Lịch sử phim câm
Ngay từ buổi bình minh của điện ảnh, các nhà sản xuất phim đã liên
tục tìm tòi để có thể ghép âm thanh vào phim, nhưng chẳng có biện pháp nào
tỏ ra hiệu quả. Mãi tới cuối thập niên 20, phim có tiếng mới bắt đầu xuất hiện.
Hầu hết phim được sản xuất trong thập niên 20 không có tiếng. Chúng được
chiếu với phần đệm của đàn piano hay organ, thỉnh thoảng có cả người dẫn truyện
hay những diễn viên đứng sau màn ảnh. Khi phim truyện dài (sử dụng ít nhất 4
cuộn phim, thời gian tối thiểu là 40 phút) trở thành chuẩn trong khoảng những
năm 1910 các rạp chiếu lớn thuê hẳn một ban nhạc lồng âm thanh cho phim.
Đương nhiên, họ chỉ chơi những bản nhạc được viết dành riêng cho bộ phim đó.
Cho đến tận Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các nhà làm phim
châu Âu vẫn thống trị thị trường phim của thế giới. Pháp được xem như là nước
dẫn đầu trong sản xuất phim, mặc dù các nước châu Âu khác như Đan Mạch hay
Italy cũng đóng một vai trò quan trọng. Thế rồi chiến tranh (chủ yếu diễn ra ở
châu Âu) đã phá vỡ những thành quả của điện ảnh của lục địa già. Với sự sụp đổ
nhanh chóng của các hãng xuất khẩu phim ở châu Âu, một số nơi khác như Mỹ
Latin đã nhanh chóng vươn lên. Nhưng các công ty Mỹ nhanh chân hơn cả. Phim
của Mỹ được sản xuất theo chiến lược từng được áp dụng ở châu Âu nhưng với
chi phí thấp hơn nhiều. Vì thế mà tới thập niên 20, phim sản xuất từ Mỹ chiếm 3/4
tổng số phim trên toàn thế giới.
Một cảnh gay cấn trong Safety Last (1923).
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà làm phim Mỹ đã để lại dấu ấn
ở thể loại hài kịch và thần thoại. Các nhà làm phim Mỹ lại bắt đầu tụ tập về nam
California, tại khu vực ngoại ô Hollywood, Los Angeles. Từ đây Hollywood trở
thành một biểu tượng đầy quyến rũ, còn điện ảnh đã trở thành một ngành giải trí
phổ biến.
Griffith David Wark được mệnh danh là The Father of the Motion Picture
(Cha đẻ của phim ảnh). Ông đã đưa điện ảnh từ thời kỳ One-reelers trong buổi đầu
sang một kỷ nguyên thống trị của Hollywood. Khởi nghiệp trong vai trò diễn viên,
tới năm 1908 ông trở thành giám đốc của American Mutoscope & Biograph
Company tại thành phố New York. Trong khoảng thời gian từ 1908 tới 1913, ông
sản xuất gần 500 phim.
Năm 1915, Griffith phát hành The Birth of A Nation - bộ phim về cuộc nội
chiến Mỹ (1861-1865). Với thời lượng gần 3 giờ, bộ phim gây sửng sốt cho khán
giả bởi những cảnh quay hoành tráng. Với tác phẩm này, Griffith trở thành người
đặt nền móng vững chắc trong quá trình biến điện ảnh thành một bộ môn nghệ
thuật.
Charlie Chaplin trong phim The Gold Rush (1925).
Trước thời của Griffith, phim chỉ là những đoạn ngắn, chủ yếu là tình tiết,
còn diễn xuất và công đoạn biên tập hầu như không được quan tâm. Phim của
Griffith thường xuyên được chiếu trong thời gian dài, luôn có tình tiết kịch tính,
cao trào, với những nhân vật sống động và được sản xuất trình độ kỹ thuật cao.
Ông còn là người đưa ra những ý tưởng nổi tiếng trong lịch sử điện ảnh như: quay
cận cảnh (close-up); sự mờ dần (fade-out, một hình thức chuyển đổi các cảnh khác
nhau trong phim, cảnh đầu sẽ dần dần mờ đi và cảnh sau xuất hiện); chiếu lại
(cutback) hoặc hồi tưởng (flashback, nhằm làm cho tình tiết và cách xây dựng
nhân vật dễ hiểu hay để giới thiệu những cảnh có thời gian về trước).
Năm 1920, cùng với các diễn viên Douglas Fairbanks, Mary Pickford và
Charlie Chaplin, Griffith thành lập United Artists Corporation nhằm sản xuất
những bộ phim truyện. Phần lớn phim mà hãng sản xuất là phim câm, trừ một số
tác phẩm cuối cùng như Lady of the Pavements (1929), Abraham Lincoln (1930)
và The Struggle (1931). Mặc dù có âm thanh, những phim này vẫn thất bại về mặt
doanh thu.
Bất chấp những đột phá của Griffith và nhiều nhà làm phim, hài kịch vẫn là
thể loại chủ yếu của phim câm. Sau những phim không có nội dung và hài kịch có
nội dung khiếm nhã, một phong cách mới có tên slapstick đã nổi lên trong giai
đoạn này. Mack Sennett, một diễn viên, đạo diễn phim hài với Griffith, đã thành
lập một công ty mới có tên Keystone vào năm 1912. Công ty này đã góp vai trò
quan trọng trong việc phát triển thể loại slapstick và sản sinh ra một diễn viên
huyền thoại: vua hề Charlin Chaplin.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phim câm của Mỹ thống trị thị trường thế
giới. Pháp không còn giữ vị trí độc tôn, nhưng vẫn là trung tâm lý luận điện ảnh.
Phim câm phát triển mạnh mẽ từ năm 1925 và rơi vào thoái trào kể từ khi phim có
âm thanh ra đời.
Tại Đức
Trong thập niên đầu sau chiến tranh, công nghiệp điện ảnh Đức phát triển
mạnh mẽ nhất ở châu Âu, bất chấp sự xâm nhập của phim Mỹ và ảnh hưởng của
những tài năng nổi tiếng đến từ Hollywood. Mặc dù phim Đức mang tính thương
mại, các nhà làm phim nước này vẫn quan niệm rằng điện ảnh là một loại hình
nghệ thuật, tức là phải mang lại một sự chú ý đặc biệt trong không gian nghe nhìn,
truyền đạt nội dung tới người xem thông qua nghệ thuật quay phim, ánh sáng,
dựng cảnh.
The Cabinet of Dr. Caligari, một bộ phim tiêu biểu của Đức được sản xuất
vào năm 1919.
Do vừa trải qua chiến tranh, giới làm phim Đức chủ trương sản xuất những
bộ phim thật đặc biệt, vượt qua sự thù địch chiến tranh để thâm nhập thị trường
thế giới. Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionism), một trào lưu nghệ thuật sử dụng
những hình tượng bóp méo có chủ định để diễn tả cảm xúc, đã ảnh hưởng đến
những tác phẩm nổi tiếng sau chiến tranh của điện ảnh Đức.
Tại Liên bang Xô viết
Năm 1917, chế độ Sa Hoàng sụp đổ sau cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại
do những người Bôn-sê-vít lãnh đạo, nước Nga từ đây đổi tên thành Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa liên bang Xô Viết. Với những sự kiện như vậy, các nhà làm phim trẻ
ở Xô Viết hăng hái thiết lập một loại hình nghệ thuật điện ảnh mới dựa trên lý
tưởng cách mạng. Phim câm ở Nga trở nên đáng chú ý vì sự kết hợp giữa chính trị
với những quan niêm mới về mỹ học. Những tác phẩm của các nhà làm phim như
Sergey Eisenstein, Dziga Vertov và Eisenstein tiếp tục đặt ra câu hỏi đầy thách
thức về mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, trước hết là những tranh cãi gay
gắt trong nước.
Sergey Eisenstein, một trong những nhà làm phim hàng đầu của Nga trong
những năm đầu của chế độ Xô viết.