầu tiên trong nhóm các chuẩn mực về công việc tại chỗ trong
GAAS qui định.
Thứ hai: Công ty kiểm toán cần tránh thay đổi kiểm toán viên trong các cuộc
kiểm toán cho một khách hàng trong nhiều năm. Việc tham gia kiểm toán cho một
khách hàng trong nhiều năm có thể giúp cho kiểm toán viên tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm cũng như có được hiểu biết sâu sắc về ngành nghề kinh doanh của khách
hàng đang được kiểm toán.
Thứ ba: Khi phân công kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán cần chú ý lựa
chọn những kiểm toán viên có kiến thức và kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh
của kháchh hàng.
Việc quan tâm đầy đủ các vấn đề trên khi lựa chọn đội ngũ kiểm toán sẽ góp
phần giúp công ty kiểm toán thực hiện cuộc kiểm toán có chất lượng và hiệu quả.

Khi đã quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng và xem xét các vấn đề
nêu trên, bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán mà công
ty kiểm toán phải thực hiện là ký kết hợp đồng kiểm toán. Đây là sự thoả thuận chính
thức giữa công ty kiểm toán và khách hàng về việc kiểm toán và các dịch vụ liên
quan khác.
Ở nhiều nước, thoả thuận giữa bên cung cấp dịch vụ kiểm toán và bên sử dụng
dịch vụ kiểm toán được thể hiện qua Thư hẹn kiểm toán. Thư hẹn kiểm toán thường
do kiểm toán viên soạn thảo và gửi cho khách hàng. Nếu khách hàng chấp thuận các
điều khoản thì họ sẽ ký vào Thư hẹn kiểm toán và gửi trả lại một bản sao đã ký cho
công ty kiểm toán. Còn ở Việt Nam, công ty kiểm toán và khách hàng thường gặp gỡ
trực tiếp, thoả thuận các hợp đồng và ký một hợp đồng kiểm toán.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 210 Hợp đồng kiểm toán thì hợp
đồng kiểm toán phải được lập và ký chính thức trước khi tiến hành công việc kiểm
toán nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng và của công ty kiểm toán. Trong một số
trường hợp đặc biệt, “ nếu khách hàng và công ty kiểm toán sử dụng văn bản cam kết
thay cho hợp đồng kiểm toán thì văn bản cam kết phải đảm bảo các điều khoản về
điều kiện cơ bản của hợp đồng kiểm toán” ( Trích mục 5 Chuẩn mực Kiểm toán Việt
Nam số 210 về Hợp đồng kiểm toán )
Hợp đồng kiểm toán được ký kết giữa bên cung cấp dịch vụ kiểm toán và bên
sử dụng dịch vụ kiểm toán bao gồm các nội dụng chủ yếu sau:
+ Mục đích và phạm vi kiểm toán: Mục tiêu của cuộc kiểm toán là cái đích cần
đạt tới đồng thời là thước đo kết quả của mỗi cuộc kiểm toán cụ thể. Trong cuộc
kiểm toán Báo cáo tài chính do kiểm toán độc lập tiến hành, mục tiêu của cuộc kiểm
toán thường là xác định tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên Báo cáo tài
chính. Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian, thời gian của đối tượng kiểm
toán, thường được xác định cùng với việc xác định mục tiêu của cuộc kiểm toán.
Trong cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính, phạm vi kiểm toán thường là toàn bộ Báo
cáo tài chính của một năm tài chính.
+ Trách nhiệm của ban giám đốc công ty khách hàng và kiểm toán viên: Ban
Giám đốc có trách nhiệm trong việc lập và trình bày trung thực các thông tin trên

Báo cáo tài chính, kiểm toán viên có trách nhiệm đưa ra ý kiến độc lập về Báo cáo tài
chính dựa trên kết quả của cuộc kiểm toán. Và trách nhiệm của công ty khách hàng
trong việc cung cấp các tài liệu và thông tin liên quan đến công việc kiểm toán.
+ Hình thức thông báo kết quả kiểm toán: Kết quả kiểm toán thường được biểu
hiện cụ thể dưới một báo cáo kiểm toán và có kèm theo một thư quản lý trong đó nêu
rõ những khiếm khuyết của hệ thống kiểm soát nội bộ hoặc những gợi ý sửa chữa
những khuyết điểm này.
+ Thời gian tiến hành cuộc kiểm toán: thời gian nghiên cứu sơ bộ, thời gian
kiểm toán chính thức, thời điểm kết thúc kiểm toán và phát hành báo cáo kiểm toán.
+ Căn cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán: Khẳng định rằng
kiểm toán viên không chịu trách nhiệm những sai sót do bản chất và hạn chế vốn có
của hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ.
Hợp đồng kiểm toán là cơ sở pháp lý để kiểm toán viên thực hiện các bước
tiếp theo của cuộc kiểm toán và có thể ảnh hưởng đến trách nhiệm pháp lý của kiểm
toán viên đối với khách hàng. Sau khi hợp đồng kiểm toán được ký kết, công ty kiểm
toán trở thành chủ thể chính thức của công ty khách hàng.
Sau khi ký kết hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên bắt đầu lập kế hoạch kiểm
toán tổng quát. Trong giai đoạn này kiểm toán viên thực hiện các công việc bao gồm:
thu thập thông tin cơ sở, thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng và
thực hiện các thủ tục phân tích, đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán, tìm hiểu
hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát.
1.2.1.2 Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin cơ sở là quá trình kiểm toán viên thu thập hiểu biết về
ngành nghề, công việc kinh doanh của khách hàng, xem xét lại kết quả của cuộc
kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung, tham quan nhà xưởng, nhận diện các bên
hữu quan và dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài.
Những hiểu biết về ngành nghề kinh doanh bao gồm những hiểu biết chung về
nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động của đơn vị và sự hiểu biết cụ thể hơn về tổ chức và
hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Ngoài ra, kiểm toán viên còn phải hiểu cả
những khía cạnh đặc thù của một tổ chức cụ thể như: cơ cấu tổ chức, dây chuyền và

các dịch vụ sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng và vị trí của kiểm toán nội bộ…để hiểu
rõ các sự kiện, các nghiệp vụ và các hoạt động có thể tác động đến Báo cáo tài chính
và để thực hiện quá trình so sánh khách hàng này với các đơn vị khác trong ngành
nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 Kế hoạch kiểm toán qui định kiểm
toán viên phải tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng, và
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam 310 Hiểu biết về tình hình kinh doanh đã hướng
dẫn: “ Để thực hiện được kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải có hiểu
biết về tình hình kinh doanh đủ để nhận thức và xác định các dữ kiện, nghiệp vụ và
thực tiễn hoạt động của đơn vị được kiểm toán mà theo đánh giá của kiểm toán viên,
chúng có thể ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của kiểm
toán viên hoặc đến báo cáo kiểm toán” ( Trích mục 2 Chuẩn mực Kiểm toán Việt
Nam 310 Hiểu biết về tình hình kinh doanh ). Điều này rất cần thiết khi kiểm toán
viên thực hiện kiểm toán với tính thận trọng nghề nghiệp đúng mức. Mỗi ngành nghề
sản xuất kinh doanh có những hệ thống kế toán riêng và áp dụng những nguyên tắc
kế toán cũng thay đổi theo ngành nghề kinh doanh của khách hàng.
Kiểm toán viên có thể có được hiểu biết này bằng nhiều cách nhưng phương
pháp thường được sử dụng nhiều nhất là trao đổi với các kiểm toán viên, những
người đã tiến hành kiểm toán cho khách hàng những năm trước hoặc đã kiểm toán
cho những khách hàng khác trong cùng ngành nghề kinh doanh hoặc trao đổi trực
tiếp với nhân viên, ban giám đốc công ty khách hàng.
Ngoài ra kiểm toán viên có thể thu thập được những thông tin hữu ích về công
việc kinh doanh của khách hàng khi xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và
hồ sơ kiểm toán chung.
Các hồ sơ kiểm toán năm trước thường chứa đựng rất nhiều thông tin về khách
hàng, về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và các đặc điểm hoạt động khác.
Ngoài ra đa phần các công ty kiểm toán đều duy trì hồ sơ kiểm toán thường xuyên
đối với khách hàng . Hồ sơ này có các bản sao của các tài liệu như : sơ đồ tổ chức bộ
máy , điều lệ công ty, chính sách tài chính , kế toán… Qua đó kiểm toán viên sẽ tìm
thấy những thông tin hữu ích về công việc kinh doanh của khách hàng. Việc cập nhật

và xem xét các sổ sách của công ty là rất cần thiết vì qua đó kiểm toán viên không
chỉ xác định được các quyết định của nhà quản lý có phù hợp với chính sách pháp
luật của Nhà nước, với các chính sách hiện hành của công ty hay không mà còn giúp
kiểm toán viên hiểu được bản chất của các số liệu cũng như sự biến động của chúng
trên các báo cáo tài chính được kiểm toán.
Để có được những hiểu biết rõ hơn về tình hình kinh doanh thực tế của khách
hàng kiểm toán viên tiến hành công việc tham quan nhà xưởng. Việc tham quan nhà
xưởng , quan sát trực tiếp hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ cung cấp cho
kiểm toán viên những điều mắt thấy tai nghe về quy trình sản xuất kinh doanh của
khách hàng và nó cũng cho phép kiểm toán viên gặp những nhân vật chủ chốt cũng
như cung cấp cho kiểm toán viên một cái nhìn tổng thể về công việc kinh doanh của
khách hàng( đặc biệt là công tác bảo vệ tài sản). Điều này tạo điều kiện cho việc
thuyết minh số liệu kế toán, phát hiện những vấn đề cần quan tâm như sản xuất đình
trệ, sản phẩm ứ đọng, máy móc lạc hậu hay không phát huy được hết công suất…
Ngoài ra kiểm toán viên cũng có được những nhận định ban đầu về phong cách quản
lý của ban giám đốc, tính hệ thống trong việc tổ chức, sắp đặt công việc…
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cần xác định tất cả các
bên hữu quan với khách hàng. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 550 Các
bên hữu quan nêu rõ khái niệm về các bên hữu quan : các bên hữu quan được hiểu là
các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty khách hàng hay bất kỳ
công ty chi nhánh , một cá nhân hay tổ chức nào mà công ty khách hàng có quan hệ
và các cá nhân tổ chức đó có khr năng điều hành, kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng
kể tới các chính sách kinh doanh quản trị của công ty khách hàng.
Theo các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận, bản chất mối quan hệ giữa
các bên hữư quan phải được tiết lộ trên các sổ sách báo cáo và qua mô tả các nghiệp
vụ kinh tế. Do vậy các bên hữu quan và các nghiệp vụ giữa các bên hữu quan có ảnh
hưởng lớn đến sự nhận định của người sử dụng báo cáo tài chính. Do đó kiểm toán
viên phải xác định các bên hữu quan và nhận định sơ bộ về mối quan hệ này ngay
trong giai đoạn lập kế hoạch thông qua phỏng vấn ban giám đốc, xem sổ theo dõi cổ
đông, sổ theo dõi khách hàng... Từ đó bước đầu dự đoán các vấn đề có thể phát sinh

giữa các bên hữu quan để có thể hoạch định một kế hoạch kiểm toán phù hợp.
Bước cuối cùng trong thu thập thông tin cơ sở là kiểm toán viên dự kiến nhu
cầu chuyên gia bên ngoài.Thuật ngữ “ chuyên gia” chỉ một người hoặc một văn
phòng có năng lực, hiểu biết và có kinh nghiệm cụ thể trong một lĩnh vực kế toán và
kiểm toán. Nếu công ty kiểm toán cho rằng không ai trong nhóm kiểm toán có
chuyên môn hoặc khả năng về lĩnh vực nào đó để thực hiện các thủ tục kiểm toán cần
thiết nhất định ( ví dụ như khi đánh giá một tác phẩm nghệ thuật , vàng bạc đá quý,
hoặc khi cần tư vấn pháp lý về các hợp đồng )… khi đó công ty kiểm toán có thể
quyết định sử dụng chuyên gia bên ngoài.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 620 Sử dụng tư liệu của một chuyên gia ,
hướng dẫn sử dụng chuyên gia, kiểm toán viên phải đánh giá khả năng chuyên môn,
hiểu mục đích và công việc của họ cũng như sự phù hợp của việc sử dụng tư liệu đó
cho các mục tiêu dự định. Kiểm toán viên cũng nên xem xét mối quan hệ giữa
chuyên gia với khách hàng, những yếu tố có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của
chuyên gia đó.
1.2.1.3 Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Nếu các thông tin cơ sở được thu thập ở trên
giúp cho các kiểm toán viên hiểu được về các mặt hoạt động kinh doanh của khách
hàng thì việc thu thập các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng giúp cho các
kiểm toán viên nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các
mặt hoạt động kinh doanh này, những thông tin này được thu thập trong quá trình
tiếp xúc với ban giám đốc công ty khách hàng, bao gồm các loại sau:
+ Giấy phép thành lập và Điều lệ công ty: Việc nghiên cứu những tài liệu này
giúp kiểm toán viên hiểu được về quá trình hình thành, mục tiêu hoạt động và các
lĩnh vực kinh doanh hợp pháp của đơn vị cũng như nắm bắt được những vấn đề mang
tính nội bộ của đơn vị như: cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban,
thủ tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu…
+ Các báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, biên bản thanh tra, kiểm tra của
năm hiện hành hay trong vài năm trước: Các báo cáo tài chính cung cấp dữ liệu về
tình hình tài chính và kết quả hoạt đông kinh doanh của đơn vị, giúp kiểm toán viên

nhận thức được tổng quát về vấn đề đó và dựa trên cơ sở đó, áp dụng các kỹ thuật
phân tích các báo cáo này để nhận thức được xu hướng phát triển của khách hàng.
Đây là tài liệu quan trọng nhất trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra việc
xem xét các báo cáo kiểm toán, các biên bản kiểm tra, thanh tra ( nếu có) sẽ giúp
kiểm toán viên nhận thức được rõ hơn về thực trạng hoạt động của đơn vị khách hàng
và dự kiến phương thức kiểm tra.
+ Biên bản các cuộc họp cổ đông, Hội đồng quản trị và ban giám đốc: Đây là
những tài liệu chính thức và tóm lược về những vấn đề quan trọng nhất đã được thảo
luận và quyết định chính thức trong các buổi họp đó. Các biên bản này thường chứa
đựng các thông tin quan trọng như: công bố về cổ tức, phê chuẩn việc hợp nhất hoặc
giải thể các đơn vị trực thuộc, xét duyệt mua bán, chuyển nhượng các tài liệu quan
trọng…
Qua việc nghiên cứu các biên bản này, kiểm toán viên sẽ xác định được những
dữ kiện có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành và trình bày trung thực các
thông tin trên báo cáo tài chính.
Trước khi cuộc kiểm toán tiến hành, kiểm toán viên cần phải kiểm tra, đối
chiếu các kết quả thu được trong quá trình kiểm toán với các quyết định đưa ra trong
các cuộc họp để đảm bảo ban giám đốc đã tuân thủ các biện pháp đã được Hội đồng
quản trị và các cổ đông đề ra và yêu cầu ban giám đốc cung cấp thư giải trình trong
đó cam kết là đã gửi đầy đủ các biên bản của các cuộc họp trên cho các kiểm toán
viên.
+ Các hợp đồng và cam kết quan trọng: Các hợp đồng và cam kết quan trọng
như: hợp đồng mua, bán hàng… là mối quan tâm hàng đầu ở các bộ phận cá biệt của
cuộc kiểm toán và đặc biệt trong suốt quá trình khảo sát chi tiết. Trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán, việc xem xét cơ bộ các hợp đồng đó sẽ giúp kiểm toán viên tiếp
cận với các hoạt động chính của khách hàng, hình dung những khía cạnh pháp lý có
ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị khách hàng.
1.2.1.4 Thực hiện các thủ tục phân tích

×