Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM CHO HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 47 trang )

NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM CHO HỌC SINH
TRƯỜNG THPT ĐỐC BINH KIỀU TỈNH TIỀN GIANG

1


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

VIẾT ĐẦY ĐỦ
Ban giám hiệu
Công an nhân dân
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Giáo dục quốc phòng – an ninh
Học sinh
Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân
Quốc phịng tồn dân
Trung học phổ thơng

VIẾT TẮT
BGH


CAND
CHXHCNVN
GDQP-AN
HS
NXB
QĐND
QPTD
THPT

MỤC LỤC
trang
MỤC LỤC.............................................................................................................2
MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................4
Chương 1...............................................................................................................7

2


1.1. Biển đảo Việt Nam và nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học
sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang..............................................7
1.1.1.Khái quát về biển, đảo Việt Nam..................................................................7
1.2.3.Nguyên nhân thực trạng nhận thức về biển, đảo của học sinh trường
THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang.............................................................20
Kết luận chương 1...............................................................................................26
Chương 2.............................................................................................................26
luận chương 2......................................................................................................38
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................39
1.Kết luận............................................................................................................39
PHỤ LỤC............................................................................................................42

Phụ lục 1: Phiếu khảo sát đối với giáo viên........................................................42
Phụ lục 2: Phiếu khảo sát đối với học sinh..........................................................43
Phụ lục 3: Sơ đồ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.........................45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................46

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI được coi là “Thế kỷ của đại dương”, trong đó Việt Nam là
quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đơng, có địa chính trị và địa kinh tế
rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Với bờ biển dài trên
3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven
biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả
nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh,
thành ven biển. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc, biển đảo ln gắn với q trình xây dựng và phát triển của đất nước và con
người Việt Nam.Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cùng với sự phát triển như vũ
bảo của khoa học và công nghệ đang tạo ra vận hội mới trong hội nhập và phát
triển của đất nước thì chúng ta cũng phải đối diện với nhiều nguy cơ và thách
thức to lớn như: ô nhiễm môi trường, gia tăng dân số, nhất là chủ quyền quốc
gia trên biển bị xâm phạm. Trực tiếp là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị
các thế lực thù địch nước ngoài can thiệp trắng trợn, tình hình biển Đơng đang
trở nên căng thẳng và phức tạp hơn bao giờ hết. Tiền Giang là một tỉnh ven biển
với hơn 32km bờ biển nên việc tuyên truyền cho học sinh hiểu rõ về biển, đảo
của tổ quốc là hết sức cần thiết. Vì lẽ đó, việc nâng cao nhận thức cho học sinh
về biển, đảo Việt Nam là hết sức quan trọng và cần thiết. Do vậy, đề tài “ Nâng
cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh trường THPT Đốc Binh
Kiều tỉnh Tiền Giang” là vấn đề có tính cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả liên quan đến vấn đề
biển đảo Việt Nam. Sau đây là một số nghiên cứu nổi bật:
- Tiến sĩ Dương Quang Hiển: Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của
thanh niên, học sinh, sinh viên về biển, đảo. Tạp chí lí luận chính trị số 5- 2013.
- Phạm Trung: Nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên đối với nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Báo Cần Thơ.
4


- Tác giả Lưu Văn Lợi (năm 2010) trong: “Những điều cần biết về ĐấtBiển – Trời Việt Nam” đã khẳng định rằng: Trên chặng đường bốn mươi thế kỉ,
dân tộc ta đã kiên trì và từng bước mở rộng ra biển Đông, từ ven bờ tiến ra biển
gần, rồi biển xa, từ đất liền tiến vào các đảo ven bờ rồi các đảo xa bờ.
- Nhà nghiêng cứu Nguyễn Đình Đầu (năm 2014): Chủ quyền Việt Nam
trên Biển Đơng và Hồng Sa, Trường Sa.
Các cơng trình trên làm rõ phần nào tầm quan trọng của việc nâng cao nhận
thức của học sinh về biển, đảo Việt Nam đồng thời đưa ra nhiều biện pháp để
giáo viên có thể tham khảo và vận dụng vào công tác giáo dục. Tuy nhiên chưa
có cơng trình nào nghiên cứu: “Nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho
học sinh trường trung học phổ thông Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang. ”. Do vậy,
tơi chọn vấn đề này làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ lý luận và thực trạng nâng cao nhận thức về vấn đề biển, đảo Việt
Nam cho học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang, đề xuất một số
giải pháp nâng cao nhận thức biển, đảo Việt Nam cho học sinh trường THPT
Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học
sinh.
- Điều tra thực tiễn dạy học về biển, đảo Việt Nam tại trường THPT Đốc

Binh Kiều tỉnh Tiền Giang từ đó phát hiện những mặt tồn tại cần khắc phục và
những ưu điểm cần phát huy.
- Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt
Nam cho học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu của đề tài là: học sinh trường trung học phổ thông
Đốc Binh Kiều, tỉnh Tiền Giang.
- Đối tượng nghiên cứu: nhận thức và nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt
Nam cho học sinh trường trung học phổ thông Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
5


6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về nhận thức và nâng cao nhận thức về
biển, đảo Việt Nam cho học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang.
Các số liệu khái quát từ năm 2012 đến nay.
7. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản
- Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng của Đảng ta về
giáo dục, biển, đảo của Tổ quốc.
- Dựa trên những thành tựu về vấn đề nghiên cứu đã được nghiên cứu trước
đây.
- Các phương pháp nghiên cứu khác: Phương pháp quan sát, phương pháp
điều tra, tổng kết kinh nghiệm, thống kê tốn học, phân tích....
8. Đóng góp của đề tài
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt
Nam cho học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang. Từ đó nâng
cao chất lượng giảng dạy bộ mơn Giáo dục quốc phịng – an ninh cũng như các
mơn khác có liên quan.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho
học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang

9. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận và kiến nghị, phụ
lục và danh mục tài liệu tham khảo.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NÂNG CAO NHẬN THỨC
VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM CHO HỌC SINH
TRƯỜNG THPT ĐỐC BINH KIỀU TỈNH TIỀN GIANG
1.1. Biển đảo Việt Nam và nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho
học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
1.1.1.Khái quát về biển, đảo Việt Nam
a) Khái quát vùng biển nước ta
Biển Đơng là một biển nửa kín, nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, với
diện tích khoảng 3,5 triệu km2 trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260 Bắc và từ
kinh độ 1000 đến 1210 Đông. Biển Đông tiếp giáp với 9 nước là Việt Nam, Trung
Quốc, Philippin, Indonexia, Bruney, Malayxia, Singapore, Thái Lan,
Camphuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đơng có vị trí chiến lược
đối với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và các quốc
gia khác trên thế giới.
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đơng, có địa
chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có.
Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số
157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều
dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100
km2 đất liền có 1km bờ biển). Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh,
thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển đảo luôn

gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
Vùng biển nước ta bao gồm cả vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có
diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần
30% diện tích Biển Đơng (cả Biển Đơng gần 3,5 triệu km 2). Vùng biển nước ta
7


có khoảng 3.000 hịn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường
Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ biển đất nước, với vị trí đặc biệt
quan trọng như một tuyến phịng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đơng của đất
nước. Một số đảo ven bờ cịn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm
mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó
xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng
biển.
Theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các
quốc gia ven biển có năm (05) vùng biển gồm: Nội thủy nằm bên trong đường
cơ sở; lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý; vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở; riêng thềm lục địa có thể kéo dài
ra tới 350 hải lý. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển nói
trên:
Nội thủy: Là vùng nước nằm ở phía trong đường cơ sở của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nội thủy được coi như lãnh thổ trên đất liền, đặt
dưới chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam.
Đường cơ sở: là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngồi
của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để làm cơ sở xác định

phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Là
đường dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác. Có 2
loại đường cơ sở:
- Đường cơ sở thơng thường: Là đường sử dụng ngấn nước thủy triều
thấp nhất ven bờ biển hoặc hải đảo.
- Đường cơ sở thẳng: Là đường nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của
bờ biển lục địa hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven
biển bị chia cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển.
Nước ta có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định
8


đường cơ sở thẳng. Năm 1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố xác định đường
cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm. Trừ điểm A8
nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại đều nằm trên các đảo. Điểm 0 nằm trên
ranh giới phía Tây Nam của vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia. Điểm
A1: Hòn Nhạn (Kiên Giang); A2: Hòn Đá Lẻ (Cà Mau); A3: Hịn Tài Lớn; A4:
Hịn Bơng Lan; A5: Hòn Bảy Cạnh (Bà Rịa - Vũng Tàu); A6: Hịn Hải (nhóm
đảo Phú Q - Bình Thuận); A7: Hịn Đơi (Khánh Hịa); A8: Mũi Đại Lãnh
(Khánh Hịa); A9: Hịn Ơng Căn (Bình Định); A10: Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);
A11: Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị).
Lãnh hải: Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng
12 hải lý (01 hải lý tương đương 1.852m), ở phía ngoài đường cơ sở. Ranh giới
ngoài của lãnh hải là biên giới của quốc gia ven biển. Nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và tồn vẹn đối với lãnh hải của
mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh
hải. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, chủ quyền đối với
vùng lãnh hải không phải là tuyệt đối như vùng nội thủy, tàu thuyền các nước
khác được “đi qua không gây hại” trong lãnh hải. Các quốc gia ven biển có
quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thơng

dành cho tàu nước ngồi đi qua lãnh hải nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc
gia và lợi ích của mình. Đối với tàu qn sự nước ngồi khi thực hiện quyền đi
qua khơng gây hại trong lãnh hải Việt Nam , thông báo trước cho cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam. Các phương tiện bay nước ngồi khơng được vào
vùng trời ở trên lã trong lãnh hải Việt Nam , thông báo trước cho cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam. Các phương tiện bay nước ngồi khơng được vào
vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính
phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam là thành viên.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngồi lãnh hải Việt Nam có
chiều rộng 12 hải lý, hợp với lãnh hải thành một vùng rộng 24 hải lý kể từ
9


đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Chính phủ nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm soát cần thiết trong vùng
tiếp giáp lãnh hải của mình nhằm bảo vệ quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm
bảo sự tơn trọng các quy định về y tế, di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong
lãnh hải Việt Nam.
Vùng đặc quyền kinh tế: Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền vùng lãnh hải và hợp với vùng lãnh hải thành
vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
của Việt Nam. Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hồn
tồn về việc thăm dị, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên
nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới
đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền
riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng
đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên
cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có thẩm quyền trong

bảo vệ mơi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Thềm lục địa: Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên
của lục địa mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngồi của rìa lục địa;
nơi nào bờ ngồi của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải Việt Nam khơng đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý
kể từ đường cơ sở đó. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982,
nước nào có thềm lục địa tự nhiên quá rộng thì thềm lục địa có thể mở rộng ra
khơng q 350 hải lý kể từ đường cơ sở. Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có chủ quyền hồn tồn về mặt thăm dị, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả
các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng
sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm
lục địa Việt Nam.
b) Hệ thống các đảo và quần đảo nước ta
Vùng biển và hải đảo nước ta rất đa dạng, bao gồm nhiều khu vực khác
10


nhau; trong đó có thể chia thành các vùng chủ yếu: Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái
Lan, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và một số đảo, quần đảo khác.
Vịnh Bắc Bộ nằm về phía Tây Bắc Biển Đơng, được bao bọc bởi bờ biển
miền Bắc Việt Nam, lục địa Trung Hoa, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam
(Trung Quốc). Với diện tích khoảng 126.250 km2, Vịnh Bắc Bộ trải rộng từ
khoảng 17010’ đến 21055’ độ vĩ Bắc, 105036’ đến 109055’ độ kinh Đông; chiều
ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km và nơi hẹp nhất khoảng 220 km; có hai cửa
thơng ra Biển Đơng: cửa phía Nam rộng khoảng 240 km và cửa phía Đơng (qua
eo biển Quỳnh Châu) rộng khoảng 18 km. Năm 2000, Việt Nam và Trung Quốc
đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ theo phương thức “đại thể chia đôi” và
lấy đường trung tuyến từ Bắc xuống Nam làm ranh giới. Theo đó, phần Vịnh
phía Việt Nam có hàng nghìn hịn đảo lớn, nhỏ; trong đó, đảo Bạch Long Vĩ

(diện tích 2,5 km2) cách đất liền Việt Nam 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung
Quốc) 130 km.
Vịnh Thái Lan nằm ở phía Tây Nam Biển Đơng, có diện tích khoảng
293.000 km2, chu vi khoảng 2.300 km và được bao bọc bởi bờ biển các nước:
Việt Nam, Cam-pu-chia, Thái Lan và Ma-lai-xi-a. Đây là một vịnh tương đối
nông, nơi sâu nhất khoảng 80m; trong Vịnh, vùng biển của Việt Nam bao gồm
nhiều hòn đảo lớn, nhỏ; trong đó, đảo Phú Quốc có diện tích lớn nhất (khoảng
567 km2).
Các đảo và quần đảo của Việt Nam phân bố khơng đồng đều. Vùng biển
ven bờ có gần 3.000 hòn đảo, tập trung chủ yếu ở Vịnh Bắc Bộ, số còn lại phân
bố ở khu vực biển Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và Tây Nam. Ngoài ra, cịn có
một số đảo xa bờ; hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển
Đông. Căn cứ vào điều kiện địa lý, vị trí chiến lược về kinh tế, quốc phòng - an
ninh và dân cư, có thể chia các đảo và quần đảo nước ta thành các nhóm: hệ
thống đảo tiền tiêu, các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển
kinh tế biển và các đảo ven bờ có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và là căn
cứ để bảo vệ an ninh, trật tự vùng ven biển nước ta. Trong đó, nhóm đảo tiền
tiêu gồm các đảo, quần đảo xa bờ trên các hướng biển của Tổ quốc, như: quần
11


đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo: Chàng Tây, Thổ Chu, Phú Quốc, Côn
Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ,… và Bạch Long Vĩ. Đây là những vị trí tiền
đồn quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vùng biển và hải đảo của nước ta là bộ phận lãnh thổ không thể tách rời
của Việt Nam, là không gian sinh tồn và phát triển từ hàng nghìn năm nay của
dân tộc ta. Trong vùng biển và hải đảo của Việt Nam, mỗi hịn đảo khơng chỉ là
địa bàn, nơi làm ăn sinh sống của nhân dân, mà còn là “cột mốc chủ quyền” tự
nhiên, thiêng liêng của quốc gia. Vì thế, bảo vệ và phát triển tiềm năng biển và
hải đảo luôn là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng

vũ trang và cả dân tộc.
1.1.2. Nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh trường
THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
a) Nhận thức
- Khái niệm về nhận thức: theo quan điểm triết học Mác-Lênin nhận thức
được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào
trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực
tiễn. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, nhận thức là quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư
duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
- Các giai đoạn của nhận thức: theo quan điểm của phép biện chứng duy
vật, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được
thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể
đến trừu tượng, từ hình thức bên ngồi đến bản chất bên trong.
b) Nhận thức về biển, đảo
Có thể nói rằng nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh là quá
trình phản ánh biện chứng nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo vào
trong bộ óc của học sinh, có tính tích cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực
tiễn. Các giai đoạn nhận thức của học sinh đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn thông qua các hoạt động giáo
12


dục, dạy học.
c) Ý nghĩa của việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học
sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
Việc nâng cao nhận thức về biển đảo Việt Nam cho học sinh THPT có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Một là, Thông qua việc dạy học mơn Giáo dục Quốc phịng an ninh giúp

học sinh biết được những nét chính về biển, đảo của tổ quốc, hiểu rõ vai trị của
biển, đảo đối với cơng cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước hiện nay.
Hai là, Thông qua việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam giáo
dục lòng yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc; bồi dưỡng ý thức độc
lập dân tộc, bảo vệ sự thống nhất nước nhà. Giáo dục lòng biết ơn đối với thế hệ
cha anh, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc trong đó có chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Từ đó có trách nhiệm đối
với quê hương, đất nước, đồng thời xác định động cơ học tập vì lý tưởng cao
đẹp giúp ích cho Tổ quốc.
Ba là, Thơng qua việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam giúp
cho học sinh phát triển các năng lực như:
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tiếp
thu kiến thức và vận dụng vào đời sống thực tế.
- Hình thành cho học sinh khả năng xác định điều kiện, mối quan hệ tác
động qua lại giữa biển, đảo với đời sống con người trong xã hội.
- Rèn cho học sinh năng lực đánh giá, nhận xét vai trò của biển, đảo đối
với sự vận động và phát triển của xã hội. Qua đó các em có khả năng phân biệt,
có thái độ ứng xử đúng đắn đối với vấn đề biển, đảo của nước ta hiện nay.
Tóm lại, việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh
THPT Đốc Binh Kiều là việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa trong việc góp
phần phát triển tồn diện học sinh, góp phần phát triển đất nước.
1.1.3 Các nhân tố tác động đến nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam
cho học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
Quá trình nhận thức của học sinh ở mỗi cấp học cũng có sự khác nhau và
13


bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố tâm lí giữ vai trị quan trọng. Đối
với học sinh THPT, đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ và tồn diện về mặt tâm
sinh lí cũng như hoạt động xã hội. Lứa tuổi học sinh THPT có khả năng tư duy lí

luận và tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo, năng lực phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa cao. Đặc biệt về tâm lí tình cảm, các
em có những thái độ, tình cảm khá kiên định, có quan niệm rõ ràng về các mối
quan hệ xã hội. Ở lứa tuổi này, các em thường say mê tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời,
đang có khuynh hướng chấp nhận mọi cái chỉ dựa vào lịng tin và đam mê tìm
kiếm các sự kiện để tìm ra chân lí. Một khi các em tin vào một điều gì đó thì các
em sẵn sàng cống hiến và phấn đấu cho niềm tin đó. Đây là lứa tuổi mà nhân
cách học sinh bắt đầu được hồn thiện, biết đề ra cho mình mục đích và lí tưởng
sống rõ ràng. Song các em cũng chịu tác động rất lớn bởi môi trường sống và
học tập bên ngồi cũng như trong gia đình.
Xuất phát từ nhân tố đó, việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam
cho học sinh THPT là điều quan trọng và cần thiết. Đặc biệt trong bối cảnh quốc
tế hiện nay, chủ quyền biển, đảo đang nóng trên thế giới. Việt Nam cũng đang có
cơng cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng nhiều biện pháp khác nhau trong đó
có việc nâng cao nhận thức cho học sinh.
1.2.Thực trạng và nguyên nhân nhận thức về biển, đảo Việt Nam của học
sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
1.2.1.Khái quát về trường và học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều tỉnh
Tiền Giang
Trường THPT Đốc Binh Kiều nằm ngay trung tâm thị xã Cai Lậy, cách
thành phố Mỹ Tho 30 km.Trường được thành lập ngày 11/ 12/ 1959, với bề dày
truyền thống “ Dạy tốt, Học tốt” gần 57 năm qua, Đảng bộ, Ban Giám hiệu nhà
trường đã lãnh đạo tập thể cán bộ, giáo viên, học sinh xây dựng Trường trở
thành một đơn vị đoàn kết, một tập thể vững mạnh và không ngừng phát triển.
Trường luôn thực hiện tốt các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước, các
chính sách quản lý tài chính, tài sản, xây dựng cơ bản, chính sách cán bộ… thực
hiện có hiệu quả. Tập thể cán bộ giáo viên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
14



bộ, Chi ủy và Ban Giám hiệu, nỗ lực phấn đấu, khắc phục các khó khăn hồn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Chi bộ Đảng, các đồn thể (Cơng đồn, Đồn
Thanh niên) liên tục được cơng nhận là đơn vị trong sạch vững mạnh.
Về đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh của nhà trường:
- Về số lượng cơng chức, viên chức, Trường có 98 người, trong đó có 86
giáo viên, 12 nhân viên .
Chất lượng đội ngũ giáo viên, viên chức: Trong đó có 14 giáo viên có trình
độ thạc sỹ. 100% giáo viên có trình độ đại học.
- Về học sinh: Tổng số học sinh toàn trường 1655 học sinh, được biên chế
thành 40 lớp. Cụ Thể: Khối 12 có 14 lớp, khối 11 có 14 lớp, khối 10 có 12 lớp
- Về tổ Thể Dục - Quốc phịng: Thành phần gồm có: 9 giáo viên trong đó có 3
giáo viên giảng dạy GDQP-AN.
1.2.2. Thực trạng nhận thức về biển, đảo của học sinh trường THPT Đốc
Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
Thời gian gần đây dư luận xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng đã
dành sự quan tâm đặc biệt đến chủ quyền biển đảo, nhất là khi Trung Quốc
ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế
nước ta. Điều đó thể hiện rõ tinh thần yêu nước - truyền thống mãnh liệt của dân
tộc ta.
Ở trường THPT, giáo dục nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho
học sinh là nội dung không thể thiếu. Hơn nữa, Tiền Giang là một trong những
tỉnh thành có biển nên việc nâng cao nhận thức về biển, đảo cho học sinh có
nhiều ý nghĩa quan trọng. Để có được những nhận xét chính xác, khách quan và
khoa học nhận thức về biển, đảo Việt Nam của học sinh trường THPT Đốc Binh
Kiều tôi đã tiến hành khảo sát một số giáo viên và học sinh của trường.
Công việc được tiến hành theo nguyên tắc điều tra xã hội học, tiến hành
phỏng vấn một số giáo viên, điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến đối với học sinh
cả ba khối lớp.
Tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản như sau:
- Nhận thức của học sinh về vấn đề chủ quyền biển, đảo thông qua các môn

15


học.
- Các hình thức giáo dục nâng cao nhận thức của học sinh về biển, đảo Việt
Nam được tổ chức trong nhà trường.
- Sự hiểu biết của các em về vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
- Khó khăn của học sinh trong học tập và tiếp cận thơng tin về vấn đề biển,
đảo trong tình hình mới.
Tơi tiến hành phương pháp trao đổi trực tiếp với giáo viên và khảo sát đối với
200 học sinh cả ba khối lớp. Sau khi xử lý các nguồn thông tin, kết quả điều tra
thực tiễn đã cho phép tôi rút ra một số kết luận về các vấn đề đã đặt ra như sau:
Câu 1:
Biển, đảo nước ta có vai trò quan trọng như thế nào trong xây dựng và
phát triển đất nước?
A.
B.
C.
D.

Rất quan trọng
Tương đối quan trọng
Bình thường
Khơng quan trọng

96/200
101/200
2/200
1/200


48%
50.5%
1%
0.5%

Kết quả khảo sát chỉ có 96 em chọn đáp án A ( Rất quan trọng ) chiếm
48%. Còn lại chủ yếu tập trung vào đáp án B chứng tỏ phần lớn học sinh chưa
nhận thức hết được tầm quan trọng của biển, đảo trong xây dựng và phát triển
đất nước. Đặc biệt trong tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp, khó lường như hiện nay, tình hình xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo
trong tình hình mới hết sức căng thẳng. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức cho các
em là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Câu 2:
Luật biển Việt Nam năm 2012 là một văn bản luật rất quan trọng ở nước
ta hiện nay. Vậy anh (chị) ?

16


A. Có biết
89/200
44.5%
B. Có tìm hiểu
16/200
8%
C. Chưa biết
82/200
41%
D. Chưa nghe bao giờ
13/200

6.5%
Kết quả trên cho thấy giữa biết và chưa biết tương đương nhau, trong đó
chọn đáp án A ( có biết ) chiếm phần lớn hơn (44.5%). Số học sinh chọn đáp án
C ( chưa biết ) chiếm 41% Số học sinh có tìm hiểu chiếm số lượng tương đối ít
(8%), điều này chứng tỏ các em chưa quan tâm nhiều đến biển đảo của tổ quốc,
các hoạt động ở nhà trường và địa phương chưa thu hút các em quan tâm đến
vấn đề này, hay công tác tuyên truyền của nhà trường, địa phương chưa đủ sức
lôi cuốn các em tham gia, tìm hiểu. Vẫn cịn 6.5% học sinh chưa nghe bao giờ,
đây là số học sinh có thể nói là thờ ơ với các hoạt động của nhà trường đối với
vấn đề biển đảo của quốc gia.
Câu 3:
Nội dung tuyên truyền nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho
học sinh hiện nay là nhiều hay ít?
A. Quá nhiều
47/200
23.5%
B. Vừa phải
59/200
29.5%
C. Quá ít
94/200
47%
Đa số các em ( 47% ) cho rằng nội dung tuyên truyền nâng cao nhận
thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh hiện nay là quá ít. Quá ít trong nội
dung chương trình học của các bộ mơn, q ít trong các hoạt động ngoại khóa.
Chưa đủ thời lượng để các em tiếp thu, nhận thức cao hơn, quan tâm đến vấn đề
để tìm hiểu sâu hơn. Từ nội dung ít thì có thể nói các phương pháp, hình thức sẽ
cịn nhiều hạn chế, chưa lôi cuốn học sinh.
Câu 4:
Cơ sở vật chất phục vụ mơn học Giáo dục quốc phịng an ninh cũng như

các hoạt động tuyên truyền về biển, đảo Việt Nam hiện nay đã tốt chưa?
A.
B.
C.
D.

Rất tốt
Tương đối tốt
Chưa tốt
Còn thiếu

57/200
76/200
59/200
8/200
17

28.5%
36%
29.5%
4%


Trong thời gian vừa qua, nhà trường đã được Sở giáo dục cấp mới các trang
bị phục vụ cho giảng dạy mơn giáo dục quốc phịng như súng AK tháo lắp, súng
luyện tập, máy bắn tập, lựu đạn tập…Tuy nhiên, một số trang bị mau xuống cấp
nhất là súng AK dùng để tháo lắp dễ bị kẹt, hỏng hóc thậm chí khơng sửa chữa
được. Mặt khác, tài liệu tham khảo tại thư viện cịn ít, đa số các em khơng có
sách tham khảo. Chính vì vậy mà có 29.5% học sinh cho rằng cơ sở vật chất còn
chưa tốt và 4% cho rằng còn thiếu.

Câu 5:
Là một học sinh THPT, các anh (chị ) có quan tâm đến những thơng tin về
biển, đảo của của nước ta trong thời gian qua khơng?
A.
B.
C.
D.

Rất quan tâm
Bình thường
Ít quan tâm
Khơng quan tâm

200/200
0/200
0/200
0/200

100%
0%
0%
0%

Qua kết quả trên cho thấy các em có sự quan tâm rất lớn đến biển, đảo của
nước ta, đặt biệt là một số sự việc đã xảy ra trong thời gian qua. Đa số học sinh
đều cho rằng cần phải đưa nội dung giáo dục nâng cao nhận thức về biển, đảo
Việt Nam vào trong nhà trường phổ thông.
Về phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục về biển, đảo Việt
Nam, đa số các em cho rằng nên kết hợp cả hình thức nội khóa và ngoại khóa,
bên cạnh đó giáo viên cần đổi mới phương pháp để học sinh tiếp cận vấn đề một

cách chủ động và đạt kết quả cao hơn.
Tuy vậy, một số vấn đề về biển, đảo nước ta học sinh hiểu biết còn mơ hồ,
chẳng hạn như khi trao đổi về vấn đề Hồng Sa, Trường Sa thì các em cịn mập
mờ. Đây thực sự là vấn đề cấp thiết được đât ra trong nhận thức của học sinh.
Hay nói cách khác, đây là kiến thức của học sinh nói riêng và của mọi người dân
Việt Nam nói chung về vấn đề chủ quyền biển, đảo hiện nay đang yêu cầu giáo
dục một cách nghiêm túc và cẩn thận.
Qua kết quả trên, chúng ta thấy những vấn đề cần giải quyết là:
18


- Thứ nhất, vấn đề nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh
trường THPT Đốc Binh Kiều hiện nay chưa đồng bộ, cịn mang tính hình thức,
phong trào, chỉ giao cho Đoàn trường thực hiện. Cách làm này có chiều rộng về
phong trào hơn là chiều sâu về kiến thức, hiệu quả nâng cao nhận thức mang lại
chưa cao.
- Thứ hai, vấn đề đáp ứng nhu cầu về tài liệu, trang thiết bị dạy học về chủ
quyền biển, đảo Việt Nam. Vì hiện nay, nội dung chương trình liên quan đến
việc giáo dục chủ quyền biển, đảo trong sách giáo khoa ở nhà trường phổ thơng
cịn q ít nên đã gây khó khăn cho cả giáo viên và học sinh trong việc giảng
dạy và tìm hiểu. Trong khi đó một số tài liệu và thơng tin trên mạng khơng đảm
bảo tính khoa học, thiếu tính khách quan. Do vậy, việc xây dựng chương trình,
biên soạn sách giáo khoa có nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo là vấn đề
cấp thiết, không thể chậm trể hơn nữa. Bên cạnh đó, cũng cần phải có các nguồn
tài liệu hỗ trợ, cần đầu tư thêm phương tiện, thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy
học giúp cho giáo viên có thêm kiến thức, kĩ năng vận dụng linh hoạt các hình
thức, phương pháp dạy học phù hợp để đạt mục tiêu cũng như hiệu quả bài học
tốt nhất.
- Thứ ba, vấn đề quan niệm mơn chính, mơn phụ trong trường phổ thông đã
chi phối và ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc dạy học giáo dục quốc phịng an

ninh. Tâm lí đó đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều giáo viên, phụ huynh học sinh
dẫn đến những ứng xử lệch chuẩn làm cho môn giáo dục quốc phịng – an ninh
khơng được nhìn nhận và đánh giá đúng vị thế của nó. Nhiều học sinh vốn
khơng thích học giáo dục quốc phịng an ninh nên càng khơng hứng thú với các
nội dung cần sự tư duy, phân tích và vận dụng như nội dung về chủ quyền biển,
đảo. Nhất là thời lượng dành cho môn học này và nội dung cịn q ít. Vì vậy,
giáo viên càng khó khăn trong việc nâng cao chất lượng và phát huy ưu thế giáo
dục học sinh của môn học.
Học sinh là lực lượng trẻ, là người chủ tương lai của đất nước, là lực lượng
đi tiên phong trong các hoạt động thúc đẩy cộng đồng quan tâm và có trách
nhiệm đối với những vấn đề liên quan đến môi trường, phát huy tiềm năng và
19


bảo vệ chủ quyền biển, đảo của tổ quốc. Chúng ta cần quán triệt lập trường nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta là Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai
quần đảo Hoàng sa và Trường sa; chủ quyền đối với vùng nội thủy, lãnh hải;
quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa theo qui định của công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Chủ trương
của ta là giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hịa bình trên cơ
sở các ngun tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, luật pháp và thực
tiễn quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 và tuyên bố giữa
ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên ở Biển Đông ( DOC ) năm 2002.
Với lập trường và chủ trương đúng đắn đó, Việt Nam đã chủ động, tích cực triển
khai đồng bộ một loạt công tác nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ chủ
quyền và lợi ích của ta trên Biển Đơng.
Hiện nay, tình hình Biển Đơng có những diễn biến phức tạp, nhiệm vụ bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với cả hệ
thống chính trị, các ngành, các lực lượng, trong đó có thanh niên và học sinh.
Chúng ta phải biết phát huy vai trò và sức mạnh của lực lượng này nhất là trong

xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của tổ quốc. Thanh niên và học sinh có
vai trị xung kích trong mọi nhiệm vụ của đất nước, là một trong những lực
lượng đông đảo, mạnh mẽ và thể hiện được sức mạnh của đất nước. Hơn lúc nào
hết đây là lúc để lực lượng thanh niên và học sinh phát huy tinh thần dân tộc vào
công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước nhà. Bên cạnh việc bảo vệ chủ quyền,
thanh niên và học sinh cần phải tiếp tục gìn giữ và phát triển những tiềm năng
của biển đảo Việt Nam rồi đưa tiềm năng ấy vươn cao hơn, xa hơn nhằm cũng
cố vị trí của Việt Nam giữa các quốc gia trên thế giới để giúp đất nước ngày
càng đi lên trở thành một nước công nghiệp phát triển.
1.2.3.Nguyên nhân thực trạng nhận thức về biển, đảo của học sinh trường
THPT Đốc Binh Kiều tỉnh Tiền Giang
Từ thực trạng nhận thức về biển, đảo của học sinh trường THPT Đốc Binh
Kiều tỉnh Tiền Giang qua kết quả khảo sát xuất phát từ nhiều nguyên nhân như:
20


a) Đội ngũ giáo viên
Trường THPT Đốc Binh Kiều có 03 giáo viên giảng dạy mơn Giáo dục
quốc phịng - an ninh, mơn Lịch sử có 05 giáo viên trong đó có 03 cử nhân và 02
thạc sĩ, mơn địa lí có 04 giáo viên trong đó có 03 cử nhân và 01 thạc sĩ, mơn
Giáo dục cơng dân có 04 giáo viên có trình độ cử nhân, hoạt động ngồi giờ lên
lớp có 03 giáo viên đảm nhiệm. Trong đó, đội ngũ giáo viên giảng dạy mơn
Giáo dục quốc phịng - an ninh cịn trẻ nên chưa có nhiều kinh nghiệm giảng
dạy, việc tập huấn nâng cao nghiệp vụ chưa được sâu rộng nên chưa nâng cao
được chuyên môn.
Qua khảo sát 40 giáo viên thuộc các tổ của trường cho kết quả như sau:
Giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc nâng cao nhận thức về biển, đảo
Việt Nam cho học sinh .
Câu 1:
Mơn học Giáo dục quốc phịng – an ninh có vai trị như thế nào trong việc

nâng cao nhận thức của học sinh về biển, đảo Việt Nam cho học sinh THPT?
A.
B.
C.
D.

Rất quan trọng
Tương đối quan trọng
Bình thường
Khơng quan trọng

11/40
17/40
10/40
02/40

27.5%
42.5%
25%
5%

Câu 2:
Luật biển Việt Nam năm 2012 là một văn bản luật rất quan trọng ở nước
ta, thầy ( cơ ) có :
A.
B.
C.
D.

Biết

Biết và hiểu rõ
Chưa biết
Chưa nghe bao giờ

18/40
12/40
07/40
03/40

45%
30%
17.5%
7.5%

Chưa thấy rõ vai trị của mơn Giáo dục quốc phòng – an ninh đối với
việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh THPT. Có đến 25%
giáo viên cho rằng vai trị của mơn Giáo dục quốc phịng – an ninh là bình
thường và 27.5% cho rằng rất quan trọng. Qua đó cũng phản ánh sự quan tâm
21


của giáo viên đối với việc nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học
sinh THPT tại trường.
Mặt khác, các giáo viên cũng chưa nâng cao nhận thức của bản thân về
vấn đề trên, có đến 17.5% chưa biết và 7.5% chưa bao giờ nghe về luật biển Việt
Nam năm 2012. Bên cạnh đó, tâm lý mơn phụ đã ảnh hưởng đến tính tích cực
trong giảng dạy, tích cực trong học hỏi của giáo viên, thiếu sự đầu tư cho tiết
dạy nên các tiết học còn đơn điệu, khơng thu hút phát huy tính tích cực của học
sinh.
Sự phối hợp trong hoạt động tuyên truyền biển, đảo giữa các bộ môn của

các giáo viên chưa được thực hiện do sự chỉ đạo cũng như quan điểm riêng của
từng môn, ngại va chạm. Mặc dù giữa các môn đều có lồng ghép về chủ đề biển
đảo trong một số nội dung tiết học.
Tuy nhiên, giáo viên luôn nhận thức được vai trị to lớn của mình, mỗi
giáo viên đều khơng ngừng bồi dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp. Phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng là một trong những tiêu chuẩn của người giáo viên. Đối với giáo viên
giảng dạy mơn giáo dục quốc phịng – an ninh, điều này càng cần thiết bởi vì
ngồi truyền thụ kiến thức, cịn phải hình thành lý tưởng, chuẩn mực đạo đức
cho học sinh, tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
b) Nội dung, chương trình, phương pháp học Giáo dục quốc phịng-an
ninh
Chương trình, nội dung giáo dục quốc phòng – an ninh tại trường theo
phân phối chương trình của Bộ giáo dục và đào tạo qui định theo quyết định số
79/2007/QĐBGDĐT, ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
Với vị trí của mơn giáo dục quốc phịng – an ninh là một bộ phận của
nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phịng
tồn dân, an ninh nhân dân; là mơn học chính khóa trong chương trình giáo dục
của cấp trung học phổ thơng. Giáo dục quốc phịng an ninh góp phần giáo dục
22


tồn diện cho học sinh lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự
trân trọng đối với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, của
lực lượng vũ trang Việt Nam; luôn cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế
lực thù địch; có kĩ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp
xây dựng, cũng cố nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân. Tổ Giáo dục qốc
phịng – an ninh ln bám sát nội dung và chương trình của Bộ để xây dựng kế

hoạch cho cá nhân, cho tổ. Có thay đổi tuần tự các bài lý thuyết và thực hành
nhưng không ảnh hưởng đến nội dung chương trình cũng như tính lơgic của mơn
học. Do điều kiện vật chất còn hạn chế nên phải có sự thay đổi cho phù hợp với
cơ sở vật chất hiện có, chẳng hạn như súng tháo, lắp có ít và bãi ném lựu đạn có
một nên các lớp phải luân phiên nhau mới đủ sân tập.
Căn cứ nội dung, điều kiện thực tế của môn học và để đảm bảo thuận lợi
cho phân phối chương trình 1 tiết/ tuần trong 35 tuần thực học cho mỗi khối.
Mỗi tiết học chỉ 45 phút/ 1tiết / tuần, thời gian quá ít để lên lớp giúp học
sinh nhớ kiến thức và nâng cao nhận thức, với lượng kiến thức nhiều giáo viên
khơng có thời gian hướng dẫn, định hướng cho học sinh tìm hiểu những kiến
thức cơ bản. Muốn cho học sinh tìm hiểu sâu hơn về biển, đảo Việt Nam thì cần
có sự phối hợp với các mơn khác như lịch sử, địa lí, giáo dục cơng dân…Do
chưa có sự phối hợp nên công tác tuyên truyền về biển, đảo Việt Nam cũng chưa
phong phú, sinh động, chưa lôi cuốn đối với học sinh.
Để có được những nhận thức đúng đắn, định hướng đúng thì học sinh
cần nắm vững các kiến thức cơ bản, các khái niệm như đường cơ sở, nội thủy,
lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các quan điểm
của Đảng ta trong phát triển kinh tế biển….Từ đó các em có cơ sở để tìm hiểu về
lịch sử, trách nhiệm của thân trong bảo vệ biển, đảo của tổ quốc.
Câu 3:
Theo thầy (cô) để nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh
THPT có cần thiết phải lồng ghép nội dung này với các môn học khác hay
không?
23


A. Rất cần thiết
B. Cần thiết
C. Không cần thiết


27/40
13/40
00/40

67.5%
32.5%
0%

Với câu hỏi này thì đa số giáo viên (67.5%) cho rằng rất cần thiết lồng
ghép giữa các môn để giáo dục biển, đảo Việt Nam cho học sinh THPT. Qua đó
thấy rằng, thời lượng, nội dung của chương trình hiện tại của mơn Giáo dục
quốc phịng – an ninh chưa đáp ứng được yêu cầu của nâng cao nhận thức về
biển, đảo Việt Nam cho học sinh THPT. Cần lồng ghép với các mơn có liên quan
để làm phong phú hơn các hình thức, phương pháp nâng cao nhận thức cũng như
giúp cho học sinh nâng cao nhận thức từ nhiều góc độ. Các em có thể nhìn nhận
vấn đề từ lịch sử, địa lý... giúp cho các em hứng thú, tích cực hơn trong việc
nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam.
c) Cơ sở vật chất và tài liệu học tập phục vụ mơn Giáo dục quốc phịng –
an ninh
Trong những năm qua, Sở giáo dục và đào tạo cũng như nhà trường đã
trang bị, mua sắm nhiều dụng cụ, xây dựng cơ sở vật chất cho việc giảng dạy
mơn Giáo dục quốc phịng – an ninh cũng như phục vụ cho các hoạt động nâng
cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở vật chất phục vụ giảng
dạy vẫn còn thiếu.
Cơ sở vật chất của nhà trường chưa được đầu tư nhiều do đây là môn
mới, chủ yếu các trang bị là do Sở giáo dục và đào tạo Tiền Giang cấp như:
tranh, ảnh súng AK, súng AK mơ hình, bia, máy bắn tập, súng AK dùng tháo
lắp.
Nhà trường có thư viện đạt chuẩn quốc gia, tuy nhiên tài liệu phục vụ
giảng dạy và tham khảo cho mơn Giáo dục quốc phịng – an ninh cịn ít, nhiều

học sinh khơng có sách giáo khoa mơn Giáo dục quốc phịng – an ninh cho nên
việc tìm hiểu của giáo viên và học sinh còn hạn chế.
d) Học sinh, gia đình và xã hội trong việc phối hợp nhằm nâng cao nhận
thức về biển, đảo Việt Nam cho học sinh trường THPT Đốc Binh Kiều
24


Trường THPT Đốc Binh Kiều có bề dày truyền thống về học tập cũng
như các phong trào hoạt động trong thị xã cũng như trong toàn tỉnh. Học sinh
của trường ln ý thức được điều đó và ln cố gắng trong học tập cũng như các
hoạt động ngoại khóa. Là một trường trọng điểm của thị xã Cai Lậy luôn được
các cấp, ban ngành quan tâm chỉ đạo. Công tác giáo dục quốc phịng – an ninh
của nhà trường ln được Ban chỉ huy quân sự thị xã Cai Lậy quan tâm giúp đỡ,
có sự chỉ đạo sâu sát trong nâng cao nhận thức về biển, đảo Việt Nam cho học
sinh trên địa bàn. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, nội dung mới nên công tác phối
hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa được thống nhất, chặt chẽ.
Học sinh khi được học tại trường THPT Đốc Binh Kiều là niềm tự hào
của bản thân cũng như gia đình các em, chính vì thế các em và gia đình ln cố
gắng, tạo mọi điều kiện cho con em mình học tập. Nhưng khi các em và gia đình
q chú trọng đến học các mơn để đạt được kết quả cao trong các kì thi thì có sự
xao lãng đối với các mơn khác trong đó có mơn Giáo dục quốc phòng – an ninh
và vấn đề về biển, đảo của tổ quốc. Từ việc chọn khối thi, chọn lớp đã tạo cho
các em phân biệt “mơn chính”, “môn phụ”, lịch học thêm dày đặc làm cho các
em khơng có thời gian tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương. Phụ huynh
kỳ vọng nhiều ở kết quả học tập của các em để có kết quả thi cuối cấp đạt tốt
nhất. Đó là những vấn đề tác động đến học sinh làm cho học sinh chưa quan
tâm, chú trọng đến trách nhiệm của bản thân đối với việc nâng cao nhận thức về
biển, đảo Việt Nam. Kết quả là nhận thức của học sinh về biển, đảo còn nhiều
hạn chế. Các em chưa quan tâm, chú trọng và môi trường xung quanh cũng chưa
tạo cho các em hứng thú tích cực để tìm hiểu vấn đề.

Gia đình ln quan tâm đến việc học của học sinh nhưng vẫn cịn chú
trọng mơn này mơn kia. Gia đình chưa phối hợp được với xã hội, các đoàn thể
tại địa phương để giáo dục học sinh qua các hoạt động tại địa phương. Vẫn còn
quan điểm của các phụ huynh đó là lứa tuổi học sinh thì cịn nhỏ chỉ nên lo học
thơi cịn các hoạt động xã hội khác là không cần thiết, chưa tạo điều kiện cho
các em tham gia đầy đủ các phong trào của địa phương phát động để học sinh
nâng cao nhận thức bản thân từ các việc làm như bảo vệ môi trường, an toàn
25


×