Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sa mạc hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.59 KB, 26 trang )

Sa mạc hóa là hiện tượng suy thoái đất đai ở những vùng khô cằn, gây ra bởi sinh
hoạt con người và biến đổi khí hậu. Khuynh hướng sa mạc hóa gần đây đã tăng nhanh trên
toàn thế giới phần vì áp lực dân số và nhu cầu trồng trọt và chăn nuôi.
Ảnh hưởng lớn nhất của nạn sa mạc hóa là nét đa dạng sinh thái bị suy giảm và năng suất
đất đai cũng kém đi.
Nguyên do
Một số nguyên do gây ra nạn sa mạc hóa, phần lớn là do tác động của con người từ khoảng
10.000 năm nay (Thế Holocen). Việc lạm dụng đất đai trong các ngành chăn nuôi gia súc,
canh tác ruộng đất, phá rừng, đốt đồng, trữ nước, khai giếng, tăng lượng thổ diêm (soil
salinity) và biến đổi khí hậu toàn cầu đã góp sức làm sa mạc hóa nhiều vùng trên trái đất.
Đất sa mạc thường có biên giới rõ rệt với miền kế cận nhưng cũng có khi vùng sa mạc tiếp
giáp một vùng chuyển tiếp rồi mới đến vùng đất ẩm nên miền ven sa mạc khó ấn định hơn.
Vùng chuyển tiếp ở ven sa mạc này thường có hệ sinh thái mong manh. Đây cũng là nơi có
nhiều tiểu khí hậu. Thí dụ như: cồn cát cao có thể che khuất gió cho một thửa đất trũng, và
từ đó tạo điều kiện cho cây cỏ mọc xen vào. Đến khi có mưa thì vùng có thảo mộc sẽ có
nhiệt độ mát hơn.
Hệ sinh thái ở vùng ven rất dễ bị giao động bởi sinh hoạt con người như trong trường hợp
chăn nuôi. Móng guốc của loài mục súc thường nện chặt các tầng đất, làm giảm lượng
nước thấm xuống các mạch nước ngầm. Những lớp đất trên thì chóng khô, dễ bị gió mưa
soi mòn. Con người còn gây nên nạn đốn cây lấy củi cùng động tác của các loài gia súc
gặm cỏ làm hư lớp rễ thảo mộc vốn quyện lớp đất xuống. Đất vì đó dễ tơi lên, chóng bị
khô và biến thành bụi. Hiện tượng này diễn ra ở những vùng ven sa mạc khi con người
chuyển từ lối sống du mục sang lối sống ngụ canh.
Các cồn cát sa mạc cũng có thể di chuyển góp phần vào hiện tượng sa mạc hóa. Gió là
động lực chính đẩy các cồn cát. Những hạt cát có thể lăn trên mặt đất hoặc tung lên trên
không rồi rơi xuống. Chính động tác tung lên sẽ làm giao động thêm, khuếch đại lượng cát
bị xô đẩy. Kết quả là lũ cát khi cả một cồn cát trườn vào. Khi có gió mạnh làm bão cát thì
lũ cát có thể làm cồn cát tiến lên hàng chục mét tương tự như hiện tượng tuyết truồi
(avalanche). Lũ cát còn có thể xảy ra khi cát dồn lên đến đỉnh cồn sẽ trượt xuồng triền dốc
bên kia, làm cồn cát tiến lên.
Hạn hán có khi bị ngộ nhận là nguyên do của tiến trình sa mạc hóa. Hạn hán phải nói là


góp phần trong tiến trình đó nhưng nguyên do chính là do áp lực sinh hoạt con người trên
môi trường thiên nhiên. Theo địa chất học thì trước thời kỳ văn minh nhân loại, không có
bằng chứng khoa học nào để nói rằng diện tích sa mạc đang lan rộng thêm. Chỉ sau khi con
người thay đổi môi sinh ta mới thấy hiện tượng sa mạc hóa.
Hạn hán là biến chuyển thường xuyên xảy ra ở những vùng khô cằn nhưng khi đã có mưa
thì môi sinh bình phục nhanh chóng. Chính là nạn lạm dụng đất đai làm suy thoái chất đất
như trong trường hợp chăn nuôi mục súc quá tải và nạn nhân mãn đã tăng cường tốc độ sa
mạc hóa ở vùng ven sa mạc. Dân du mục khi muốn thoát vùng sa mạc khô cằn thường đưa
đàn mục súc đến vùng ven để sinh sống nhưng chính động tác đó đã làm sa mạc thêm rộng
lớn và họ đã vô tình mang cái khô cằn của sa mạc theo với họ.
Vùng khô cằn cũng có thể canh tác được nhưng khi áp lực của con người làm hư hại lượng
thảo mộc thiên nhiên thì đất khô dễ bị gió biến thành bụi. Thiếu bóng rợp, nước trong lòng
đất mau bốc hơi, lưu lại chất muối làm tăng độ thổ diêm (soil salinity). Quá trình này làm
đất thêm cằn cỗi, cây cỏ không mọc được và tốc độ suy thoái càng nhanh khi khí hậu trong
vùng bị biến đổi với lượng mưa càng ít đi.
Thời lịch sử
Những sa mạc lớn trên thế giới hình thành một cách tự nhiên qua hàng nghìn năm, không
do sinh hoạt con người. Diện tích sa mạc khi rộng, khi hẹp nhưng đã ổn định vì khí hậu và
thảm thực vật.
Sa mạc Sahara theo khảo cổ học thì từng là một bình nguyên cỏ mọc (savanna) rồi biến
thành sa mạc tùy theo vũ lượng. Tuy nhiên từ khi con người có mặt và thay đổi môi trường
thiên nhiên, các vùng sa mạc ngày càng lớn rộng với tốc độ nhanh chưa từng có.
Hiện trạng
Vào thập niên 1930 tại Hoa Kỳ, vì quá tải chăn nuôi mục súc và canh nông ở vùng Đại
Bình nguyên Bắc Mỹ cùng với cơn hạn hán dài hạn, kết quả là trận "Dust Bowl" vĩ đại làm
hư hại đất canh nông và hàng chục nghìn người phải xiêu tán. Sau đó với nhiều cải tiến về
lối canh tác đất và sử dụng nước con người đã phản ứng kịp thời nên vấn nạn Dust Bowl
không còn tái diễn. Tuy vậy ở những quốc gia đang phát triển nạn sa mạc hóa vẫn tiến
hành, ảnh hưởng đến hàng chục triệu người.
Nạn nhân mãn và phép hỏa canh làm rẫy ở vùng nhiệt đới là nguyên do chính của nạn phá

rừng. Khi đã mất thảm thực vật, hậu quả là đất đai bị soi mòn, mất chất màu và cuối cùng
là biến thành sa mạc. Hiện tượng này rõ nhất ở vùng cao nguyên Madagascar nơi 7% diện
tích là đất cằn đồi trọc, không còn khả năng trồng cấy được nữa.
Nạn quá tải mục súc là vấn nạn ở Phi châu như vùng núi Waterberg ở Nam Phi và dải
Sahel. Sa mạc Sahara hiện nay đang tiến dần về phía nam với tốc độ 45 km/năm.
Các nước Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Mông Cổ, Trung Hoa, Tajikistan,
Afghanistan, Turkmenistan, Iran và Uzbekistan cũng bị ảnh hưởng nặng. Riêng
Kazakhstan kể từ năm 1980, gần 50% diện tích trồng trọt đã bị bỏ hoang vì đất quá cằn
trong tiến trình sa mạc hóa.
Tàu mắc cạn vì biển Aral ở Trung Á cạn nước
Biện pháp
Vì nguy cơ thiệt hại đến hệ sinh thái, nhiều quốc gia có biện pháp chống sa mạc hóa như
Kế hoạch Hành động Bảo tồn Đa dạng Sinh thái (Biodiversity Action Plans). Các biện
pháp ứng dụng thường nhắm vào giảm thiểu tốc độ sa mạc hóa và tái tạo đất màu nhưng
động cơ nguyên thủy như chăn nuôi và canh tác đất quá lạm vẫn chưa khắc phục được.
Các thảo mộc thuộc Họ Đậu vì có khả năng rút đạm khí từ không khí rồi châm xuống đất
nên thường được trồng để cải tạo địa chất. Những biện pháp khác phải kể việc xếp đá
quanh gốc cây để tụ sương và giữ độ ẩm, hay cào luống nhỏ để tích hột cây cỏ khỏi bị gió
thổi và hoãn nước mưa không tháo quá nhanh. Vùng Sahel ở Phi châu áp dụng cách trồng
cây xanh cản gió để giảm thiểu khả năng đất bị bốc bụi và nước bốc hơi.
Với nhu cầu dùng củi làm nhiên liệu ở các nước đang phát triển khá cao, vấn đề dân chúng
đốn cây để lấy củi là một động lực gia tăng nạn sa mạc hóa. Một biện pháp là phổ biến loại
lò bếp dùng năng lượng mặt trời để nấu nướng hoặc những loại lò bếp củi có hiệu suất cao
(high efficiency).
Có địa phương cho đặt rào chắn cát để cản sức gió đồng thời trồng các loài thảo mộc cho
đất khỏi bị soi mòn. Bụi cây xanh trồng ở chân đụn cát có khả năng ổn định vị trí của đụn
và giảm lượng cát bị gió di chuyển.
Sa mạc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ốc đảo tại Texas

Để biết về hình thức hát, xem hát sa mạc.
Sa mạc là vùng có lượng mưa rất ít, môi trường hết sức khắc nghiệt.
Lượng mưa thường 0-25 mm/năm do vậy nước ở sa mạc rất hiếm, thường không có sông
và suối, sự sống hiếm hoi vì có rất ít loại động vật và thực vật có thể thích nghi với môi
trường khắc nghiệt này, chỉ có ít những cây bộ gai, họ xương rồng sống được điều kiện
khô cằn ít nước. Khí hậu thường nóng có thể tới 58°C như ở sa mạc Mexico, Turfan (Thổ
Nhĩ Kỳ) nhiệt độ ban ngày mùa hạ lên tới 82,3°C, có nơi lại lạnh đến –45°C như ở sa mạc
Gobi thuộc Châu Á. Ở vùng sa mạc Sinai, biên độ nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm
có thể đến hơn 80°C, đất đai cằn cỗi. Sa mạc thường có lượng bức xạ mặt trời lớn, nhiều
cát và gió nóng luôn thổi mạnh tạo ra rất nhiều trận bão cát, hiện nay có khoảng 1/3 diện
tích trái đất (lục địa) là sa mạc.
Người ta thường dùng lạc đà làm phương tiện di chuyển trong sa mạc.
Các loại sa mạc
Vào năm 1953 Peveril Meigs đã chia những sa mạc trên Trái Đất thành ba loại dựa theo
lượng mưa mà chúng nhận được. Trong hệ thống đã được chấp nhận rộng rãi này, các
hoang mạc có tối thiểu 12 tháng liên tiếp không mưa, những vùng sa mạc có lượng mưa
trung bình năm ít hơn 250mm. Những bán hoang mạc có lượng mưa vào khoảng 250mm
đến 500mm. Các bán hoang mạc thương được coi như những đồng cỏ khô. Phương pháp
đo chỉ đơn giản dựa vào lượng mưa không thể cung cấp một định nghĩa rõ ràng về việc
một sa mạc là gì vì việc khô hạn cũng phụ thuộc vào sự bay hơi, một phần phụ thuộc vào
thời tiết
Các sa mạc lớn trên thế giới
• Great Victoria - tây nam Châu Úc 390.500 km²
• Gibson , Great Victoria, Simpson - trung tâm Châu Úc
• Tanami - Bắc Châu Úc
• Chihuahua , Mexico/tây nam nước Mỹ 360.000 km²
• Takla Makan Bắc Trung Quốc 360.000 km²
• Sonoran Mexico/tây nam nước Mỹ 310.000 km²
• Kalahari tây nam Châu Phi 260.000 km²
• Kyzyl Kum Uzbekistan 260.000 km²

• Thar Ấn Độ/Pakistan 260.000 km²
• Simpson Châu Úc 100.000 km²
• Mohave tây nam nước Mỹ 52.000 km²
• Atacama (Chile).
• Libyan , (Châu Phi).
• Al-Dahna , Ả Rập
• Nefud , Bắc Ả Rập
• Judean - Đông Israel và Khu Bờ Tây
• Negev - Nam Israel
• Kavir-e Lut , Đông Nam Iran.
• Dasht-e Kavir (Iran).
• Kara Kum (trung tâm Châu Á)
• Kyzyl Kum ( Kazakhstan và Uzbekistan.)
• Taklamakan - Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương (Trung Quốc)
• Tabernas , Almería, Tây Ban Nha
Việt Nam đối mặt với sa mạc hoá cục bộ
(Theo An ninh thủ đô )
Theo đó, Việt Nam hiện còn khoảng hơn 9 triệu ha đất đồi núi trọc, đồi cát có liên quan tới
sa mạc hoá, chiếm 28% tổng diện tích đất đai trên toàn quốc.
Cũng theo trung tâm này, hiện Việt Nam đã xuất hiện sa mạc hoá cục bộ ở các dải cát hẹp
trải dài dọc theo bờ biển miền Trung, từ Quảng Bình đến Bình Thuận là nơi có diện tích sa
mạc hoá lớn nhất cả nước.
Tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi còn nhiều vùng đồi núi trọc đang bị mưa lũ làm lở đất,
xói mòn và suy thoái đến khô cằn hoang mạc.
Đây là những vấn đề đáng lo ngại, là thách thức lớn đối với nền nông
nghiệp của nước ta hiện nay. Việt Nam hiện là một trong những
quốc gia có ít đất nông nghiệp, đứng thứ 159 trên thế giới. Làm
gì khi Việt Nam bị sa mạc hóa
Sa mạc hóa tác động ảnh hưởng đến 9,3 triệu ha đất và 22 triệu người Việt Nam. Việt Nam
được nhận định là một trong năm nước chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc biến đổi khí

hậu toàn cầu.
Bất cứ ai khi nghe, đọc những thông tin này trên các phương tiện thông tin đại chúng đều
không khỏi ...giật mình lo lắng; và sự lo lắng càng tăng theo chiều hướng bất lợi khi cuộc
họp giữa 100 nước về vấn đề cắt giảm khí thải toàn cầu tại Copenhaghen - Đan Mạch vừa
qua đã không đi tới thỏa hiệp chung nhất.
An nguy cho bình yên xã hội

Biến đổi khí hậu toàn cầu đã ảnh hưởng trực tiếp và rõ rệt đến Việt Nam trong những năm
gần đây. Thực tế cho thấy những ngày này khi miền Bắc đang phải đứng trước nguy cơ
hạn hán kéo dài khi thước đo mực nước dự trữ tại thuỷ điện Hòa Bình đã xuống ở mức
“chạm đáy”, những vùng đất được coi là “đồng chiêm trũng” phải chịu cảnh phơi mình nứt
nẻ thì miền Nam lại đang phải hứng chịu cảnh triều cường, ngập lụt. Còn miền Trung thì
sao? khi theo con số thống kê những cơn bão càng ngày càng ở mức năm sau ....mạnh hơn
năm trước. Thiên tai, bão lụt đã phần nào làm đảo lộn sự phát triển bình thường của xã hội
bởi sự di dân của những cư dân vùng bão rời làng quê đến làm ăn, sinh sống tại các đô thị
lớn, các khu công nghiệp.... Sự phình to của các đô thị quá tải, các khu công nghiệp đã làm
nảy sinh những vấn đề tất yếu như : ô nhiễm môi trường, rác thải sinh hoạt, rác thải công
nghiệp....cùng nhiều vấn đề an sinh xã hội khác.

Bình yên xã hội đang trở thành điều quý giá hơn vàng trong một thế giới đầy biến động khi
mà loài người hàng ngày vẫn bị ám ảnh bởi chiến tranh, bạo lực bất công và nghèo đói. Và
như một quy luật tất yếu đã xảy ra từ khi hình thành xã hội loài người cho đến nay những
người nông dân cổ cày vai bừa, một nắng hai sương. những người dân nghèo là những
người bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc biến đổi khí hậu này.

Người ta cứ mải miết đi tìm những giải pháp mang tính vĩ mô, tầm nhìn chiến lược để làm
thay đổi diện mạo xù xì, gai góc, cái thân thể với những vết thương đang mưng mủ, nứt
toác của một thế giới cũ vốn đáng ghét mà người ta không chịu dừng lại để quán chiếu
bằng một tinh thần thực tiễn, bằng một ý niệm thiết thực hiện tại nghĩa là không chịu dừng
lại để giải phẫu chính thân thể của mình.


Cái này Đức Phật đã chĩ rõ từ cách đây trên 2500 năm rằng do Khái ái – Tanha đã dẫn con
người đến những nỗi khổ, nhưng sự khổ đau này thật trớ trêu và cũng thật nghiệt ngã lại
chụp lên đầu những người nông dân, những người dân lương thiện.

Bản chất khái ái có năng lực biến một con người bình thường trở thành loài quỷ đói luôn
luôn chạy theo những xu hướng tiện nghi vật chất : xe hơi, máy lạnh, nhà cao tầng, nhà
máy điện nguyên tử, khai thác khoáng sản và mạch nước ngầm...

Việc xây dựng những khu công nghiệp, những tập đoàn kinh tế lớn... sẽ dẫn đến tình trạng
phải giải phóng một phần lớn diện tích đất đai, hệ sinh thái môi trường và như thế việc mất
cân bằng hệ sinh thái đương nhiên sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường mà sự biến đổi
khí hậu toàn cầu là cái chết đã được báo trước qua thảm họa sóng thần năm 2004. Thế
nhưng bất cứ quốc gia nào cũng đều biện hộ rằng nghành công nghiệp là ngành kinh tế mũi
nhọn không chỉ sản xuất để thụ hưởng mà còn xem đó như một cứu cánh cho việc tăng
trưởng GDP cho quốc gia của mình. Năm 2007 Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhất
trong vòng mười năm trở lại đây đạt 8,4% tổng thu nhập quốc dân, GDP 1144 tỷ đồng
tương đương 71,3 tỷ USD. GDP bình quân đầu người đạt 835 USD cao hơn kế hoạch 15
USD, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam lên tới 20 tỷ USD.

Cần lắm những đại sứ thiện chí cho môi trường

Phải thừa nhận rằng con người có một đời sống cao hơn xã hội thời xưa về hai phương
diện chính: Công cụ lao động và sở hữu vật chất. Hai thành quả to lớn này đạt được do kết
quả lao động sáng tạo của những bộ óc thông minh siêu tuyệt, những bộ óc siêu truyệt ấy
hy vọng rằng những phát minh, phát kiến của họ sẽ dập tắt những nỗi thống khổ của nhân
loại. Tuy nhiên, ngày nay con người vẫn chưa hết những nỗi khổ về sinh, già, bệnh, chết...
mà càng ngày con người càng phải oằn mình lên, vắt kiệt sức mình để chống chọi với
những thảm họa mới: Siêu vi trùng gây ung thư gan, H5N1, HIV/AIDS ở người và bệnh
dịch lở mồm, long móng ở hàng đàn gia súc trâu, bò, lợn, gà ...trên thế giới. Nỗi đau khổ

của con người còn bị chồng chất bởi các cơ sở sản suất chế biến thực phẩm, đồ gia dụng đã
lạm dụng các chất hóa học trong quá trình sản suất đưa đến tình trạng người tiêu dùng phải
mang nhiều mầm bệnh ung thư.

Ô nhiễm môi sinh bởi chất thải công nghiệp, khiến sức khỏe con người bị đe dọa và chất
lượng cuộc sống bị giảm thiểu một cách tiêu cực. Diện tích đất sạch, đất canh tác bị thu
hẹp dẫn đến tình trạng một bộ phận lao động không có nguồn thu nhập ổn định bị cuốn
theo những cám dỗ vật chất và luôn phải đứng trước những nguy cơ tội phạm như mại
dâm, ma túy, cướp của, giết người....Như vậy thì việc tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
GDP không phải là thước đo chính xác cho sự phát triển của xã hội; khi mà chiếc vòng kim
cô luôn siết chặt sự phát triển đó bằng một vòng luẩn quẩn bởi thiên tai, dịch bệnh, mất cân
bằng sinh thái, động đất, sóng thần, hay băng tan ở Bắc cực... Nhưng xem ra lời cảnh báo
đó chưa đủ giúp con người dừng lại tham vọng – Khát ái của mình, khi mà nước nào cũng
muốn mình là một “tiểu vũ trụ”, khi mà chính những quần chúng trong nước đó luôn bị
khuấy đảo và kích động bởi lòng khao khát, nhưng thực tế không ai có thể đạt được điều
mình khao khát một cách toàn vẹn vì thế những hành động vi phạm xảy ra, công đức thiện
pháp bị mất đi để đạt cho bằng được cái cuối cùng được khao khát và cứ thế con người bị
kéo theo cơn lốc khát ái một cách điên cuồng trong vòng xoáy bản ngã bất tận và từ đó mọi
thảm họa cá nhân và xã hội từ đó phát sinh.

Đến đây chúng ta có thể nhận thức được rằng: Không xây thêm những lò phản ứng hạt
nhân - giảm bớt khí thải, hạn chế việc khai thác khoáng sản - giảm bớt động đất, sóng thần,
tiết kiệm nước - tránh nguy cơ hạn hán, mở rộng diện tích đất canh tác, trồng rừng - tránh
thảm họa bão lụt, lũ quét, xử lý chất thải công nghiệp độc hại theo quy trình khép kín -
đảm bảo nguồn không khí môi sinh trong lành... là những việc làm thiết thực hiện tại mà
bất cứ một quốc gia nào, một công dân nào cũng có thể thực hành một cách tích cực bằng
chính ý thức tự giác của mình.

Thiết nghĩ, đã đến lúc không chỉ các nhà lãnh đạo mà tất cả mọi công dân chúng ta đều
phải tự biến mình trở thành những nhà “đại sứ” thiện chí cho hòa bình và môi trường nhằm

hạn chế tối đa quá trình “sa mạc hóa” tại Việt Nam.

Theo số liệu thống kê của Myanmar tổn thất do cơn bão Nargis gây ra đã khiến 77.738
người chết, 19.359 người bị thương, 55.917 người mất tích
Chắc hẳn trong chúng ta không ai mong muốn lịch sử sẽ lặp lại như thế với con dân đất
Việt.
Sa mạc hóa tác động ảnh hưởng đến 9,3 triệu ha đất và 22 triệu người Việt Nam. Việt
Nam được nhận định là một trong năm nước chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc
biến đổi khí hậu toàn cầu.
Bất cứ ai khi nghe, đọc những thông tin này trên các phương tiện thông tin đại
chúng đều không khỏi ...giật mình lo lắng và sự lo lắng càng tăng theo chiều
hướng bất lợi khi cuộc họp giữa 100 nước về vấn đề cắt giảm khí thải toàn cầu
tại Copenhaghen - Đan Mạch vừa qua đã không đi tới thỏa hiệp chung nhất.
Sa mạc hoá đe doạ đẩy hàng triệu người ra khỏi nhà của họ vào những
thập kỷ tới trong khi các cơn bão bụi lớn ở lục địa này có thể gây hại cho
con người tại lục địa khác. Thông tin trên được công bố hôm 16/6 trong
một báo cáo quốc tế của 1.360 nhà khoa học ở 95 quốc gia.
Theo Zafar Adeel, PGĐ Viện nước của ĐH LHQ đồng thời là tác giả chính của
báo cáo, sa mạc hoá là một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng tới tất cả mọi nguời. Có
hai tỷ người đang sống tại các vùng đất khô, có nguy cơ bị sa mạc hoá. Những
vùng này trải dài từ Bắc Phi tới những dải đất ở Trung Á. Ngoài ra, các cơn bão
có thể cuốn bụi từ sa mạc Sahara và gây bệnh hô hấp cho những người dân ở
tận Bắc Mỹ. Chăn thả quá nhiều gia súc và canh tác quá nhiều cây trồng, bùng
nổ dân số và tưới tiêu không hợp lý đang góp phần gây sa mạc hoá. Ước tính
10-20% đất khô trên thế giới đã bị thoái hoá.
Ấm hóa toàn cầu, do khí thải từ xe cộ, nhà máy và nhà máy điện, chắc chắn sẽ
làm cho những vấn đề nêu trên ngày càng trầm trọng trong những thập kỷ tới do
gây ra nhiều lũ lụt hơn, hạn hán và các đợt nóng. Sa mạc hoá ngày cũng làm
cho hàng triệu người nghèo buộc phải tìm nơi ở và kế sinh nhai mới. Báo cáo có
đoạn: ""Sa mạc hoá là sự thay đổi sinh thái nguy hiểm nhất, tác động tới kế sinh

nhai của người nghèo"".
Sa mạc hoá còn đồng nghĩa với sự gia tăng bệnh tật, đói nghèo và sản lượng
lương thực giảm. Tỷ lệ tử vong trung bình của trẻ em tại vùng đất khô ở các
quốc gia đang phát triển là 54/1.000 ca sinh trong năm 2.000, gấp đôi so với các
vùng nghèo khác và gấp 10 tỷ lệ ở các nước công nghiệp. Sự gia tăng các cơn
bão bụi liên quan tới sa mạc hoá được coi là nguyên nhân gây bệnh: sốt, ho,
đau mắt trong mùa khô. Bụi từ sa mạc Gobi ở Mông Cổ có thể ảnh hưởng tới
người dân ở Nhật Bản hoặc Hawaii. Một số nhà khoa học ước tính 1 tỷ tấn bụi
có thể được mang từ vùng Sahara vào khí quyển mỗi năm.
Các hạt bụi cũng mang vi khuẩn và nấm. Các chuyên gia cho rằng vi sinh vật có
trong bụi từ châu Phi phá huỷ các rặng san hô ở Caribbean. Các cơn bão bụi ở
châu Phi có thể làm giảm khả năng sinh trưởng của cây tại Florida bằng cách
che khuất ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, bụi cũng có thể mang theo chất dinh
dưỡng, giúp các cánh rừng sống sót ở Amazon. Báo cáo cho rằng quản lý cây
trồng tốt hơn, tưới tiêu hợp lý và các chiến lược tạo việc làm phi nông nghiệp
cho người dân ở vùng đất khô có thể giúp ngăn chặn sa mạc hoá.
Sa mạc hóa tác động ảnh hưởng đến 9,3 triệu ha đất và 22 triệu người Việt Nam. Việt
Nam được nhận định là một trong năm nước chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc
biến đổi khí hậu toàn cầu.
Bất cứ ai khi nghe, đọc những thông tin này trên các phương tiện thông tin đại chúng đều
không khỏi ...giật mình lo lắng; và sự lo lắng càng tăng theo chiều hướng bất lợi khi cuộc
họp giữa 100 nước về vấn đề cắt giảm khí thải toàn cầu tại Copenhaghen - Đan Mạch vừa
qua đã không đi tới thỏa hiệp chung nhất.
Việt Nam đối mặt với sa mạc hóa cục bộ
ANTĐ
(ANTĐ) - Theo dự báo từ Trung tâm Tư vấn môi trường - Tài nguyên và giảm nghèo nông
thôn, hoang mạc hóa đang là vấn đề rất phức tạp của Việt Nam hiện nay.
Theo đó, Việt Nam hiện còn khoảng hơn 9 triệu ha đất đồi núi trọc, đồi cát có liên quan tới
sa mạc hóa, chiếm 28% tổng diện tích đất đai trên toàn quốc.
Cũng theo trung tâm này, hiện Việt Nam đã xuất hiện sa mạc hóa cục bộ ở các dải cát hẹp

trải dài dọc theo bờ biển miền Trung, từ Quảng Bình đến Bình Thuận là nơi có diện tích sa
mạc hóa lớn nhất cả nước.
Tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi còn nhiều vùng đồi núi trọc đang bị mưa lũ làm lở đất,
xói mòn và suy thoái đến khô cằn hoang mạc.
Đây là những vấn đề đáng lo ngại, là thách thức lớn đối với nền nông nghiệp của nước ta
hiện nay. Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có ít đất nông nghiệp, đứng thứ 159
trên thế giới.
Sa mạc hoá - thuận lợi và thách thức đối với chúng ta
Cộng đồng quốc tế từ lâu đã nhận thấy sa mạc hoá là một vấn đề rất rộng liên
quan đến cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường của nhiều quốc gia trên
thế giới. Năm 1977, Hội nghị về Sa mạc hoá của Liên hợp quốc (UNCOD) đã
thông qua một Kế hoạch hành động chống sa mạc hoá (PACD). Tuy nhiên, theo
đánh giá của Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) vào năm
1991, thoái hoá đất vẫn gia tăng ở các khu vực khô hạn, bán khô hạn và vùng
ẩm nửa khô hạn, dù đã có một số "thành công mang tính cục bộ".
Vì vậy chống sa mạc hoá vẫn là một vấn đề chính tại Hội nghị thượng đỉnh về
Môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (UNCED) tại Rio de Janeiro - Brazil
năm 1992. Hội nghị đã nhất trí thông qua một phương pháp tiếp cận đa ngành
mới, tập trung vào các hoạt động nhằm thúc đẩy phát triển bền vững ở cấp
cộng đồng. Hội nghị cũng yêu cầu Đại hội đồng Liên hợp quốc thành lập một Uỷ
ban đàm phán liên chính phủ (INCD) để chuẩn bị văn kiện Công ước chống sa
mạc hoá (UNCCD). Tháng 12 năm 1992, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thống
nhất thông qua Nghị quyết 47/188 về UNCCD và sau 5 cuộc họp của Uỷ ban
đàm phán liên chính phủ, Công ước UNCCD đã được phê chuẩn tại Paris ngày
17 tháng 6 năm 1994 và để các bên ký kết vào ngày 14-15 tháng 10 năm 1994.
Công ước có hiệu lực vào ngày 26 tháng 12 năm 1996. Đây là một trong 3 công
ước Rio về môi trường quan trọng nhất của Liên hợp quốc (UNCCD, UNFCCC,
UNCBD). Cho đến nay, Công ước đã tròn 10 năm tuổi, với gần 200 thành viên.
Hội nghị các bên tham gia Công ước lần thứ 5, tháng 10 năm 2001 tại Geneva,
Thuỵ Sỹ đã quyết định lấy Ngày 17/6 hàng năm là ngày quốc tế chống sa mạc

hoá. Chủ đề của ngày quốc tế chống sa mạc hóa năm nay, 17/6/2007, là “Sa
mạc hóa và biến đổi khí hậu - Một thách thức toàn cầu”. Thông điệp này nhắc
nhở chúng ta rằng biến đổi khí hậu và sa mạc hóa có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau ở rất nhiều cấp độ. Đây là hai khía cạnh của cùng một vấn đề. Sa mạc hóa
cùng với biến đổi khí hậu đang đe dọa nghiêm trọng đến khả năng hoàn thành
các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc vào năm 2015.
Sa mạc hóa không chỉ là một thách thức lớn về môi trường của thế giới mà
còn là một trong những trở ngại chính trong việc đảm bảo các nhu cầu tối thiểu
của con người tại những vùng khô hạn. Sa mạc hóa đe dọa đến sức khỏe và
cuộc sống của khoảng 1,2 tỷ người ở trên 100 quốc gia trên thế giới.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×