1
Tư tưởng cơ bản của triết học phật giáo và ảnh hưởng của nó đến việt
nam
ấn Độ địa hình núi non trùng điệp vừa có nhiều sơng ngịi với những
vùng đồng bằng trù phú, có khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, lại có vùng lạnh giá
quanh năm tuyến phủ, có vùng xa mạc khơ cằn. Tính đa dạng, khắc nghiệt
của điều kiện tự nhiên đè nặng lên đời sống và in đậm nét trong tâm trí của
người ấn Độ. Chính tự nhiên đầy huyền bí và uy lực đã gây cho con người
biết bao hiểm hoạ khôn lường, con người cảm thấy mình nhỏ nhoi trước
những thế lực mạnh mẽ của tự nhiên. Từ đó, nảy sinh phong tục tập qn tín
ngưỡng tơn giáo, quan điểm, tư tưởng của người ấn Độ. ấn Độ là nước có lịch
sử lâu dài và một trong những trung tâm văn minh của thế giới cổ đại. Được
thể hiện ở nền văn minh sông ấn, đó là nền văn minh đồ đồng mang tính chất
đơ thị, nó xuất hiện vào khoảng 2500 trước cơng nguyên, khi đó đã có nhà
nước và chữ viết, sản xuất nơng nghiệp, thủ cơng nghiệp đạt tới trình độ cao.
Sự tồn tại sớm và kéo dài của mơ hình kinh tế - xã hội “công xã nông
thôn”. Mác coi kết cấu kinh tế-xã hội “công xã nông thôn” dựa trên chế độ
quốc hữu về rộng đất là chiếc chìa khố để hiểu tồn bộ lịch sử ấn Độ cổ đại.
Trên cơ sở đó của xã hội cổ, trung đại ấn Độ đã phân hoá, tồn tại dai dẳng 4
đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bràhman); Quý tộc; Bình dân tự do; Cùng đinh nô lệ.
Đứng đầu là đẳng cấp tăng lữ, lễ sư Balamơn; thứ hai là đẳng cấp q tộc bao
gồm vương công, tướng lĩnh, võ sĩ; thứ ba là đẳng cấp bình dân tự do gồm có
thương nhân, thợ thủ công và dân chúng của công xã; thứ tư là đẳng cấp cùng
đinh nơ lệ. Ngồi bốn đẳng cấp trên cịn có Paria. (người cùng khổ nhất) đẳng
cấp thấp khi ra đường phải báo hiệu, ăn mặc, mầu áo cũng phải khác.
ở ấn Độ có kho tàng tư tưởng dân gian phong phú, đồ sộ, được thể hiện
bộ kinh thánh vêda và các bộ sử thi. Nền văn minh sông ấn đã xuất hiện nhà
2
nước, đã xây dựng được thành phố, đã có chữ viết, biết sử dụng tiền để làm
vật thay đổi, kỹ thuật chế tác đồ trang sức đạt tới một trình độ khá tinh xảo.
Tư tưởng triết học ấn Độ được hình thành từ cuối thiên niên kỷ thứ II,
Đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt đầu từ thế giới quan huyền thoại,
tôn giáo. Những ý thức về triết học, những tư tưởng triết lý trừu tượng lý giải
về nguyên lý của vũ trụ, giải thích về bản chất đời sống tâm linh con người…
chỉ thực sự xuất hiện từ thời đại Upanishad (khoảng thế kỷ X đến thế kỷ VI
trước công nguyên). Triết học ấn Độ cổ, trung đại được chia thành hai trường
phái: Chính thống và khơng chính thống. Trong hai trường phái này có trường
phái triết học Phật giáo.
Phật giáo ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỷ I trước công nguyên ở
miền Bắc ấn Độ, người sáng lập ra trường phái này là Siddarta (Tất Đạt Đa)
hiệu là Buddha (phật). Phật giáo bênh vực, bảo vệ người nghèo, phản đối sự
ngự trị của đạo Balamôn, địi tự do tư tưởng, bình đẳng xã hội.
Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên nhìn
thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vơ thường, nên Ngài cương quyết xuất gia
tu hành, tìm đường giải thốt cho mình và cho người, ngõ hầu đưa tất cả
chúng sanh lên bờ giác ngộ.
Sau sáu năm tu khổ hạnh trên núi Tuyết, Ngài thấy tu khổ hạnh - ép xác
như vậy không thể đạt đến chân lý, nên Ngài đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc
cây Bồ đề và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương tan, ta
cũng quyết khơng đứng dậy chỗ này”. Với chí hùng dũng cương quyết ấy, sau
49 ngày tư duy, ngài thấu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh và chứng đạo
Bồ đề. Sau khi thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh, để chúng
sinh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt thời gian 49 năm, như một
vị lương y đại tài, xem bệnh cho thuốc, Ngài đã dắt dẫn chúng sinh lên đường
hạnh phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải thoát…Đến 80
3
mươi tuổi, Ngài nhập niết bàn ở thành Câu Thi Na, trong rừng Ta La.
Kinh điển triết học Phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận kinh, luật,
luận: Kinh được coi là ghi lại lời nói của Phật thuyết pháp; Luật, tức là giới
điều mà giáo đoán Phật phải tuân theo; Luận, là những tác phẩm luận giải
các vấn đề phật giáo của các học giả - cao tăng về sau. Phật giáo là một
trường phái triết học - tơn giáo điển hình thuộc trường phái triết học khơng
chính thống của ấn Độ cổ, trung đại. Đặc tính của Phật giáo là nhập thế,
triết học Phật giáo bao chứa những giá trị phổ biến, phù họp với con người
và đời sống xã hội, chính vì vậy mà nó ảnh hưởng rộng rãi lâu dài trên
phạm vi thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Cũng như các tơn giáo khác, Giáo lý Phật giáo đi vào lý giải, quan niệm
về vũ trụ, con người, khổ đau và con người sau khi chết. Đạo Phật tập trung lý
giải vũ trụ theo 5 luận thuyết cơ bản sau: “Vô tạo giả” vạn vật không do một
đấng thiêng liêng nào tạo ra mà do những phần tử vật chất nhỏ nhất- gọi là
bản thể, tương hợp tạo nên. Đây là tư tưởng duy vật thô sơ, cốt lõi thuyết
“bản thể luận” của đạo Phật; “Vơ ngã”: Thế giới hữu hình do nhiều yếu tố
hợp lại tạo nên vật thể, rồi lại tan ra thành vật mới. Vì vậy, khơng có cái tôi
siêu nhiên. Phật cho rằng con người do 5 yếu tố tạo nên, gọi là “ngũ uẩn”:
sắc, thụ, tưởng, hành, thức. “Sắc” có thực tướng, là con người; 4 yếu tố cịn
lại khơng có thực tướng, gọi là “danh”. “ Sắc” là phần vật chất; “danh” là
tinh thần bao gồm: thụ, tưởng, hành, thức; “Vô thường”: Mọi vật trong vũ trụ
đều biến đổi theo hai qui trình: “thành, trụ, hoại, khơng” (vật vơ hình) và
“sinh, trụ, dị, diệt” (vật hữu hình). Mọi vật đang tồn tại là quá trình đang
tiến tới cái khác nó. Do đó, trong “thành” có “khơng”; trong “sinh” có
“diệt”. Sự chuyển động và biến đổi của vạn pháp, của vũ trụ luôn diễn ra liên
tục - tạo ra động lực phát triển của vạn pháp; “Nhân duyên”: là cái chi phối
động lực phát triển, chuyển hoá của vạn vật. “Nhân” là mầm, “duyên” là điều
4
kiện. Mỗi vật chịu sự chi phối bởi một “nhân duyên” hoặc do nhiều qui luật
“nhân duyên” tạo thành. “Nhân” khơng tự có mà do “nhân dun” từ kiếp
trước để lại. Vạn vật phát triển chịu sự chi phối của hai qui luật “nhân duyên”
cơ bản đó là: “Nhân duyên tương tục vơ gia hạn” (nhân có nhiều dun);
“Nhân dun tương tục vô tạp loạn” (nhân nào duyên ấy). Trong vũ trụ hệ
thống “nhân duyên” là vô cùng, vô tận nó đóng vai trị quyết định tồn tại của
vạn vật; “Sắc không”: Phật quan niệm vạn pháp luôn tồn tại hai dạng “sắc”
và “khơng”. Vật ta nhìn thấy được gọi là “sắc”; vật khơng nhìn thấy được gọi
là “khơng”; trong “sắc” có “khơng”, trong “khơng” có “sắc”. “Sắc, sắc,
khơng, khơng” là câu cửa miệng của người tu hành. Từ luận thuyết “sắc
không”, phái Đại thừa nhấn mạnh “Không luận” Là chấp không; phái Tiểu
thừa coi trọng “hữu luận” gọi là chấp hữu.
Quan niệm về con người và con đường giải thốt cuộc đời: Phật cho
rằng con người khơng phải do thượng đế sinh ra mà là do một pháp (vật) đặc
biệt của vũ trụ được tạo thành bởi “ngũ uẩn” tồn tại (5 yếu tố tích tụ lại).
“Ngũ uẩn” gồm hai yếu tố: “sắc” và “danh”. Sắc là yếu tố vật chất, là cái có
thể cảm giác được, bao gồm: đất, lửa, nước và khơng khí. Danh là yếu tố tinh
thần, là cái tâm lý khơng hình chất mà chỉ có tên gọi, bao gồm: thụ, tưởng,
hành, thức. (Thụ là sự cảm thụ về khổ; Tưởng: là sự suy nghĩ, tưởng tượng;
Hành là ý muốn thúc đẩy hành động sáng tạo; Thức là sự nhận thức, phân
biệt đối tượng tâm lý, phân biệt ta là ta; Danh và sắc chỉ hội tụ với nhau trong
một khoảng thời gian ngắn, rồi lại chuyển sang trạng thái khác, do vậy khơng
có cái tơi, cái Ahman). Con người là pháp hữu hình tồn tại theo quy luật
“nhân duyên quả báo”, “sinh, trụ, dị, diệt”, thực chất là sự hợp giả của
“ngũ uẩn”, chịu chi phối của “nghiệp” và “kiếp luân hồi”. Như vậy, theo
Phật, con người tồn tại chỉ là giả tướng không có thật vơ ngã (khơng có cái
ta, cái tơi).
5
Về nhân sinh quan, Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của
Upanishad: mọi sự vật mất đi ở chỗ này, là để sinh ra ở chỗ khác, q trình
thác sinh ln hồi đó là do nghiệp chi phối theo luật nhân quả. Do vậy, phải
tìm ra con đường giải thốt, đưa chúng sinh ra khỏi vịng ln hồi đó. Để đi
tới sự giải thốt, Phật nêu lên “tứ diệu đế” đây là bốn chân lý vĩ đại mà mọi
người phải nhận thức được. Như vậy, nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo
tập trung ở bốn luận đề (tứ diệu đế) cụ thể sau.
Luận đề thứ nhất: “Khổ đế”, khổ đế là lý giải về nỗi khổ về con người,
nhà Phật cho rằng đời sống con người là bể khổ trầm luân. Nhà Phật đưa ra
tám nỗi khổ hay còn gọi là "bát khổ" bao gồm: sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly,
oán tăng hộ, sở cầu bất đắc, thụ ngũ uẩn. Con người do “ngũ uẩn” tạo nên
bao gồm: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Trong “ngũ uẩn” đã có xung khắc tạo
thành nỗi khổ. Phật cho rằng khổ đau của con người là vô tận: “Nước mắt
chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
Luận đề thứ hai: “Tập đế”, tập đế lý giải về nguyên nhân sinh ra nỗi
khổ. Nhà Phật cho rằng nguyên nhân của đau khổ chính là do dục vọng
khơng bao giờ ngi ngoai của con người. Vì ham sơng mà ln hồi sinh tử,
càng tham càng muốn, càng được càng tham…Trong kinh nhà Phật giải
thích nỗi đau khổ của con người bằng lý thuyết “thập nhị nhân duyên” tức
12 nguyên nhân, đó là: Vô minh (không sáng suốt nên thế giới là ảo, là giả
mà cứ là thực); Hành (ý muốn thúc đẩy hành động tao tác); Thức (nhận thức,
ý thức phân biệt cái tâm trong sáng cân bằng với cái tâm ô nhiễm mất cân
bằng); Danh - sắc (sắc là vật chất, danh là tinh thần. Sự hội tụ của các yếu tố
vật chất và tinh thần sẽ sinh ra các cơ quan cảm giác của con người (bao
gồm 6 cơ quan); Lục nhập (là quá trình thế giới xung quanh tác động vào
của các giác quan); Xúc (là sự tiếp súc của các giác quan với thế giới bên
ngoài); Thụ (là sự cảm thụ, nhận thức khi thế giới tác động vào giác quan);
6
ái (là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên
ngoài); Thủ (chiếm đoạt, giữ lấy cái mình ham muốn, u thích); Hữu (là sự
tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt); Sinh (là sự ra đời, sinh thành do
phải tồn tại); Lão tử (là q trình già và chết do có sự sinh thành). Trong 12
nguyên nhân của nỗi khổ thì “vô minh” được coi là quan trọng nhất, là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Luận đề thứ ba:“Diệt đế”, diệt đế tức là trừ bỏ hết nguyên nhân sinh ra
cái khổ, dập tắt dục vọng trong con người, loại bỏ vô minh để đạt tới sáng
suốt. Theo đạo Phật, để diệt trừ nổi khổ đến được “cõi niết bàn”, con người
phải diệt diệt dục, trí tuệ đạt tới bát nhã, (diệt vô minh). Khi diệt được “vô
minh”, mọi u mê được loại trừ, dục vọng bị ngăn chặn, con người thoát kiếp
luân hồi, thoát mọi khổ đau, chấm dứt mọi phiền não và phải tĩnh lặng.
Luận đề thứ tư: “Đạo đế”, đạo đế Theo Phật giáo, để trừ bỏ hết nguyên
nhân sinh ra cái khổ, dập tắt dục vọng trong con người, loại bỏ vô minh để đạt
tới sáng suốt phải có con đường và phương pháp. Con đường để diệt trừ nổi
khổ là tu đạo, hoàn thiện đạo đức cá nhân để giác ngộ chân lý của của Phật
giáo. Phương pháp để diệt trừ nổi khổ, gồm 8 phương pháp (bát chính đạo):
Chính kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân sinh); Chính tư duy (suy nghĩ đúng
đắn); Chính ngữ (lời nói phải đúng đắn); Chính nghiệp (phải có nghề nghiệp
chân chính, khơng được sát hại, trộm cướp, gây ra ốn nghiệp); Chính mệnh
(phải biết thiết chế dục vọng, chỉ giới, khơng được sát sinh, trộm cắp. nói dối,
tà dâm...); Chính tịnh tiến (phải hăng hái tích cực tìm kiếm, truyền bá giáo lý,
giáo phật); Chính niệm (phải thường xuyên ăn chay, niệm phật); Chính định
(tĩnh lặng, điềm đạm, tập trung tư tưởng suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô ngã, vơ
thường). Tám ngun tắc này có thể thâu tóm vào ba điều học tập và rèn
luyện là: Giới - Định - Tuệ, tức là giữ giới luật, thực hành thiền tịnh, khai
thơng trí tuệ bát nhã. Làm được như vậy, con người mới diệt trừ được vô
7
minh, siêu thốt lên được “niết bàn”, nơi hồn tồn tĩnh lặng, sáng suốt, thanh
cao, chấm dứt vòng luân hồi.
Quan niệm về “Niết bàn”: Niết bàn là nơi cư trú của con người khi
đang sống và khi đã chết, lúc đã chấm dứt được mọi dục vọng, khổ đau, kiếp
luân hồi. “Niết bàn” có nghĩa là làm dịu, dập tắt mọi đau khổ.
Giới luật là những quy định hướng dẫn người theo Phật phải giữ gìn,
kiêng kị về ăn, ở, sinh hoạt, đi lại, tu luyện…Phật giáo có hai giới luật quan
trọng: “ngũ giới” và “thập thiện”. “Ngũ giới” là năm điều cấm gồm: không
sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, khơng nói điều sai, khơng uống
rượu; “Thập thiện” gồm ba điều thiện về thân (không sát sinh, trộm cắp, tà
dâm); bốn điều thiện về khẩu (khơng nói dối, nói hai mặt, nói bịa đặt, nói ác
ý); ba điều thiện về ý (khơng sinh lịng tham lam, giận dữ, ý xấu).
Người tu hành ngoài giữ nghiêm “ngũ giới” và “thập thiện” cịn phải
theo 5 điều cấm sau: khơng trang điểm, dùng nước hoa; nằm giường có đệm
và giường đơi; xem ca hát và múa; giữ vàng bạc; ăn quá giờ quy định. Đối với
tầng lớp sư, đại đức trở lên phải theo giới luật nghiêm hơn (tăng 250 điều, ni
348 điều cấm), hàng tháng phải tụng giới 2 lần vào ngày 15 và ngày 29 hoặc
ngày 30 âm lịch. Hàng năm phải dự “mùa an cư kiết hạ” để tu học giáo lý và
giới luật.
Sau này Phật giáo phân chia thành các giáo phái khác nhau, nổi lên tiêu
biểu đó là phái đại thừa và tiểu thừa. Theo đại thừa, mọi người đều có thể giác
ngộ để đi đến niết bàn khơng chỉ bằng tự lực mà cịn bằng sự dẫn dắt của các
bậc đại giáo. Còn phái tiểu thừa chỉ lo tu dưỡng bản thân, một mình đến chỗ
giác ngộ bằng tự lực, không chú ý cứu độ người khác.
Từ giáo lý, giới luật và thực tiễn đời sống của những người theo đạo
Phật, chúng ta có thể nhận thấy được những nét cơ bản về giá trị và hạn chế
8
về con đường giải thoát cuộc đời như sau:
Những giá trị về con đường giải thoát cuộc đời: Bố cục của thuyết Tứ
diệu đế được xếp đặt một cách lơgíc, hợp lý, hợp tình. Ngày nay các nhà
nghiên cứu Phật học Đơng - Tây mỗi khi nói đến Tứ diệu đế ngoài cái nghĩa
lý sâu xa, nhận xét xác đáng, cịn tóm tắt tán - thán cái kiến trúc, cái bố cục,
cái thứ lớp của tồn bộ pháp mơn ấy: Trước tiên Phật chỉ cho con người ta
thấy được thảm cảnh hiện tại - đau ốm, già cả, bệnh tật..; thứ hai Phật chỉ cho
con người ta nguồn gốc, lý do sinh ra đau khổ; thứ ba Phật chỉ cho con người
thấy cái vui thú của sự hết khổ. Giai đoạn thứ ba này tương phản với giai đoạn
thứ nhất, làm cho con người nhận thức được thế nào là khổ, thế nào là vui
sướng và từ đó mới đi tìm cách giải thốt khổ đau. Thư tư Phật mới đưa ra
những phương pháp để thực hiện được cái vui đó. Đây là một lối trình bày rất
khơn khéo, đúng tâm lý vì: trước khi bảo người ta đi thì phải chỉ cho người ta
đi đâu đã chứ, phải nêu mục đích sẽ đến như thế, rồi để người ta suy xét, lựa
chọn có nên đi hay khơng. Nếu người ta nhận thấy mục đích ấy là cao quí, đẹp
đẽ khi ấy người ta mới nỗ lực, hăng hái để thực hiện mục đích ấy.
Những phương pháp trên con đường thực hành tu luyện là “Ngũ giới”
(năm điều răn) và “Lục độ” ( sáu phép tu)…Đây là những điều có giá trị đem
lại trật tự, an vui, hồ bình cho gia đình và xã hội; khun con người ta ln
ln làm những điều tốt lành cho bản thân, gia đình và đồn thể, tạo ra một xã
hội an bình. Chính vì lẽ đó mà đức Phật Thích Ca đã có lời di chúc khẩn thiết
trước khi nhập Niết bàn: “Sau khi ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kính
giới luật làm thầy; dầu cho ta cịn tại thế để dạy dỗ các người mấy ngàn đời đi
nữa, ta cũng khơng thêm điều nào ngồi giới luật” [Phật học phổ thông Thành hội PG TP HCM - 1992 - tr.82]
Quan niệm về vũ trụ, về con người, về mối liên hệ giữa con người với
9
tự nhiên và xã hội có những yếu tố duy vật, có tư tưởng biện chứng tự phát.
Ví dụ đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thỉ, nghĩa là khơng có điểm khởi đầu, và
mọi sự vật trong vũ trụ khơng thể đứng riêng một mình mà có được: trái lại
phải nương nhờ nhau mà thành. “Chư pháp tùng dun sinh”. Đạo Phật cịn là
tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất
cơng, địi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu nên ước vọng giải thoát con
người khỏi nỗi bi kịch của cuộc đời, khuyên con người ta sống đạo đức, từ bi
bác ái.
Những hạn chế trong con đường giải thoát cuộc đời. Trong luận thuyết
về nhân sinh và con đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo vẫn cịn hạn chế,
mang nặng tính bi quan, yếm thế về cuộc sống, chủ trương “xuất thế”, “siêu
thốt” có tính chất duy tâm, không tưởng về những vấn đề xã hội. Thủ tiêu
đấu tranh giai cấp, chấp nhận cuộc sống an bài bởi sự ràng buộc của chữ
“Nhẫn”. Kìm hãm sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội, đặc biệt là kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất vật chất. Vì những người xuất gia tu hành
họ không quan tâm đến vật chất cuộc đời hiện thực, việc tham gia vào quá
trình sản xuất vật chất cho xã hội hầu như khơng có gì - họ sống nhờ vào sự
hảo tâm, cơng đức, tài trợ…của tín đồ, của nhân.
ảnh hưởng của Phật giáo đối với lịch sử và con người Việt Nam.
Phật giáo là tôn giáo từ bên ngoài vào Việt Nam sớm nhất. Một số sử
sách ghi rằng, Phật giáo được truyền vào Việt Nam đầu tiên ở Luy Lâu (Bắc
Ninh) vào cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên. Phật giáo là một tôn giáo khơng
có sự chỉ đạo theo hệ thống quốc tế. Căn cứ vào phương pháp tu hành và
hướng truyền đạo đến Việt Nam người ta chia Phật Giáo thành hai phái lớn:
phái Bắc Tông (Đại thừa) và phái Nam Tông (Tiểu thừa). Từ hai phái chính
này về sau đã hình thành ra các hệ phái và tông phái khác nhau. Theo Quốc sử
10
thì đạo Phật vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ III. Trải qua quá trình thâm nhập
vào Việt Nam, đạo Phật dần đã được truyền bá rộng rãi vào xã hội Việt Nam
và thịnh đạt nhất là vào triều nhà Lý (1010 - 1225). Qua các triều đại Nhà
Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. Cùng với sự du nhập một số thành tựu văn hóa của
ấn Độ, Trung á, Trung Quốc, kinh Phật có những điểm tương thích với tâm
hồn người Việt Nam nên đạo Phật đã phát triển mạnh mẽ, được phần đông dân
số tin theo trở thành lực lượng tích cực của các triều đại trong chống giặc
ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Đến cuối thế kỷ XIII (triều đại Nhà Trần) đạo Phật bắt đầu có dấu hiệu
xa sút do coi nhẹ gốc đạo, coi nặng các hình thức cúng bái, mê tín, dị đoan,
tăng lữ xa dời dần các truyền thống của dân tộc. Các nhà Nho bắt đầu lên
tiếng phê phán đạo Phật. Đặc biệt đến triều Nhà Nguyễn (1802 - 1945) bọn tư
sản Pháp đã lợi dụng cuộc chiến tranh phản cách mạng của Nguyễn ánh để
can thiệp vào nước ta. Khi Gia Long lên ngôi đã “trả ơn” cho ngoại bang
bằng cách cho các giáo sĩ Pháp tự do truyền đạo Thiên Chúa giáo. Đây cũng
là thời kỳ bắt đầu lên ngôi của đạo Công giáo. Cuối thế kỷ XIX, thời kỳ
phong kiến bắt đầu tan rã, nước ta bị chủ nghĩa thực dân xâm lược, các dân
tộc Việt Nam rơi vào cảnh lầm than, đạo Phật thực sự suy yếu.
Từ những năm 1930 một số nhà tu hành đứng ra vận động các phong
trào “chấn hưng Phật giáo”, một bộ phận Phật giáo đã đi vào hoạt động có tổ
chức, một số cơ sở đào tạo Tăng ni lần lượt ra đời. Phong trào chấn hưng Phật
giáo kéo dài tới năm 1954. Giai đoạn này thực dân Pháp đã tìm mọi cách lơi
kéo, thao túng Phật giáo thực hiện âm mưu liên tôn làm chỗ dựa để chống phá
cách mạng Việt Nam. Nhưng trước hiểm họa mất nước, mất đạo, số đông
Tăng ni, Phật tử đã tụ hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo thành sức mạnh
chiến thắng thực dân Pháp.
11
Từ năm 1954 - 1875, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ
mặt trận Dân chủ Đông dương đến mặt trận Việt Minh, từ mặt trận Dân tộc
thống nhất đến mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam... đại đa số các tín đồ Phật giáo đã hịa đồng vào phong trào đấu
tranh của dân tộc. Sau Cách mạng Tháng tám, khắp nơi trong cả nước đã có các
hội Phật giáo cứu quốc nằm trong mặt trận Việt Minh từ cấp xã trở lên góp
phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước.
12
Sau năm 1954, Phật giáo Việt Nam bị phân hóa thành hai miền phát
triển không thống nhất với nhau. ở miền Bắc Phật giáo tiếp tục hòa đồng cùng
nhân dân góp sức xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Miền Nam nội bộ Phật
giáo bị chia rẽ thành nhiều hệ phái. Năm 1951, tại Huế mở Hội nghị Phật giáo
toàn miền Nam lập ra Tổng hội Phật giáo và viện Tăng thống. Năm 1956, tại
Sài Gòn mở “Hội nghị Phật giáo toàn quốc” bầu ra Ban quản trị Trung ương,
mở ba trường Phật học tại các chùa ấn Quang, Phước Hòa, Dược Sư, lập Hội
phật tử các giới... Sau chế độ Ngơ Đình Diệm bị lật đổ, sáu tập đoàn cũ của
Tổng hội Phật giáo Việt Nam cùng năm giáo phái khác đã thành lập “Hội Phật
giáo Việt Nam thống nhất”. Năm 1966, sau Đại hội Phật giáo hai phái “Việt
Nam Quốc tự” và phái “ấn quang” đã có sự chia rẽ sâu sắc. Đến tháng 5 năm
1970 đã nẩy ra xung đột giữa hai phái. Về sau phái “Việt Nam Quốc tự” dần
đi vào con đường phản động. Năm 1972 phái “ấn Quang” tiếp tục bị chia rẽ.
Thích Huyền Quang tách ra lập Viện Hóa Đạo Quảng Đức riêng. Từ đó, nội
bộ Phật giáo miền Nam bị chia thành ba loại: loại gắn bó với dân tộc, loại đi
theo cách mạng và loại cực đoan phản lại lợi ích dân tộc.
Từ năm 1975 đến nay, các hệ phái ở hai miền Nam Bắc tiến hành vận động
thống nhất Phật giáo hai miền. Ngày 7.11.1981 Đại hội thống nhất tổ chức Phật
giáo của Việt Nam là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” (GHPGVN) bao gồm: Hội
đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự ở trung ương. Hội đồng Chứng minh là cơ
quan lập pháp của Giáo hội, chăm lo thuần túy về mặt tôn giáo. Hội đồng Trị sự
Trung ương Giáo hội điều hành mọi hoạt động trong Giáo hội. Sau khi thống nhất
tổ chức GHPGVN đã tiến hành tổ chức phiên dịch xuất bản Đại tạng kinh bằng
tiếng Việt; xây dựng Viện nghiên cứu phật học và 25 trường Cơ bản phật học
trong cả nước. Hiện nay, GHPGVN có khoảng 36.512 tăng, ni. Trong đó Bắc
tơng: 21.606; Nam tông: 9.976; Khất sĩ: 2.354; Tỳ kheo: 11.161; Tỳ kheo ni:
7.817; Thức xoa: 2.143; Sadi: 7.956; Sadi ni: 3.164; Điệu chúng: 4.262. 14538
13
chùa trong đó có 392 ngơi chùa là di tích lịch sử cách mạng kháng chiến.
Như vậy, từ quá trình du nhập và phát triển đạo Phật ở Việt Nam, chúng
ta có thể nhận dạng được những nét nhân cách của con người Việt Nam mang
dấu ấn Phật giáo ở những đặc điểm sau đây:
Nếu như đặc điểm nổi bật trong đời sống tâm linh của người theo đạo
Phật là ln nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì cũng là kết
quả của một cái trước và là nguyên nhân của một cái sau. Họ nhìn thế giới,
xã hội và con người ở trong dòng vận động khơng ngừng, ở đó khơng có gì là
bất biến, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái này sang cái khác theo một quá
trình: với con người là: “sinh, lão, bệnh, tử”, với thế giới sinh vật là “sinh,
trụ, dị, diệt”, với vũ trụ là “thành, trụ, hoại, không”. Cịn con người Việt
Nam nói chung họ cũng tư duy, nhận thức được mối liên hệ nhân quả, họ tin
và sợ rằng nếu làm điều gì ác thì sẽ bị trời phạt; trong đời sống tâm linh,
người Việt vẫn tin là có linh hồn, có thần Phật và thần Phật thường giúp đỡ
con người thể hiện rõ trong việc đi cúng ở đình, ở chùa, cúng Thành hồng…
Hoặc khi gặp rủi ro trong cuộc sống về vật chất hay tinh thần họ đều tự an ủi
mình bằng các câu cửa miệng như: của đi thay người, trong hoạ có phúc, ai
giầu ba họ – ai khó ba đời…nó như một lời động viên và cũng là chấp nhận
theo qui luật. Vậy phải chăng lý thuyết nhân duyên sinh, vô thường, vô ngã
của nhà Phật đã chi phối ý nghĩa và hành động của con người Việt Nam.
Con người Phật giáo cho đời người là khổ, cuộc đời là bể khổ. Mỗi khi
gặp phải sự rủi ro, mất mát, chết chóc, mỗi khi gặp phải những sự việc không
đáp ứng được tâm lý và ước nguyện của mình, họ đều lấy đó làm nguồn an ủi.
Ngày nay người ta nói có khác đi, như nói con người khơng chỉ có khổ mà
cịn có sướng vui, có sự an lạc trong trần gian, có hồ bình, hạnh phúc nơi
dương thế. Theo Phật, muốn cho hết khổ thì phải diệt vơ minh cho trí tuệ bừng
14
sáng. Điều này trong tư duy người Việt được thể hiện tinh thần ham học hỏi,
cầu tiến bộ, cần cù, chịu khó để thốt khỏi nghèo nàn và lạc hậu- xây dựng
một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…
Có người nói Phật giáo là đạo vơ thần, Phật Thích ca là vị giảng sư chứ
không phải Chúa cứu thế. Vì vậy, họ cho rằng con người đến với đạo Phật là
để tìm đến một sự chỉ dẫn làm cho tinh thần sảng khoái, nhẹ nhõm. Nhưng với
đại đa số phật tử, đạo Phật vẫn là một tôn giáo, cần có sự cúng bái, cầu
nguyện, cần được Phật tổ ra tay cứu vớt. Mỗi khi bản thân hoặc gia đình có
việc hệ trọng, họ đều lên chùa hoặc vào niệm Phật đường để thỉnh cầu. Vào
những ngày rằm, những dịp lễ lạc, họ đều lên chùa lễ phật, cúng bái. Đối với
họ, Phật thích Ca được gọi là Phật hay ông Bụt, đều là hình tượng tiêu biểu
cho sự sáng suốt vơ biên, cho khả năng vơ hạn của lịng nhân từ và độ lượng,
của sự ban phúc và cứu vớt con người. ảnh hưởng của vấn đề này đối với
người Việt là sự thành tâm cúng bái tổ tiên, những người có cơng với dân, với
nước theo đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta từ bao đời nay. Hình
tượng ơng Bụt ln là biểu tượng tốt lành đối với người dân Việt Nam.
Lý tưởng của người phật tử là làm sao thốt khổ, làm sao có được sự bù
đắp hạnh phúc ở thế giới mai sau mà ở thế giới này không đạt được, và cao
nhất là được giải thốt khỏi vịng ln hồi nghiệp chướng, được lên thế giới
niết bàn, siêu sinh tịnh độ. Họ trì giới và tiền định là vì lẽ đó, họ tự giác và
giác tha cũng vì lẽ đó. Có thể nói Niết bàn giống như mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa cộng sản trong tương lai của người Việt Nam. Điều này có tác động
mạnh mẽ đến ý thức tự giác trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi của
mỗi chúng ta trong việc xây dựng quê hương đất nước theo con đường chủ
nghĩa xã hội.
15
Phật giáo vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ 2 (TCN), từ hai hướng:
Phía Bắc từ Trung Quốc sang, nơi truyền đạo đầu tiên ở phía Bắc là Chùa Dâu
– Bắc Ninh ngày nay. Phái được truyền vào nước ta từ phía Bắc gọi là Phật
giáo Tiểu Thừa; Phía Nam từ các nước Xiêm, Myanma sang, gọi là Phật giáo
Đại Thừa.
Phật giáo vào Việt Nam có mặt tích cực và tiêu cực: Mặt tích
cực, Phật giáo được du nhập vào Việt Nam cho đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển thăng trầm cùng với sự phát triển thăng trầm của lịch sử dân
tộc. Trong các thời: Đinh, Lê, Lý,Trần, Phật giáo được coi là quốc đạo, góp
phần khơng nhỏ vào việc bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền vững mạnh, giữ
vững độc lập dân tộc. Phật giáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực;
kinh tế, chính trị, văn học, giáo dục, khoa học, kiến trúc, hội hoạ...nhiều tác
phẩm văn học có giá trị, nhiều cơng trình kiến trúc độc đáo, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Tư tưởng, đạo đức của Phật giáo đã có tác dụng giáo dục đạo đức
chân, thiện cho con người, có ảnh hướng lớn đến đời sống tinh thần tư tưởng
của nhân dân; hình thức, lễ nghi của Phật giáo đã góp phần làm phong phú
thêm bẳn sắc văn hoá của dân tộc, trở thành một bộ phận sinh hoạt văn hoá
cộng đồng.
Phật giáo có cơng trong việc đào tạo tầng lớp trí thức, nhân tài cho dân
tộc. Trong đó có nhiều vị tăng thống, thiền sư, quốc sư có đức và có tài năng
giúp nước, an dân. Bản chất từ bi, hỷ xả ngày càng thấm sâu vào đời sống tinh
thần dân tộc, hướng nhân dân và tầng lớp vua quan vào con đường thiện
nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì dân, vì nước. Trong lịch sử Phật giáo của dân
tộc khơng ít những trí thức xuất than từ Phật giáo và do Phật giáo đào tạo. khi
người Hán đến đô hộ nước ta họ không chủ trương mở trường đào tạo tri thức
người Việt, mà chủ yếu đưa người hán sang làm quan cai trị. Cho nên đến
trước thế kỷ VII khơng thấy xuất hiện giai tầng trí thức Việt. Tầng lớp trí thức
16
Việt Nam đầu tiên là trí thức Phật giáo, chính Phật giáo đào tạo mang tính
chất nhà sư am hiểu nho giáo. Từ thế kỷ VII - VIII, tăng sư Việt Nam có
nhiều người rất uyên thâm về Phật giáo. Họ giỏi cả Phạn ngữ và Hán ngữ, đã
tham gia chú giải kinh Phật ở tại trung tâm Dâu. Tuy nhiên do chính sách nơ
dịch hà khắc và việc hạn chế đào tạo người Việt trở thành tri thức, chính
quyền đô hộ hán đường đã gián tiếp hun đúc cho các thiền sư Việt Nam về
một nền độc lập dân tộc. Đến thời kỳ Lý - Trần, tầng lớp tri thức Việt Nam
trong đó có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước có trình độ un bác và
có địa vị chính trị xã hội. Cũng chính Phật giáo đã đào tạo nên những nhà
chính trị kiệt xuất cho đất nước như Lý Công Uốn, Trần Thái Tông, Trần
Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Đây là, những bậc minh chủ, họ đã biết sử
dụng tiền năng của Phật giáo để phục vụ chính trị. Đồng thời họ là những
Phật tử chân chính, có ý nguyện phụng sự đạo Phật song song với phụng sự
quốc gia và triều đại của họ. Họ vừa lo việc triều chính, vừa học đạo, hành
thiền, đã biết kết hợp giữa giáo lý với đời sống xã hội. Những vị vua đó vừa
là nguyên thủ quốc gia đồng thời các ông cùng là nhà lãnh đạo tinh thần và
nhà đạo đức gương mẫu. Họ dùng đạo Phật để phục vụ chính trị, nhưng đó là
một nền chính trị nhân bản lấy con người làm trung tâm điểm. Đây là một
điểm cực kỳ tiến bộ so với những nhà lãnh đạo quốc gia trên thế giới lúc bấy
giờ.
Phật giáo đã đưa đến một nền kiến trúc chùa, tháp phong phú. Kiến trúc
là sản phẩm nhân tạo cho nên cũng chính là văn hố, chính sự phát triển của
kiến trúc đánh dấu bước tiến của văn minh. Khi Phật giáo du nhập vào nước
ta thì xuất hiện hai loại hình kiến trúc mới đó là chùa và tháp. Khi ngơi chùa
xuất hiện thì nó trở thành nơi quần tụ sinh hoạt văn hoá của dân làng. Nền
chùa cao thành ba bậc tượng trưng cho tam giới. Phật điện nhiều bậc cao dần
lên tượng trưng cho núi tu di, chùa Việt khơng hồn tồn giống như chùa
17
Trung Quốc. Kiến trúc của chùa Việt Nam có sự kế thừa nhưng vẫn mang
đậm nét dấu ấn dân tộc, rất phong phú đa dạng. Ngơi chùa Việt Nam cịn có
kiểu kiến trúc sinh thái hồ hợp cùng thiên nhiên như chùa Yên tử (Quảng
Ninh), Non nước (Ninh Bình). Phật điện trong chùa với những trang trí nghệ
thuật trên các chất liệu gỗ, đá, bí, khí tự…để lại những dấu ấn mỹ thuật đặc
thù. Kiến trúc tháp ở Việt Nam cũng cực kỳ phong phú, tháp bao thiên cao vời
vợi, tháp sùng thiện gắn với tấm bia về múa rối, chùa tháp Chương sơn mang
dấu ấn Chăm rõ rệt.
Phật giáo vào Việt nam mang đậm tính dân gian vơi tư tưởng từ bi, cứu
khổ, cứu nạn. tư tưởng từ bi cử Phật giáo thấm đậm trong tâm hồn người Việt,
từ người bình dân cho đến tri thức, thể hiện trong chuyện kể dân gian, bao giờ
Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu nạn cho con người. Ví dụ, trong chuyện
“Tấm cám”, mỗi lần Tấm bị hại, Phật lại hiện ra giúp Tấm, lúc là bụi trúc đào,
khi là quả thị chuyện kể thấm đẫm tinh thần cứu khổ, cứu nạn của Phật giáo
với hình ảnh ơng bụt (Phật) đại từ, đại bi, phổ độ chúng sinh. Phật giáo đã
thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát từ bi. Tính chất từ bi của nhà
Phật thấm sâu khơng nhưng trong các nghệ sĩ dân gian vô danh mà cịn đi sâu
vào lịng những người dân bình dị. Nhưng nó khơng cịn là Phật giáo với tư
cách là một tơn giáo ban đầu nữa, mà nó đã được bản địa hoá, tư tưởng từ bi,
cứu khổ, cứu nạn hướng thiện thấm sâu lan toả trong mỗi người dân. Chính vì
vậy, người Việt nam theo đạo Phật khơng phải vì những mục cao siêu mà theo
Phật với mục đích rất đời thường. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, loại trừ một bộ phận phản động, làm tay sai cho giặc, đại bộ phận tín
đồ, tăng ni, phật tử và các chức sắc của Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào sự
thắng lợi của cách mạng. Từ cuối thế kỷ thứ XIII cho đến nay, Phật giáo khơng
cịn là Quốc giáo nữa, nhưng những giá trị tư tưởng tích cực của nó vẫn cịn là
nhu cầu, sức mạnh tinh thần của nhân dân.
18
Như vậy, đóng góp của Phật giáo đối với lịch sử tư tưởng và văn hoá
dân tộc ta là rất q, nó bổ sung thêm cho tư tưởng Việt Nam nhiều thuộc tính
mới và khá niệm mới. Phật giáo khi xâm nhập vào nước ta đã đóng góp cho
nền văn hoá các dấu hiệu mới, làm tăng thêm sự phong phú đa dạng của nền
văn hoá nước nhà.
Mặt tiêu cực, Phật giáo cũng có những tác động tiêu cực đến xã hội và
con người Việt Nam. Phật giáo như một lý thuyết về sự giải thoát bể khổ nhân
gian, bằng cách đi vào tự ngã của cái tâm bên trong nhằm đến sự sáng xuốt tối
cao ở niết bàn. Nó ru ngủ con người, khuyên con người cam chịu, thủ tiêu đấu
tranh, tin vào số phận…chính tư tưởng “hồ đồng” của Phật giáo đã ảnh
hưởng đến ý chí, động cơ, nhu cầu của con người, khơng kích thích tính sáng
tạo của con người, khơng phát huy được năng lực trí tuệ trong con người. Do
vậy, khơng hồn thiện nhân cách con người một cách hồn thiện, trọn vẹn,
khơng động viên con người kịp thời trong quá trình sáng tạo ra gía trị vật chất
và giá trị tinh thần cho xã hội, gây sức ỳ trí tuệ cho xã hội. Nó khước từ
những ham muốn quý báu vốn có của con người, thủ tiêu sức sống hành động
của con người. Đánh giá về đạo Phật, Hồ Chí Minh đã chỉ ra “nếu có đức mà
khơng có tài ví như ơng bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì cho
lồi người”.
Hình thức, lễ nghi của Phật giáo phức tạp; nhiều nội dung mang tính hủ
tục lạc hậu, dễ bị lợi dụng và cải biến thành các hình thức mê tín, dị đoan;
Luôn bị địch lợi dụng và sử dụng trong quá trình xâm lược, thống trị Việt
Nam trong lịch sử, cũng như lợi dụng và sử dụng chống phá cách mạng hiện
nay. Cả hai mặt tích cực và tiêu cực đó khơng phải là chống đối nhau mà là làm
tiền đề cho nhau, có cái này thì mới có cái kia, rất khó có sự lựa chọn và gạt bỏ mà
không ảnh hưởng tới nhau.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng, khơng phải con người Phật giáo nào cũng có
19
đời sống tâm linh như trên. Đời sống tâm linh đó có sự khác biệt trong các
tơng phái, các vùng dân cư, các loại nghề nghiệp. Cũng là Phật giáo nhưng
người theo Thiền tơng thì chú trọng đến tính Phật trong con người, người theo
Tịnh độ tơng thì chú ý làm thiện để được lên chốn Niết bàn, còn người theo
Mật tơng thì chú ý đến bùa chú, cầu đảo, xin thẻ để đạt được ý nguyện. Cũng
là Phật giáo nhưng là người trí thức thì nặng về phần trí tuệ trong học thuyết,
người làm về bn bán thì nặng về tính thực dụng, vụ lợi, mê tín v.v…Mặt
khác, con người Việt Nam ngày nay nói chung và người theo đạo Phật nói
riêng là sản phẩm của nhiều hồn cảnh, nhiều học thuyết tư tưởng và tơn giáo.
Do đó đời sống tâm linh của họ là một tổng hợp phức tạp. ở đó có sự chi phối
của các học thuyết và tơn giáo, đồng thời cũng có sự chi phối của hệ tư tưởng
Mác - Lênin.
Tóm lại, Phật giáo đến với Việt Nam bằng con đường hồ bình, giáo lý
nhà Phật về từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn… gần gũi với tín ngưỡng, văn hố
truyền thống của cư dân Việt Nam nên dễ dàng được cư dân Việt Nam chấp
nhận. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Phật giáo cũng có những bước thăng trầm,
lúc thịnh, lúc suy và đã có những đóng góp đáng kể trong cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước, tư tưởng, văn hoá, đạo đức Phật giáo đã bén rễ sâu và trở
thành một bộ phận quan trọng trong tư tưởng, văn hoá, đạo đức, hành vi ứng xử
của người Việt Nam. Sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với nhân cách con người
Việt Nam được thể hiện ở khía cạnh sống có đạo đức, thuỷ chung, nhân nghĩa, vị
tha, biết đùm bọc thương yêu giúp đỡ lẫn nhau…Bởi vậy, cảm tình của nhiều
người Việt Nam hiện đại, kể cả người không phải là phật tử, đối với Phật giáo
vẫn sâu nặng hơn gần gũi hơn các tơn giáo khác. Chính lịch sử phát triển lâu dài,
luôn đồng hành cùng dân tộc, hịa đồng cùng lịch sử đấu tranh giải phóng đất
nước, xây dựng đất nước theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, văn hóa đạo
Phật lại có những tương đồng với văn hóa người Việt cho nên đã tạo ra được sự
20
ảnh hưởng, giao thoa, tác động qua lại lẫn nhau làm giàu thêm truyền thống
nhân từ, mong làm điều thiện, xa lánh điều ác của con người Việt Nam.