Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.2 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
Ghi chép là hoạt động quan trọng, kết hợp chặt
chẽ với hoạt động ghi nhớ, lý giải và biểu đạt trong
thực hành dịch nói. Đây khơng phải hoạt động ghi
chép thơng thường nhằm mục tiêu lưu giữ thông
tin thuần túy. Thực tế cho thấy, khi hoạt động nói
của diễn giả diễn ra trên 1 phút, người phiên dịch
bắt buộc phải tiến hành ghi chép. Theo nghiên cứu
của các nhà tâm lý học, trí nhớ ngắn hạn của con
người thường chỉ phát huy tác dụng tốt nhất trong
<b>NGUYỄN THỊ THIÊM*</b>
*<sub>Học viện Khoa học Quân sự, </sub><sub></sub><sub> </sub>
<i>Ngày nhận bài: 11/01/2019; ngày sửa chữa: 14/02/2019; ngày duyệt đăng: 15/5/2019</i>
<b>TÓM TẮT</b>
Trong hoạt động dịch nói, với một khoảng thời gian hữu hạn, khi lượng thông tin vượt quá khả
năng ghi nhớ của não bộ, người phiên dịch phải dựa vào sự hỗ trợ của ghi chép. Kỹ thuật ghi chép
trong dịch nói mang đặc thù riêng, rèn luyện kỹ thuật ghi chép góp phần đảm bảo chất lượng, nâng
cao hiệu quả dịch nói. Xác định được tầm quan trọng của ghi chép, trong giảng dạy thực hành
dịch nói, việc thiết kế những bài học rèn luyện kỹ thuật ghi chép cho người học, đào tạo ra đội ngũ
<b>Từ khóa: </b><i>dịch nói, phương pháp, ghi chép, ghi nhớ, ký hiệu</i>
ghi nhớ, người phiên dịch phải sử dụng hình thức
ghi chép, ghi chép lại một cách hợp lý nội dung
cần dịch. Trong các hoạt động phiên dịch chuyên
nghiệp, người phiên dịch thường phải tiến hành
ghi chép, việc ghi chép có thể diễn ra ngay từ khi
diễn giả bắt đầu hoạt động nói. Trên thực tế, hoạt
động dịch nói là việc khơng đơn giản, người phiên
dịch khó đốn định diễn giả sẽ nói trong thời gian
bao lâuvà dừng lại, để họ bắt đầu hoạt động phiên
dịch. Nhiều trường hợp diễn giả bị cuốn theo mạch
nói, họ quên mất bên cạnh mình người phiên dịch
đang chờ cơ hội chuyển ngữ. Vì vậy, trong hoạt
động phiên dịch chuyên nghiệp, việc ghi chép luôn
được tiến hành ngay khi diễn giả bắt đầu hoạt động
nói. Thực tế chứng minh, đây là giải pháp hợp lý,
trừ khi người phiên dịch đã quá quen thuộc hoặc
từng tham gia phiên dịch nội dung tương tự trước
đó. Mặc dù ghi chép rất quan trọng trong dịch nói,
song hoạt động ghi nhớ của não bộ vẫn đóng vai
trị chủ đạo, ghi chép luôn là hoạt động hỗ trợ, nếu
quá phụ thuộc vào ghi chép sẽ ảnh hưởng đến tốc
<b>2. ĐẶC ĐIỂM CỦA GHI CHÉP TRONG </b>
<b>DỊCH NĨI</b>
<b>2.1. Phân biệt ghi chép trong dịch nói và tốc </b>
<b>ký thông thường</b>
Tốc ký là ghi chép tốc độ nhanh, đầy đủ, tường
tận đến từng từ mà diễn giả đã trình bày (鲍刚,
口译理论概述<sub>, 2005, tr.177). Tất cả các ký hiệu, </sub>
con chữ trong tốc ký đều được giải mã, tránh tối
đa nhầm lẫn, sai sót. Ưu điểm của tốc ký là ghi lại
toàn bộ lời nói của diễn giả, nhưng điều này khơng
hồn tồn phát huy tác dụng với người phiên dịch
trong thực hành dịch nói, ngược lại cịn ảnh hưởng
đến tốc độ hiệu quả chuyển ngữ. Vấn đề ở đây
nghe có vẻ mâu thuẫn, tìm hiểu đặc điểm của tốc
ký, giúp chúng ta có thể hiểu sâu hơn điều này. Tốc
ký thông thường thu hút sự chú ý của người phiên
dịch vào các ký hiệu âm thanh ngôn ngữ nguồn,
các hình thức biểu đạt, hoặc các hiện tượng ngơn
ngữ khác của ngơn ngữ nguồn. Do đó, người phiên
dịch có thể bị phân tán sức tập trung vốn phải dành
cho việc lưu trữ từ khóa, nội dung trọng điểm, tái
tổ hợp cấu trúc, tìm giải pháp chuyển ngữ... Mong
muốn ghi chép đầy đủ tồn bộ lời diễn giả trình
bày rồi nhìn vào bản ghi để “đọc”, hẳn là điều thực
tế không thể thực hiện được và ngược lại trong
<b>2.2. Ghi chép trong dịch nói mang tính gợi </b>
<b>ý, hỗ trợ cho trí nhớ</b>
hoạt động song song với hoạt động lý giải và ghi
nhớ trong dịch nói và khơng phải là hình thức ghi
chép thuần túy nhằm lưu trữ thông tin dài hạn. Hay
nói cách khác, ghi chép trong dịch nói là hình thức
gợi ý, hỗ trợ cho trí nhớ ngắn hạn, hoặc trí nhớ
dài hạn được kích hoạt tại thời điểm diễn ra hoạt
động dịch nói của người phiên dịch. Việc ghi chép
khơng thể thay thế hồn toàn chức năng ghi nhớ
của người phiên dịch, nhưng lại có tác dụng gợi ý
và có thể ví như những ký hiệu “chỉ đường” (鲍刚,
2005, tr.180). Nhìn vào nội dung ghi chép, người
phiên dịch có thể nhớ được những thơng tin mình
cần xử lý, tái cấu trúc và truyền đạt lại bằng ngôn
ngữ mục tiêu. Điều này có nghĩa, xét từ góc độ
hoạt động tư duy, ghi chép trong dịch nói là hoạt
động song song với hoạt động lý giải và tái cấu
trúc ngôn ngữ. Người phiên dịch vừa ghi chép, vừa
phân tích lý giải, tái cấu trúc nội dung cần dịch.
Đây cũng là hoạt động nội tại mang tính chuyên
nghiệp của trí nhớ. Sự chuyển đổi chuyên nghiệp
diễn ra trong nội tại trí nhớ này là điểm khác biệt
căn bản giữa ghi chép trong dịch nói và các hình
thức ghi chép khác. Tính chất này phản ánh cơ chế
nội tại hết sức quan trọng của ghi chép trong dịch
nói. Các hình thức bên ngoài khác chỉ là các biểu
<b>2.3. Ghi chép trong dịch nói có giá trị tạm thời</b>
Ghi chép trong dịch nói mang tính tạm thời,
diễn ra trong thời gian ngắn. Ngoài đặc điểm là
hình thức ghi chép mang tính gợi ý, ghi chép trong
dịch nói cho thấy rõ đặc điểm ứng dụng nhất thời
của nó. Ghi chép là để hỗ trợ trí nhớ ngắn hạn hoặc
trí nhớ dài hạn được kích hoạt tại thời điểm diễn
ra hoạt động dịch nói, đồng thời mang đậm phong
cách, thói quen cá nhân người phiên dịch (王斌华<sub>, </sub>
口译:理论、技巧、实践<sub>, 2006, tr.309). Điều </sub>
này hồn tồn có thể nhận thấy qua quan sát các
ký hiệu, tầng bậc lôgic, sơ đồ trình bày nội dung
của các bản ghi chép được khảo sát. Thực tế khảo
sát cho thấy, hệ thống ký hiệu ghi chép trong dịch
nói mang những đặc điểm sau:
phải một hệ thống ký hiệu chung, và chỉ cá nhân
người phiên dịch hiểu được.
Là hệ thống được sắp đặt trước, người phiên
dịch có thể tự tạo trước một hệ thống ký hiệu cố
định cho riêng mình, và vận dụng trong hoạt động
thực hành dịch nói. Ví dụ, cùng biểu đạt ý nghĩa
q khứ, có phiên dịch viên dùng ký hiệu “
Là những ký hiệu có thể thay đổi ý nghĩa biểu
đạt khác nhau. Ý nghĩa của các ký hiệu có thể thay
đổi tùy theo hồn cảnh giao tiếp hoặc ngữ cảnh cụ
thể. Ví dụ cùng là một ký hiệu “ ” , tùy vào
hoàn cảnh có thể biểu đạt sự hướng ra bên ngồi
hoặc biểu đạt sự mở rộng hay quảng bá mà người
phiên dịch đã quy định trong bộ quy tắc viết tắt
của mình.
Là hệ thống ký hiệu mang tính giản lược và
có ý nghĩa khái quát. Đây là hệ thống ký hiệu đơn
giản có tính khái qt ý nghĩa nội dung cần chuyển
ngữ, thuận tiện cho việc ghi chép.
Những đặc điểm này cho thấy, ghi chép trong
dịch nói khơng giống với các hình thức ghi chép
thơng thường khác. Khơng khó để có thể nhận ra,
hệ thống ký hiệu người phiên dịch sử dụng đa phần
được chuẩn bị từ trước. Tuy nhiên, trong thực tế
dịch nói, việc xử lý thơng tin nhanh, chính xác địi
hỏi một hệ thống ký hiệu tinh giản, khái quát, hữu
dụng với từng người phiên dịch. Khơng thể có một
hệ thống quy tắc, ký hiệu trở thành quy định chung
cho tất cả các phiên dịch, đây chính là đặc điểm
<b>2.4. Ghi chép trong dịch nói mang tính thực </b>
<b>dụng cao</b>
dịch nói, do yêu cầu về thời gian, người phiên dịch
khơng thể nắn nót để có bản ghi thật gọn gàng đẹp
mắt (梅德明, 2011, tr.465). Yêu cầu đặt ra ở đây
là thời gian và độ chính xác, vì vậy người phiên
dịch khó có thể trình bày một bản ghi đẹp mắt với
những con chữ ngay ngắn. Trên thực tế, yêu cầu
một bản ghi rõ ràng dễ nhận biết là điều hết sức
cần thiết, tránh trường hợp sau khi ghi chép xong,
ngay chính tác giả của bản ghi cũng không giải
mã được. Người phiên dịch có thể sử dụng các ký
hiệu đặc biệt, các ký hiệu do chính bản thân người
phiên dịch quy định từ trước và trình bày theo một
quy tắc riêng của mình, miễn sao khi nhìn vào là
có thể giải mã, chuyển mã được ngay. Mỗi bản ghi
đều là hệ thống qui định biểu đạt riêng của từng
người phiên dịch, các phiên dịch viên khác có thể
khơng hiểu được, hoặc rất khó có thể luận đọc, giải
mã. Bởi lẽ, song song với hoạt động ghi chép là
quá trình bắt tin, giải mã, chuyển mã như đã nêu ở
phần trên. Hoạt động ghi chép mang tính cá nhân,
vì vậy, quan trọng nó hữu dụng với chính bản thân
người phiên dịch, chủ nhân của bản ghi chép.
Bản ghi chép không nhất thiết phải đạt đến yêu
cầu đầy đủ, đẹp mắt, rõ chữ, như vậy sẽ mất nhiều
<b>2.5. Ghi chép trong dịch nói là hoạt động có </b>
<b>qui trình bài bản</b>
Mỗi người phiên dịch đều tự tạo cho mình
một hình thức, qui tắc ghi chép riêng. Nhìn chung,
trong điều kiện cho phép, những phiên dịch có
kinh nghiệm thường sử dụng một kẹp giấy cứng,
khổ giấy lớn, đặt trực tiếp trên bàn và ghi chép.
Tuy nhiên, trường hợp tác nghiệp trong điều kiện
phải đứng, khơng có điểm tựa như trên mặt bàn,
kẹp giấy có thể được tì trên cánh tay tạo thành
mặt phẳng cứng, thuận tiện cho ghi chép. Dùng
khổ giấy lớn để ghi chép sẽ thuận tiện cho việc
tập hợp tồn bộ nội dung diễn giả trình bày trên
cùng một mặt giấy, tránh việc sang trang, lật mặt
giấy, sẽ làm mất thời gian hoặc phân tán sức tập
trung của người phiên dịch. Song việc sử dụng
khổ giấy lớn để ghi chép cũng có mặt hạn chế,
trường hợp nội dung nhiều, dung lượng chuyển
tải lớn, khổ giấy lớn sẽ bất tiện cho việc lật trang,
hơn thế trong trường hợp phải di chuyển nhiều thì
đây lại là điều bất tiện. Vì vậy, đa phần các phiên
dịch thường dùng sổ ghi chép khổ nhỏ, tiện cho di
chuyển và mang theo, nhất là phiên dịch ở những
nơi như cơng trường, nhà máy... Có khơng ít phiên
dịch, khơng qua rèn luyện kỹ thuật bài bản chuyên
nghiệp, họ dùng sổ ghi chép khổ nhỏ và mở ngang
<b>3. LỰA CHỌN NGÔN NGỮ GHI CHÉP</b>
Nhiều chuyên gia cho rằng, rèn luyện kỹ thuật
ghi chép trong thực hành dịch nói ln đứng trước
câu hỏi “ghi chép bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hay ghi
chép bằng ngôn ngữ mục tiêu” hiệu quả sẽ tốt hơn.
hoặc trên toàn thế giới. Ngoài ra người phiên dịch
cũng có thể ghi chép bằng ngữ nguồn hoặc ngữ
đích kết hợp với hệ thống ký hiệu do chính người
phiên dịch xây dựng riêng cho mình theo những
nguyên tắc nhất định (Nguyễn Quốc Hùng, 2007,
tr.107). Hệ thống ký hiệu cá nhân do người phiên
dịch tự xây dựng thường hết sức phong phú, nó
phục vụ riêng cho từng cá nhân người phiên dịch.
Tuy nhiên, khi sử dụng hệ thống ký hiệu riêng, đầy
sáng tạo này, người phiên dịch cũng phải hết sức
thận trọng, tránh tình trạng luận giải sai, hiểu sai
ý hoặc sau khi ghi chép, chính người phiên dịch
cũng không luận giải được những ký hiệu mình
đã ghi chép. Vì vậy, dù là hệ thống ký hiệu do
chính bản thân người phiên dịch sáng tạo, cũng
phải được xây dựng theo một qui tắc nhất định,
khoa học, có hệ thống, dễ nhận biết, tính ổn định
cao. Tránh những ký hiệu chỉ mang tính bột phát,
biểu đạt ý nghĩa vào một thời điểm nhất định nào
đó, rồi lại qn đi, như vậy sẽ khơng có tác dụng
<b> 3.1. Ghi chép bằng tiếng Việt trong phiên </b>
<b>dịch Việt-Hán</b>
Ghi chép bằng tiếng Việt trong phiên dịch Việt
- Hán, với người Việt Nam có thể nói có rất nhiều
dịch không mấy gặp trở ngại với việc nghe bắt
thơng tin, vì vậy thông tin liên tiếp được thu nạp và
người phiên dịch có thể ghi chép liên tục. Sau khi
diễn giả dừng trình bày, người phiên dịch có một
bản ghi chép tương đối đầy đủ, rõ ràng. Công việc
lúc này của người phiên dịch là ung dung nhìn bản
ghi chép và tiến hành chuyển ngữ. Nói vậy khơng
có nghĩa ghi chép bằng tiếng mẹ đẻ khơng có mặt
hạn chế. Chính vì nghe được hầu hết nội dung
thơng điệp của diễn giả trình bày, người phiên dịch
có thể bị cuốn vào ghi chép từ, hoặc ghi chép tồn
bộ lời nói của diễn giả, làm cho bản ghi trở nên rối
mắt, nặng nề. Trong khi ghi chép trong thực hành
dịch nói phải chú trọng tóm bắt mạch ý của diễn
giả, phân tích, tìm kiếm giải pháp chuyển ngữ. Với
một bản ghi như vậy, người phiên dịch dễ mắc
“Theo nhận định chung của các nhà khoa học,
Việt Nam được xác định là một trong những nước
bị tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Đặc
biệt là khu vực đồng bằng sơng Cửu Long, nơi có
trên 80% diện tích mặt đất có độ cao thấp hơn 2,5m
so với mặt nước biển. Kịch bản nước biển dâng mà
Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cảnh báo
vào năm 2100, mực nước Biển Đông sẽ cao hơn
hiện nay khoảng 1m. Mức nước lũ của đồng bằng
sông Cửu Long sẽ tăng thêm khoảng gần 2m so
với mức lũ hiện nay, hậu quả của nước biển dâng
cao khơng phải chỉ có ngập tĩnh, các vùng ven bờ
và cửa sông bị xâm thực làm cho cơ sở hạ tầng ven
biển bị đe dọa lớn hơn…”
<b>3.2. Ghi chép bằng tiếng Hán trong phiên </b>
<b>dịch Việt-Hán</b>
Ngược lại với hình thức ghi chép ở phần trên,
khi sử dụng tiếng Hán ghi chép lời diễn giả trình
bày trong thực hành dịch nói Việt-Hán cũng có
những thuận lợi nhất định. Bởi lẽ, quá trình ghi
Tương tự như trên, ghi chép khi phiên dịch từ
tiếng Hán sang tiếng Việt, người phiên dịch là người
Việt Nam cũng gặp những thuận lợi và khó khăn
nhất định. Khi diễn giả trình bày bằng tiếng Hán,
người phiên dịch chịu áp lực về nghe và nắm bắt
thông tin. Họ phải tập trung cao độ để bắt ý, lý giải
phân tích nội dung diễn giả trình bày. Cũng vì lý đó,
việc ghi chép buộc phải tập trung vào ghi ý, người
phiên dịch phải trình bày mạch ý của diễn giả theo
một sơ đồ lôgic, rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường
hợp này, việc ghi chép bằng tiếng Việt đồng thời là
sau, người phiên dịch có thể kết hợp cả tiếng Việt và
tiếng Hán:
“中国和越南山水相连,两国人民长期互相
支持,结下了深厚情谊。我曾经于2011年12月
访问越南,并会见了参加第十二届中越青年友
好会见的两国青年代表。几百名年轻人同唱歌
颂两国传统友谊的歌曲《越南—中国》,给我
留下了深刻印象。听说有部分代表今天也来到
了人民大会堂,欢迎你们!
当前,中国人民正在为全面建成小康社
会、实现中华民族伟大复兴的中国梦而团结奋
斗,协调推进全面建成小康社会、全面深化改
革、全面依法治国、全面从严治党,越南也在
全力推进革新事业。在发展道路上,双方应该
统友谊在两国人民中代代相传” 。
<i>Bảng 2. Sơ đồ ghi chép nội dung đoạn văn </i>
<i>diễn giả trình bày bằng tiếng Hán</i>
<b>4. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN KỸ THUẬT </b>
<b>GHI CHÉP TRONG GIẢNG DẠY DỊCH NÓI</b>
Để ghi chép hiệu quả trong hoạt động dịch nói,
người phiên dịch cần rèn luyện kỹ thuật ghi chép
thật nghiêm túc và bài bản. Kỹ thuật ghi chép là
kỹ thuật sử dụng hệ thống ký hiệu, cách nói tắt và
những qui tắc riêng, tạo nên hệ thống sơ đồ ý, kết
hợp nội dung lưu trữ bằng trí nhớ ngắn hạn, dài hạn,
nhằm phục vụ cho quá trình chuyển ngữ (王斌华,
2006, tr.312). Nhìn chung để có kỹ thuật ghi chép
tốt, người phiên dịch phải có kế hoạch rèn luyện kỹ
thuật ghi chép một cách nghiêm túc. Xác định được
tầm quan trọng của ghi chép, trong các giờ học thực
hành dịch nói tại nhà trường, giảng viên có thể thiết
kế các bài học, lựa chọn các băng hình, xác định
mục tiêu yêu cầu cụ thể, lựa chọn phương pháp phù
hợp, giúp người học rèn luyện và từng bước nâng
cao kỹ thuật ghi chép, đặt nền móng vững chắc cho
công việc thực tế sau này.
<b>4.1. Ghi chép không giới hạn thời gian</b>
Ghi chép không giới hạn thời gian là hoạt động
ghi chép được tiến hành từ khi bắt đầu bật băng
hình, người học vừa xem băng hình, vừa phân tích
lơgic nội dung, vừa ghi chép, cho đến khi hoàn
thành việc ghi chép. Sau khi hoàn thành việc ghi
chép, người học nhìn vào bản ghi chép và thuật lại
bằng lời. Trước hết, người học thuật lại nội dung
băng hình bằng ngơn ngữ nguồn, tiếp đến thuật lại
bằng ngôn ngữ mục tiêu. Việc thuật lại nội dung
ghi chép có thể diễn ra nhiều lần, sau mỗi lần
người học có thể chỉnh sửa, rút kinh nghiệm sao
cho có bản dịch ngắn gọn, đủ ý nhất. Hình thức
luyện tập này khơng chịu áp lực về nghe bắt thông
tin, không bị giới hạn về thời gian, đây là hình
thức dễ nắm bắt và thuần thục đối với những người
mới học. Yêu cầu của hình thức này là người học
phải rèn kỹ thuật bắt ý, tóm ý, trình bày ý theo
một sơ đồ ý đầy đủ và vắn tắt. Giảng viên có thể
lựa chọn băng hình luyện tập ghi chép bằng tiếng
Việt hoặc tiếng Hán phù hợp. Trên cơ sở luyện tập,
người học rút kinh nghiệm và bắt đầu hình thành
<b>4.2. Ghi chép có giới hạn thời gian</b>
Ghi chép có giới hạn thời gian là hình thức
ghi chép diễn ra trong khoảng thời gian xác định.
Thơng thường sau khi dừng băng hình, người học
hoàn thành việc ghi chép trong khoảng thời gian
ít nhất bằng thời gian chạy băng hình hoặc hơn
một chút. Ví dụ, sau khi xem một đoạn băng hình
<b>4.3. Luyện tập ghi chép băng hình tiếng Việt </b>
<b>theo các cấp độ thời gian</b>