Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Biểu thức đa nghĩa trong hoạt động suy diễn trên cứ liệu chương trình truyền hình thực tế ơn giời cậu đây rồi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 175 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐOÀN CẢNH TUẤN

BIỂU THỨC ĐA NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG SUY DIỄN
(Trên cứ liệu chƣơng trình truyền hình thực tế
Ơn giời ! Cậu đây rồi)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐOÀN CẢNH TUẤN

BIỂU THỨC ĐA NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG SUY DIỄN
(Trên cứ liệu chƣơng trình truyền hình thực tế
Ơn giời ! Cậu đây rồi)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60220240

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thu Hoài


Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn đều thơng qua quá trình khảo sát kĩ
lƣỡng, tỉ mỉ, khách quan, khoa học. Kết quả nghiên cứu từ luận văn này một phần
đƣợc phát triển và mở rộng từ một nghiên cứu khoa học trƣớc đó của chúng tơi.
Học viên cao học

Đoàn Cảnh Tuấn


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này đƣợc hoàn thành dƣới sự chỉ dẫn tận tình của cơ Lê Thị Thu
Hồi và sự tham gia góp ý của các thầy cơ trong khoa Ngơn ngữ học. Em xin bày tỏ
lịng biết ơn chân thành nhất đến cô giáo hƣớng dẫn của em – TS. Lê Thị Thu Hoài
trong suốt thời gian qua đã khơng ngừng động viên, nhiệt tình giúp đỡ em trong
việc hoàn thành luận văn. Đồng thời, em cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy
cô trong Khoa Ngôn ngữ học đã tạo điều kiện cho em học tập và rèn luyện trong
suốt hai năm vừa qua để em có thể hồn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Học viên cao học

Đoàn Cảnh Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................5

2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................................................8
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và ý nghĩa luận văn .............................................9
6. Kết cấu luận văn ...................................................................................................10
NỘI DUNG ..............................................................................................................12
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ......................................................................12
1.1. Nghĩa, các cấp độ và bình diện trong nghiên cứu nghĩa ....................................12
1.2. Đa nghĩa và các nhân tố quy định nghĩa ............................................................15
1.3. Nghĩa tƣờng minh và nghĩa hàm ẩn ...................................................................24
1.4. Suy diễn ..............................................................................................................31
1.5. Hội thoại và lý thuyết hội thoại ..........................................................................36
1.6. Chƣơng trình truyền hình thực tế Ơn giời ! Cậu đây rồi...................................41
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM SUY DIỄN Ở CÁC BIỂU THỨC ĐA NGHĨA
(TRÊN CỨ LIỆU CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THỰC TẾ ƠN GIỜI !
CẬU ĐÂY RỒI ........................................................................................................43
2.1. Đặc điểm suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa là từ..............................................44
2.1.1. Tính liên tƣởng quy chụp ................................................................................44
2.1.2. Tính tiêu cực hóa thơng tin .............................................................................50
2.2. Đặc điểm suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa là ngữ ...........................................53
2.2.1. Tính phân rã ....................................................................................................53
2.2.2. Tính đồng nhất bản chất sự vật .......................................................................54
2.3. Đặc điểm suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa là phát ngơn .................................56
2.3.1. Tính tiêu cực hóa thơng tin .............................................................................56
2.3.2. Tính thiếu căn cứ .............................................................................................59

1


2.3.3. Tính mâu thuẫn trong thụ đắc .........................................................................61

2.3.4. Tính đồng nhất bản chất sự vật .......................................................................62
2.3.5. Tính có động cơ...............................................................................................64
2.4. Tiểu kết...............................................................................................................66
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC CẤU THÀNH SUY DIỄN Ở CÁC BIỂU
THỨC ĐA NGHĨA VÀ CHIẾN LƢỢC GIAO TIẾP TRONG HỘI THOẠI
((TRÊN CỨ LIỆU CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THỰC TẾ ƠN GIỜI !
CẬU ĐÂY RỒI) .......................................................................................................78
3.1. Phƣơng thức cấu thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa ................................79
3.1.1. Trực tiếp giới hạn ngữ cảnh có thể tạo sinh trong tƣ duy từ biểu thức X ......79
3.1.2. Gián tiếp giới hạn ngữ cảnh có thể tạo sinh trong tƣ duy từ biểu thức X ......81
3.2. Suy diễn và chiến lƣợc giao tiếp trong hội thoại ...............................................83
3.2.1. Chiến lƣợc chối bỏ hàm ngơn .........................................................................84
3.2.2. Chiến lƣợc định hình suy diễn từ các lẽ thƣờng .............................................85
3.3. Tiểu kết...............................................................................................................88
KẾT LUẬN ............................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................105
PHỤ LỤC

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Các từ viết tắt dƣới đây là tên các nghệ sĩ xuất hiện trong các tiểu phẩm:
1. TT – Trấn Thành
2. VT – Vân Trang
3. TL – Tự Long
4. HM – Hòa Minzy
5. HQ – Huỳnh Quý
6. QT – Quang Trung
7. TK – Trƣờng Khang

8. TG – Trƣờng Giang
9. GL – Gil Lê
10. TL – Tự Long
11. QA – Quân Anh
12. TTV – Trƣơng Thế Vinh
13. AT – Anh Tú
14. ThL – Thảo Ly
15. JP – Jun Phạm
16. LHT – Liêu Hà Trinh
17. HL – Huỳnh Lập
18. HT – Hữu Tín
19.VL – Việt Lƣu
20. XN – Xuân Nghị
21. TD – Thùy Dƣơng

3


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng phân loại đặc điểm suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa ....................66
Bảng 3.1: Bảng phân loại phƣơng thức cấu thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa ..... 89
DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 2.1: Đặc điểm suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa (%) .................................76
Biểu đồ 3.1: Phƣơng thức cấu thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa (%) .........101

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Giao tiếp là một nhu cầu của con ngƣời trong cuộc sống hàng ngày. Hai hình
thức giao tiếp phổ biến nhất thƣờng đƣợc dùng là giao tiếp trực tiếp qua lời nói, thƣ
từ, tin nhắn... hoặc gián tiếp qua cử chỉ, nét mặt, điệu bộ,... để truyền đi các thông
điệp mà cá nhân muốn gửi gắm tới ngƣời nghe, ngƣời đọc, thậm chí là ngƣời nhìn
hay ngƣời xem. Thơng thƣờng, con đƣờng chính để giao tiếp liên nhân phần lớn vẫn
nhờ ngôn ngữ bởi ngôn ngữ đƣợc xem là phƣơng tiện giao tiếp vào bậc nhất của
lồi ngƣời. Tuy nhiên, ta khơng thể phủ nhận một thực tế tồn tại là các chủ thể tham
gia vào giao tiếp vẫn thƣờng hiểu sai lệch các mục đích của nhau dẫn tới giao tiếp
thất bại. Ơng nói gà bà nói vịt, anh nói đơng chị nói tây chính là biểu hiện rõ rệt
nhất của hiện tƣợng suy diễn do hiểu sai nội dung mà đối tƣợng giao tiếp cùng mình
đang hƣớng tới. Trong những trƣờng hợp này, các biểu thức đa nghĩa đƣợc coi là
một trong các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến suy diễn.
Thực tế, nhƣ đã có dịp trình bày trong một cơng trình trƣớc đó của chúng tơi,
đa nghĩa là một trong những nhân tố hình thành nên quá trình trong tƣ duy của các
chủ thể giao tiếp và đƣợc hiện thực hóa thông qua các phát ngôn hay các câu ở
trong diễn ngơn. Tuy vậy, trong khn khổ một khóa luận hay một bài báo khoa
học, chúng tôi vẫn chƣa thể đào sâu và nghiên cứu một cách tỉ mỉ, kỹ lƣỡng vấn đề.
Chính vì thế, ở luận văn này, chúng tơi muốn tập trung đi vào khảo sát hiện tƣợng
suy diễn dƣới tác động của các yếu tố đa nghĩa – một trong những vấn đề chƣa thực
sự đƣợc giới nghiên cứu tập trung khai thác. Số lƣợng các cơng trình nghiên cứu về
suy diễn thực sự rất có hạn. Các nghiên cứu phần lớn chỉ mới đề cập đến một vài
khái niệm liên quan đến vấn đề nhƣ suy luận hay suy ý. Đối với đa nghĩa, mặc dù
các nghiên cứu đã có nhiều nhƣng lại đa phần bàn về hiện tƣợng đa nghĩa ở từ hay
đa nghĩa ở các phát ngôn mà chƣa khai thác đa nghĩa nhƣ một yếu tố vô cùng quan
trọng trong việc tạo nên quá trình suy diễn ở các cuộc hội thoại.
Khơng thể phủ nhận đƣợc sự phát triển đa dạng của hoạt động suy diễn trong
đời sống giao tiếp hàng ngày do tác nhân đa nghĩa gây nên. Vậy suy diễn ở các biểu

5



thức đa nghĩa có đặc điểm gì ?, nó đƣợc hình thành ra sao? sẽ là những vấn đề
chúng tơi tiến hành khảo cứu, phân tích ở luận văn này để từ đó, tiến đến xây dựng
một vài chiến lƣợc giao tiếp sơ khai nhất cho các đối tƣợng tham gia vào giao tiếp.
Đồng thời, hi vọng đề tài có thể đóng góp phần nào đó về mặt lý luận cho ngữ dụng
học nói riêng và ngơn ngữ học nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Nhƣ đã đề cập ở trên, số lƣợng các cơng trình nghiên cứu về hiện tƣợng suy
diễn khơng nhiều. Trƣớc đây, đã có một số nhà ngôn ngữ học đề cập đến suy diễn
nhƣng dƣới cái tên khác là suy ý nhƣ Hoàng Phê trong cuốn Logic – Ngôn ngữ học
(NXB Đà Nẵng, 2003). Tác giả cho rằng “suy ý là suy luận để biết đến cái ý của
ngƣời nói. Suy ý cũng vận dụng những quy tắc của suy luận logic, nhƣng đồng thời
nó cịn có một số quy tắc đặc trƣng của nó” [22, tr. 103] hay Bùi Thanh Quất trong
cuốn Giáo trình Logic hình thức (NXB Đại học Tổng hợp, 1994), dƣới góc nhìn của
logic học hình thức, ơng đã chia suy lý ra làm hai loại, đó là suy lý trực tiếp và suy
lý gián tiếp. Suy lý trực tiếp là “suy lý mà kết luận rút ra từ một tiền đề… Kết luận
trong suy lý trực tiếp thu đƣợc bằng cách biến đổi một phán đốn và suy lý trực tiếp
có ba phƣơng pháp: biến đổi, nghịch đảo và nghịch đảo phủ định” [23, tr. 128] còn
cái gọi là suy diễn, theo Bùi Thanh Quất là suy lý gián tiếp “phép suy diễn là một
suy lý gián tiếp mà tiền đề là hai phán đoán đơn” [23, tr. 130].
Giống nhƣ Bùi Thanh Quất, Nguyễn Đức Dân qua cuốn sách Nhập môn
Logic hình thức và logic phi hình thức (NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2005) cũng
nghiên cứu về suy diễn dƣới cái nhìn của một nhà logic học, ơng gọi nó là suy luận
diễn dịch trong đó suy diễn chính là phép suy luận hai tiền đề hay đó chính là hệ
thống suy diễn tiền đề cổ xƣa nhất : tam đoạn luận Aristotote [8, tr. 147]. Tuy
nhiên, Nguyễn Đức Dân còn đề cập đến một loại suy luận dựa theo dựa theo những
căn cứ khác nhau nhƣ dựa theo văn hóa của cộng đồng, dựa theo kinh nghiệm tâm
lý xã hội và cá nhân; những suy luận có thể đƣợc đúc kết từ những kinh nghiệm, tri
thức về thời tiết, về lao động sản xuất, … Đó là những suy luận quy nạp. Và cách


6


tiếp cận loại suy luận này cũng thông qua logic hình thức với hai dạng quy nạp hồn
tồn và khơng hồn tồn [8, tr. 173].
Nhìn chung, các tác giả đều có cùng quan điểm coi suy diễn là một loại suy
luận hay suy lý và đều xuất phát theo hƣớng tiếp cận của logic hình thức, tuy nhiên
cách tiếp cận đó diễn ra theo hai chiều: hoặc coi suy diễn là suy luận hay suy lý hai
tiền đề hoặc đồng nhất suy diễn với suy luận và cho rằng suy diễn cũng vận dụng
những quy tắc của suy luận logic nhƣng còn mang một số quy tắc đặc trƣng riêng
của nó. Một số tác giả khác cũng đề cập sơ bộ đến vấn đề này nhƣ George Yule và
Gillian Brown trong Phân tích diễn ngơn (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002), Đỗ
Hữu Châu với Ngôn ngữ học đại cƣơng - Ngữ dụng học (quyển 2) (Nxb Giáo dục
Việt Nam, 2007),…
Các cơng trình nghiên cứu về vấn đề đa nghĩa từ trƣớc tới nay cũng đã có
khá nhiều. Tuy nhiên, các nghiên cứu phần lớn tập trung vào hiện tƣợng đa nghĩa
của từ. Điển hình là các nghiên cứu từ vựng – ngữ nghĩa trong Từ vựng – ngữ nghĩa
tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu, Từ vựng học tiếng Việt của Nguyễn Thiện Giáp, Cơ sở
ngữ nghĩa học tiếng Việt của Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến,
... Cũng đã có một số luận văn, luận án nhƣ luận án Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng
Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại) của Đào Mạnh Toán hay luận án Nghiên cứu từ
đa nghĩa từ vựng trong tiếng Việt của Phan Thị Nguyệt Hoa, ... đề cập đến hiện tƣợng
đa nghĩa ở từ. Một số nghiên cứu về ngữ nghĩa – ngữ dụng cũng đề cập đến vấn đề
lƣỡng nghĩa ở các câu hay lời nhƣ Ngữ nghĩa học John Lyons, Logic – Ngôn ngữ học
của Hoàng Phê, Ngữ nghĩa lời hội thoại của Đỗ Thị Kim Liên, Đại cƣơng ngôn ngữ
học – Ngữ dụng học của Đỗ Hữu Châu, ... Tuy nhiên, chƣa có cơng trình nghiên cứu
nào đề cập đến mối liên hệ giữa suy diễn và các biểu thức đa nghĩa trong hoạt động
giao tiếp hàng ngày. Tiếp thu những quan điểm trƣớc đó của các tác giả về vấn đề có
liên quan và cũng để khảo cứu sâu hơn về nghiên cứu trƣớc đó của chúng tơi, chúng tơi
tiến hành khảo sát các suy diễn đƣợc hình thành từ các biểu thức đa nghĩa là từ, ngữ và

phát ngơn. Từ đó, nhìn nhận một cách đúng đắn hơn về tầm quan trọng của suy diễn
cũng nhƣ đa nghĩa trong việc xây dựng các chiến lƣợc giao tiếp trong hội thoại.

7


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn ở đây là hiện tƣợng suy diễn ở các biểu
thức đa nghĩa là từ, ngữ và phát ngôn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tơi có phạm vi giới hạn là 10 tiểu phẩm trong chƣơng
trình truyền hình thực tế Ơn giời cậu đây rồi mùa 4 năm 2017. Trên cơ sở phân tích
10 tiểu phẩm này, chúng tơi muốn chỉ ra đặc điểm của các suy diễn do nhân tố đa
nghĩa gây nên và phƣơng thức cấu thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa là từ,
ngữ và phát ngơn cũng nhƣ một vài chiến lƣợc có thể áp dụng trong hội thoại để
giao tiếp thành công.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thống kê: Dựa trên cứ liệu 10 tiểu phẩm nói trên, chúng tơi tiến hành thống
kê để tính tốn số lƣợng các biểu thức đa nghĩa là từ, ngữ và phát ngơn đã tạo nên
q trình suy diễn ở ngƣời nghe hay ngƣời nói; thống kê các đặc điểm suy diễn, các
phƣơng thức hình thành suy diễn từ các biểu thức đa nghĩa, qua đó lấy số liệu nhận
xét, đánh giá, tổng hợp.
Phân loại: Từ các biểu thức đa nghĩa đã thống kê đƣợc, đi vào phân loại các
đặc trƣng suy diễn và phƣơng thức cấu thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa đó.
Phân tích: Sau khi đã phân loại các biểu thức đa nghĩa là từ, là ngữ, là phát
ngơn có đặc điểm gì cũng nhƣ con đƣờng hình thành nên suy diễn ở các biểu thức
đa nghĩa ấy, chúng tơi tiến hành phân tích các ví dụ cụ thể để chứng minh tính chân
trị của các đặc điểm, các phƣơng thức hình thành suy diễn ở những biểu thức đa
nghĩa đã liệt kê.

So sánh, đối chiếu: Ngoài việc tạo dựng cơ sở khoa học chắc chắn cho nghiên
cứu, phƣơng pháp so sánh – đối chiếu đƣợc sử dụng trong nghiên cứu để chỉ ra những
đặc điểm giống và khác nhau ở các biểu thức đa nghĩa là từ, ngữ và phát ngôn.
Đánh giá, tổng hợp: Trên cơ sở sau khi đã thống kê, phân loại, phân tích các
dữ liệu, chúng tơi tiến hành đánh giá, tổng hợp để khẳng định lại đặc điểm của suy

8


diễn ở các biểu thức đa nghĩa, phƣơng thức gây suy diễn trong trong giao tiếp nói
riêng và đời sống thƣờng nhật nói chung. Đánh giá, nhận xét khơng những về vai
trò mà còn cả mối quan hệ chặt chẽ giữa suy diễn và đa nghĩa cùng với các nhân tố
ngữ cảnh, tâm lý xã hội cá nhân trong giao tiếp. Qua đó, khái quát hóa một số chiến
lƣợc giao tiếp ban đầu cho các đối tƣợng giao tiếp.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và ý nghĩa luận văn
5.1. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài, trƣớc hết, chúng tơi muốn cụ thể hóa đề tài
nghiên cứu trƣớc đó của chúng tơi về đối tƣợng. Đặt suy diễn dƣới con mắt của ngữ
nghĩa – ngữ dụng học, chúng tôi muốn chỉ ra các đặc điểm cũng nhƣ phƣơng thức
hình thành nên suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa. Tuy đa nghĩa chỉ là một trong
những tác nhân hình thành suy diễn nhƣng lại là tác nhân vô cùng quan trọng và
chiếm ƣu thế hơn cả. Việc nhìn nhận đa nghĩa nhƣ một cơng cụ gây suy diễn sẽ giúp
chúng ta xây dựng một chiến lƣợc giao tiếp thích hợp, hoặc giúp chủ thể dập tắt hội
thoại khi hội thoại đang đi vào bế tắc, nghĩa là hội thoại có chiều hƣớng tiêu cực
hoặc phát triển hội thoại theo động cơ mà cá nhân mong muốn khi cuộc thoại tiến
triển theo chiều hƣớng tích cực.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, tiến hành thống kê các biểu thức đa nghĩa là từ, ngữ và phát ngôn đã
tạo nên suy diễn để khảo sát và phân loại đặc điểm của suy diễn ở các biểu thức đó.

Thứ hai, sau khi đã thống kê, phân loại đặc điểm của suy diễn ở các biểu
thức đa nghĩa (từ, ngữ và phát ngơn), khái qt hóa phƣơng thức hình thành nên suy
diễn ở các biểu thức đa nghĩa này.
Cuối cùng, trên cơ sở các đặc điểm của suy diễn và các phƣơng thức cấu thành
suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa là từ, ngữ và phát ngôn đã khảo cứu đƣợc, tiến đến
xây dựng một vài chiến lƣợc giao tiếp sơ khai cho các chủ thể trong giao tiếp.
5.3. Ý nghĩa luận văn
Về lý thuyết, thông qua việc khảo sát và phân tích đặc điểm cũng nhƣ các
phƣơng thức hình thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa là từ, ngữ và phát ngôn,

9


luận văn phần nào đó giúp củng cố lý thuyết của ngữ nghĩa - ngữ dụng học nói riêng
và ngơn ngữ học nói chung.
Về thực tiễn, luận văn đóng góp một phần nhỏ trong việc chỉ ra các đặc trƣng
văn hóa và tƣ duy của ngƣời Việt. Có thể thấy, suy diễn nói chung và các suy diễn
đƣợc hình thành do đa nghĩa nói riêng có vai trị tối quan trọng trong việc làm đa
dạng các loại hình văn học nghệ thuật ở Việt Nam nhƣ đố vui, vè, ca dao,…cũng
nhƣ làm tăng yếu tố gây hài trong một số thể loại văn học nhƣ truyện cƣời hay các
bộ phim, chƣơng trình hài, .... Nghiên cứu về suy diễn trong hội thoại hay mối liên
hệ giữa suy diễn và nhân tố đa nghĩa cũng góp phần xây dựng tƣ duy- ngôn ngữ
logic, hạn chế những suy luận phi logic để đảm bảo các nguyên tắc hội thoại trong
giao tiếp. Bên cạnh đó, một số chiến lƣợc giao tiếp đƣợc rút ra qua q trình khảo
cứu đề tài có thể giúp các cá nhân vận dụng vào trong giao tiếp, khiến cuộc hội
thoại có hiệu quả hơn nhƣ đúng chủ đích của chủ thể giao tiếp.
Bên cạnh đó, suy diễn cũng có khả năng ứng dụng vào thực tế khá cao điển
hình là ứng dụng vào trong nghiên cứu kho dữ liệu ngôn ngữ tự nhiên, biên dịch,
phiên dịch, dựng hiện trƣờng và phá án trong ngành hình sự, ... hoặc các ứng dụng
trong khoa học tự nhiên nhƣ mơ hình động cơ suy diễn COKB trong toán học hay

trong lập trình tin học, ....
6. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu và phần kết luận, luận văn đƣợc bố cục thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
Ở chƣơng này, chúng tơi đề cập đến các khái niệm có liên quan đến đề tài
nhƣ nghĩa, các cấp độ và bình diện trong nghiên cứu nghĩa, đa nghĩa, biểu thức,
biểu thức ngôn ngữ, biểu thức đa nghĩa, chiến lƣợc giao tiếp, các nhân tố quy định
nghĩa, nghĩa tƣờng minh và nghĩa hàm ẩn, suy diễn, hội thoại và lý thuyết hội thoại
cũng nhƣ giới thiệu chƣơng trình truyền hình thực tế Ơn giời ! Cậu đây rồi để làm
cơ sở lý luận cho đề tài.

10


Chƣơng 2: Đặc điểm suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa
Trong chƣơng 2, chúng tôi tiến hành thống kê các biểu thức đa nghĩa tạo nên
suy diễn ở ngƣời nghe, phân loại đặc điểm suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa ấy. Sau
đó, phân tích các ví dụ điển hình để chứng minh và rút ra các nhận xét, đánh giá.
Chƣơng 3: Phƣơng thức cấu thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa và
chiến lƣợc giao tiếp trong hội thoại
Ở chƣơng này, chúng tôi đi đến khái quát hóa các phƣơng thức cấu thành suy
diễn và phân loại cụ thể phƣơng thức hình thành suy diễn ở các biểu thức đa nghĩa.
Qua đó, xây dựng một vài chiến lƣợc giao tiếp trong hội thoại giúp các đối tƣợng
giao tiếp có thể vận dụng trong cuộc sống hàng ngày.

11


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Nghĩa, các cấp độ và bình diện trong nghiên cứu nghĩa
Trong cuộc sống hàng ngày, ta vẫn bắt gặp các từ nghĩa, ý nghĩa. Nội dung
của những từ này thƣờng khó xác định. Phạm vi xem xét của nghĩa sẽ vô cùng rộng
lớn nếu ta xem xét đến cả nghĩa của một sự việc, một vấn đề. Ở đây, chúng tôi bàn
đến thuật ngữ nghĩa trong ngơn ngữ học. Về đại thể, đó là phạm vi mà ngôn ngữ
học quan tâm để trả lời cho câu hỏi: Từ có nghĩa là gì? Câu có nghĩa là gì? Nếu liệt
kê cho đầy đủ thì đó là: Các hình thức ngơn ngữ, các biểu thức ngơn ngữ, các văn
bản, các diễn ngơn,... có nghĩa là gì ?
Khi đề cập đến vấn đề nghĩa, theo John Lyons, có thể kể đến một số lý thuyết
dƣới đây:
- Thuyết quy chiếu hay sở thị (reference) (“nghĩa của một biểu thức chính là
đối tƣợng mà biểu thức đó chỉ ra (hay biểu thị) hoặc đại diện; tức “Fido” có nghĩa là
Fido, cịn “chó” thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là cái
đặc trƣng bản chất chung của chúng”).
- Thuyết ý niệm (ideation) hay tâm lí (mentality) (“nghĩa của một biểu thức
là cái ý niệm hay quan niệm, gắn với nó trong tƣ duy của những ai biết và hiểu đƣợc
cái biểu thức đó”).
- Thuyết hành vi (behaviour) (“nghĩa của một biểu thức hoặc là cái kích
thích gợi ra nó hay cái phản ứng mà nó gợi ra, hoặc là sự kết hợp của cả hai thứ này
trong một tình huống phát ngơn cụ thể”).
- Thuyết nghĩa là cách dùng (meaning-is-usage) (“nghĩa của một biểu thức
đƣợc xác đinh bởi, nếu khơng nói là đồng nhất với, cách dùng nó trong ngơn ngữ”).
- Thuyết thẩm định (verification) (“nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa
này đƣợc xác định bởi chứng cứ lấy từ câu hay mệnh đề chứa biểu thức đó”).
- Thuyết điều kiện chân trị (sincerity condition) (“nghĩa của một biểu thức
là sự đóng góp của nó vào điều kiện chân trị của câu chứa nó”).

12



John Lyons cho rằng mặc dù khơng có lý thuyết nào trong số kể trên tự mình
làm thành cơ sở cho một lý thuyết ngữ nghĩa học toàn diện và giàu sức giải thích
thực tiễn song mỗi lý thuyết nhƣ vậy đều có đóng góp theo cách nào đó làm thành
cái tri thức nền cho những ai đang nỗ lực xây dựng một lý thuyết nhƣ vậy.
Có thể thấy, trong ngữ nghĩa học hiện đại có nhiều khuynh hƣớng, nhiều
cách tiếp cận với các lý thuyết khác nhau. Tuy nhiên, để giải thích cho thứ nghĩa thể
hiện trong ngơn ngữ nhƣ một phức thể là không hề đơn giản. Theo Lê Quang
Thiêm, về mặt khoa học, thậm chí các thuật ngữ nghĩa, ý, ý nghĩa cũng cần phải
đƣợc phân biệt. Nếu nhƣ ý thuộc về ý nghĩ, tƣ duy của con ngƣời thì nghĩa sẽ tạm
đƣợc hiểu là nội dung của tín hiệu, của biểu thức ngơn ngữ, cịn ý nghĩa ở đây tạm
phân biệt với ý và nghĩa đó là giá trị, tác dụng của một cái gì đó.
Thứ quan niệm thích hợp và có sức lí giải hơn cả của ngôn ngữ học hiện đại
gắn với vấn đề nghĩa là quan niệm tín hiệu học, xem tín hiệu ngơn ngữ là một thực
thể tâm lý có tính hai mặt: cái biểu hiện (significant) và cái đƣợc biểu hiện
(signifié). Cái biểu hiện là hình thức của tín hiệu, là hình thức của các biểu thức
ngơn ngữ, cái đƣợc biểu hiện là nghĩa của hình thức tín hiệu, hình thức biểu thức
trong hệ thống và trong hoạt động, hành chức. Cái đƣợc biểu hiện của đơn vị, biểu
thức trong từ vựng thuộc bình diện nghĩa từ vựng, cái đƣợc biểu hiện của đơn vị,
biểu thức trong ngữ pháp thuộc bình diện nghĩa ngữ pháp. Cái đƣợc biểu hiện trong
ngữ dụng là nghĩa ngữ dụng. Nhƣ vậy, cũng có thể nói nghĩa tồn tại, hiện diện trong
các mặt, các cấp độ lớn nhỏ của ngôn ngữ. Thuộc mặt nào, cấp độ nào thì theo đó
mà xem xét, xác định.
Nghĩa thể hiện, gắn liền với hình thức biểu hiện nó. Nhƣ đã thấy, các biểu
thức, các hình thức ngơn ngữ cũng có nhiều dạng, loại. Chỉ nói đến đơn vị có nghĩa,
đơn vị mang nghĩa thì từ thấp đến cao: hình vị, từ, ngữ, câu, lời, văn bản, diễn ngôn.
Mỗi loại lại có rất nhiều các dạng, thể tồn tại. Cần khẳng định lại, nghĩa ngôn ngữ ở
đây là nghĩa của các biểu thức ngơn ngữ học. Thực chất, trong tốn học, biểu thức
là tập hợp các số hoặc các chữ nối vào nhau bằng các dấu toán học [15, tr. 148] hay
tƣơng tự, theo Nguyễn Văn Đạm, biểu thức là tập hợp các chữ và các số liên lạc với
nhau bằng những dấu của các phép tính đại số. Trong ngơn ngữ học, các biểu thức


13


ngơn ngữ là những đơn vị, những yếu tố, hình thức ngôn ngữ xét trên từng cấp độ
nhƣ từ, ngữ hay câu (phát ngôn). Mỗi một cấp độ này lại có thể chứa vơ vàn các
biểu thức khác nhau. Ở cấp độ từ, mỗi một từ đƣợc coi là một biểu thức, ở cấp độ
ngữ, mỗi một ngữ cũng đƣợc xem là một biểu thức và tƣơng tự ở các câu hay phát
ngơn cũng vậy. Do đó, xác định nghĩa ngôn ngữ về bản chất là xác định nghĩa của
các biểu thức ngơn ngữ. Chính xác hơn, nghĩa của các biểu thức ngôn ngữ là nghĩa
của các đơn vị, các hình thức có nghĩa, mang nghĩa. Việc phân giới đơn vị, hình
thức ngơn ngữ dĩ nhiên phải dựa vào sự phân chia các quan hệ bên trong của các
cấp độ, bình diện ngơn ngữ. Cấp độ đơn vị có nghĩa, mang nghĩa thấp nhất là hình
vị, kế tiếp là từ, ngữ, câu, ... Nếu nhƣ trƣớc đây ngƣời ta chỉ chú ý nghĩa từ vựng
phân biệt với nghĩa ngữ pháp thì ngày nay cần phân biệt thêm nữa với nghĩa ngữ
dụng. Nghiên cứu nghĩa hiện nay không chỉ chú ý nghĩa lịch đại và nhấn mạnh hơn
nghĩa đồng đại hoặc kết hợp biện chứng giữa chúng, không chỉ quan tâm nghĩa hệ
thống – cấu trúc mà chú ý hơn nghĩa trong hoạt động hành chức, không chỉ chú ý
nghĩa của ngơn ngữ mà cả nghĩa của lời nói (theo lƣỡng phân của Ferdianald de
Saussure), nghĩa ngữ năng và cả nghĩa ngữ thi (theo lƣỡng phân của Noam
Chomsky). Các nghiên cứu về nghĩa trong hoạt động, trong hành chức, nghĩa lời nói
hay phát ngơn trở thành hƣớng nghiên cứu đƣợc chú ý quan tâm nhiều hơn trƣớc.
Cũng theo Lê Quang Thiêm, việc xem xét nghĩa phải quán triệt trong các cấp
độ của cấu trúc – hệ thống ngôn ngữ cũng nhƣ hoạt động hành chức của chúng.
Toàn bộ hệ thống, cấu trúc ngôn ngữ và hoạt động lại bao gồm những bình diện lớn
nhỏ khác nhau mà việc nghiên cứu nghĩa phải tiến hành phân biệt và khảo sát, đặc
biệt là bình diện chức năng, bình diện hành chức, hoạt động, vận hành của ngơn
ngữ. Nói đến các cấp độ ngơn ngữ là nói đến cấu trúc hệ thống của ngơn ngữ. Cấu
trúc theo cách hiểu thông thƣờng là mạng lƣới các quan hệ liên hệ giữa các đơn vị,
yếu tố trong cùng cấp độ hệ thống. Cấu trúc đƣợc xây dựng dựa trên quan hệ đơn vị,

yếu tố này với đơn vị, yếu tố khác mà các đơn vị, yếu tố lại có cấu tạo nhất định.
Trong ngơn ngữ, một đơn vị phức tạp hơn (theo tôn ti) đƣợc cấu tạo từ đơn vị đơn
giản hơn. Ví dụ: âm vị (đơn vị có giá trị khu biệt nghĩa) cấu tạo nên hình vị (đơn vị
nhỏ nhất có nghĩa và có giá trị ngữ pháp). Đến lƣợt nó, hình vị cấu tạo nên từ, từ

14


cấu tạo nên ngữ đoạn, ngữ đoạn cấu tạo câu, câu – lời nói cấu tạo văn bản, diễn
ngơn. Đồng thời, khi nói đến đơn vị có nghĩa tức là nói đến quan hệ tƣơng liên, tức
tƣơng liên bình diện hình thức cái biểu hiện và bình diện nội dung cái đƣợc biểu
hiện và những vận dụng, sáng tạo chúng trong giao tiếp.
1.2. Đa nghĩa và các nhân tố quy định nghĩa
1.2.1. Đa nghĩa
Do có sự tồn tại các cấp độ và bình diện khác nhau trong các nghiên cứu về
nghĩa ngày nay nên để giải thích thuật ngữ đa nghĩa, các nhà nghiên cứu cũng cần
xuất phát từ một bình diện hay một cấp độ mà bàn luận. Xem xét nghĩa từ cấp độ từ,
Đỗ Hữu Châu cho rằng từ đa nghĩa là từ có hai nghĩa trở lên hay còn đƣợc gọi là
nhiều nghĩa “Từ trong trạng thái tự nhiên của nó, thƣờng gắn liền với nhiều thuộc
tính khái quát của đối tƣợng hay của hiện tƣợng làm cơ sở cho đa nghĩa tính của từ,
bởi vì một vài thuộc tính của sự vật này cũng là thuộc tính chung của một số sự vật
khác” [5, tr. 28]. Ông cũng cho rằng ý nghĩa của từ không phải là một khối khơng
phân hóa mà là một tập hợp một số thành phần nhất định. Tùy theo các chức năng
mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý nghĩa nhƣ: 1)
Ý nghĩa biểu vật tƣơng ứng với chức năng biểu vật; 2) Ý nghĩa biểu niệm ứng với
chức năng biểu niệm; 3) Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái. Ba thành
phần trên đƣợc gọi chung là ý nghĩa từ vựng. Nó đối lập với thành phần ý nghĩa thứ
tƣ là ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp. Theo ơng, hiện tƣợng đa nghĩa
(nhiều nghĩa) có thể xảy ra cả với ý nghĩa biểu vật, biểu niệm hay biểu thái. Đa
nghĩa (nhiều nghĩa) chính là kết quả của sự chuyển biến ý nghĩa của từ. Nguyễn

Thiện Giáp cũng có quan điểm tƣơng tự về hiện tƣợng đa nghĩa khi ông lƣỡng phân
ra các thành tố ngữ nghĩa: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở biểu, nghĩa sở dụng và nghĩa kết
cấu. Tác giả cho rằng hiện tƣợng đa nghĩa của tiếng Việt có hai kiểu. Đó là hiện
tƣợng đa nghĩa của các từ độc lập về nghĩa hoạt động tự do và hiện tƣợng đa nghĩa
của các từ độc lập về nghĩa hoạt động hạn chế. Cũng theo tác giả, hiện tƣợng đa
nghĩa của tiếng Việt chủ yếu xảy ra ở các từ. Các ngữ (các đơn vị từ vựng đa âm
tiết) cũng có hiện tƣợng nhiều nghĩa, song tỉ lệ rất thấp, chỉ có khoảng chƣa đến

15


1/10 các ngữ là có hiện tƣợng đa nghĩa. Thơng thƣờng, các ngữ cũng chỉ có khoảng
2-3 nghĩa. John Lyons lại cho rằng hiện tƣợng đa nghĩa (polysemy) có thể do một từ
vị có lƣỡng nghĩa: lƣỡng nghĩa từ vựng hay lƣỡng nghĩa ngữ pháp. Trong khi đồng
âm (bất luận là đồng âm hồn tồn hay khơng hồn tồn) là một mối quan hệ nằm
giữa hai hoặc hơn hai từ vị khác biệt nhau thì đa nghĩa hay nhiều nghĩa lại là đặc
trƣng của một từ vị đơn nhất. Và để phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa đồng âm và
đa nghĩa – vấn đề mà thậm chí ngƣời bản ngữ cũng sẽ do dự và khơng nhất trí với
nhau có lẽ phải viện đến hai tiêu chí: tiêu chí từ nguyên (lai nguyên lịch sử của từ)
và tính có liên hệ về nghĩa.
Nhìn nhận khái niệm nghĩa ở một góc độ rộng hơn, theo quan niệm của
Nguyễn Thiện Giáp, đa nghĩa là kết quả của các quá trình chuyển nghĩa mà thực
chất chuyển nghĩa lại là quá trình biểu trƣng hóa của tín hiệu, một q trình vốn có
nguồn gốc tâm lý của nó trong đời sống xã hội và đƣợc ghi lại một cách tế nhị, độc
đáo trong ngơn ngữ [11, tr. 176]. Nói cách khác, đa nghĩa là hiện tƣợng một cái
biểu đạt có hai hoặc hơn hai ý nghĩa liên hệ chặt chẽ với nhau. Thí dụ: từ bền có hai
nghĩa: 1) Có khả năng chịu đựng tác dụng của lực cơ học mà vẫn giữ nguyên trạng
thái, có thể giữ nguyên trạng thái đƣợc lâu (vải bền màu); 2) Có thể giữ nguyên
đƣợc lâu khơng biến đổi, khơng suy yếu, dù có tác động bất lợi từ bên ngồi (làm
trai chí ở cho bền). Hiện tƣợng đa nghĩa khác hiện tƣợng đồng âm ở chỗ ở hiện

tƣợng đa nghĩa những ý nghĩa khác nhau có quan hệ với nhau về nghĩa, tức là giữa
chúng có những nét nghĩa chung, trong khi đó ở hiện tƣợng đồng âm, chúng khơng
có gì chung cả [11, tr. 174].
Tuy nhiên, khái niệm đa nghĩa ở đây không chỉ dừng lại ở phạm vi từ vựng.
Nó cịn có thể là hiện tƣợng đa nghĩa ở các phát ngôn. Cũng giống nhƣ ở các biểu
thức là từ, một phát ngôn sẽ đƣợc coi là đa nghĩa khi phát ngơn đó có chứa từ hai ý
nghĩa trở lên. Theo Đỗ Hữu Châu, một phát ngơn ngồi cái ý nghĩa đƣợc nói ra trực
tiếp nhờ các yếu tố ngôn ngữ (âm, từ, kết cấu cú pháp...) cịn có rất nhiều ý nghĩa
khác nữa mà chúng ta phải dùng đến thao tác suy ý (inference) dựa vào ngữ cảnh,
ngôn cảnh, vào các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập luận, điều

16


khiển hội thoại... mới nắm bắt đƣợc. Ý nghĩa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem
lại đƣợc gọi là ý nghĩa tƣờng minh, có tác giả gọi là hiển ngơn, cịn đƣợc gọi là ý
nghĩa theo câu chữ của phát ngôn. Các ý nghĩa nhờ suy ý mới nắm bắt đƣợc gọi là ý
nghĩa hàm ẩn [4, tr. 359].
Đỗ Thị Kim Liên khi đề cập đến nghĩa của phát ngôn lại cho rằng về các
tầng nghĩa, phát ngôn thƣờng có các nhóm sau:
- Nghĩa tự thân (hay nghĩa tƣờng minh) là nghĩa tốt ra từ tồn bộ câu chữ
mà ngƣời nghe nhận thức đƣợc. Chẳng hạn khi nghe câu: Năm nay, Lan vừa trịn 26
tuổi -> thì ta hiểu ngƣời nói đến là cơ Lan, tuổi 26.
- Nghĩa hàm ngơn là nghĩa có đƣợc do suy ý, đó là nghĩa thực của phát ngôn
trong ngôn cảnh.
Năm nay, Lan trịn 26 tuổi rồi đấy -> Phát ngơn này mang nội dung hiển
nhiên. Lan 26 tuổi không thể chối cãi, vì vậy ngƣời nói nhằm một dụng ý khác, hàm
ngơn là Lan đã đến tuổi lấy chồng.
Trong một ngữ cảnh cụ thể, chủ nhà bỗng nhiên hỏi: “Bây giờ là mấy giờ rồi
nhỉ?” mà chẳng nhằm mục đích muốn biết về thời gian thì hàm ngơn là muốn đuổi

khách về.
- Nghĩa ánh xạ (hay còn gọi là nghĩa chức năng) là loại nghĩa có liên quan
chặt chẽ với nghĩa tự thân, đƣợc suy ra từ nghĩa tự thân những lại khơng phải nghĩa
tự thân. Nghĩa này cịn đƣợc gọi là nghĩa bóng.
Tiếng Anh: What is done by night, appears by day (Cái gì đƣợc làm bởi ban
đêm thì sẽ đến ban ngày).
Nghĩa ánh xạ: Gieo gió gặt bão
Tiếng Việt: Mẹ trịn con vng chứ ?
Nghĩa ánh xạ: Sinh nở sn sẻ phải không? [17, tr. 81]
Nhƣ vậy, hiện tƣợng đa nghĩa không những đƣợc bao hàm trong các biểu
thức là từ, ngữ mà cịn nằm trong cả các phát ngơn. Ở các đơn vị là từ hay ngữ, đa
nghĩa là kết quả của các quá trình chuyển nghĩa (thực chất chuyển nghĩa lại là q
trình biểu trƣng hóa của tín hiệu, một q trình vốn có nguồn gốc tâm lý của nó

17


trong đời sống xã hội và đƣợc ghi lại một cách tế nhị, độc đáo trong ngôn ngữ - theo
Nguyễn Thiện Giáp) hay nói khác đi, đa nghĩa ở từ và ngữ là khi từ hay ngữ đó có
từ hai ý nghĩa trở lên, các ý nghĩa này đều có nét nghĩa chung nào đó. Các ý nghĩa
này đơi khi khơng đƣợc cụ thể hóa trong các tài liệu chính quy nhƣ từ điển giải
thích bởi chúng là nghĩa trong sử dụng, trong hành chức, nghĩa ngữ cảnh (nghĩa lâm
thời) trong một số trƣờng hợp nhất định. Còn ở các biểu thức là phát ngơn, tình hình
sẽ phức tạp hơn khi đề cập đến vấn đề đa nghĩa. Vì khi xem xét một phát ngơn có
đa nghĩa hay khơng phải dựa vào nhiều yếu tố: các yếu tố kèm lời hay phi lời bên
cạnh nhân tố ngữ cảnh. Tƣơng tự nhƣ các biểu thức nhƣ từ hay ngữ, một phát ngơn
nếu có chứa từ hai nghĩa trở lên sẽ đƣợc coi là đa nghĩa. Ngoài ý nghĩa tƣờng minh,
một phát ngơn cịn có thể có nhiều ý nghĩa hàm ẩn. Trong nghĩa hàm ẩn lại chia ra
làm nghĩa tiền giả định và nghĩa hàm ngôn. Việc luận giải một biểu thức đa nghĩa
dẫu có là từ, ngữ hay phát ngơn yêu cầu ngƣời luận giải buộc phải sử dụng đến thao

tác suy ý. Tuy nhiên, quá trình suy ý hình thành trong tƣ duy của đối tƣợng thuyết
giải có thể đúng hoặc sai so với cái đích mà ngƣời nói hƣớng tới bởi phát ngơn nguồn
có nhiều nội dung ngầm ẩn khác nhau. Các suy ý đúng và đạt đến cái đích tại lời của
phát ngơn chính là các suy luận và ngƣợc lại, các suy ý hình thành trong tƣ duy của chủ
thể luận giải phát ngôn khi tiếp nhận một phát ngơn nào đó dù có đƣợc hiện thực hóa
thơng qua phản hồi của ngƣời đối thoại hay khơng nhƣng khi đã khơng có cơ sở khoa
học chắc chắn, thiếu căn cứ, cực đoan, có động cơ,... tức là không tuân theo quy luật
của suy luận logic đều đƣợc coi là các suy diễn.
1.2.2. Các nhân tố quy định nghĩa
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi đề cập tới nghĩa theo hƣớng xem
xét là nghĩa thể hiện trong hoạt động, hành chức. Nghĩa đƣợc bộc lộ ra trong q
trình tƣ duy – giao tiếp bằng ngơn ngữ. Nghĩa biểu hiện bằng hình thức ngơn ngữ
hiện diện trong văn cảnh, ngữ cảnh giao tiếp. Nghĩa cũng bộc lộ đặc trƣng văn hóa
tinh thần của ngƣời bản ngữ. Vậy những nhân tố nào quy định nghĩa?
Trong cơng trình Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Đỗ Hữu Châu khi phân tích
những bƣớc phát triển trong vận dụng tam giác nghĩa của G. Stern và một số tác giả

18


tiếp theo, đã bổ sung và nêu ra năm nhân tố quy định nghĩa và thứ tự ƣu tiên các
nhân tố đó, theo tác giả “lần lƣợt là sự vật hiện tƣợng, những hiểu biết của tƣ duy
(khái niệm), nhân tố ngƣời sử dụng (nhân tố lịch sử - xã hội), chức năng tín hiệu
học, cấu trúc ngơn ngữ”. Lê Quang Thiêm, xét từ góc độ của ngữ nghĩa học tri
nhận, cũng đồng ý với năm nhân tố quy định nghĩa trên nhƣng nhấn mạnh sự ƣu
tiên khác, vận dụng không chỉ cho từ mà cho biểu thức ngôn ngữ nói chung. Các
nhân tố đó lần lƣợt là: ngƣời nói (sử dụng và sáng tạo, sự tri nhận), chức năng tín
hiệu (nhân tố quan trọng nhất) và văn cảnh (ngữ cảnh) sử dụng tín hiệu và cuối
cùng là hệ thống ngơn ngữ [25, tr. 69].
Nhìn chung, dù đứng ở góc độ hay khía cạnh nào, cũng khơng thể phủ nhận vai

trị vơ cùng quan trọng của ngữ cảnh trong việc phân biệt nghĩa của các biểu thức ngơn
ngữ. Có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về ngữ cảnh. Trong tác phẩm “Language
and Context: A Functional linguistic theory register”, sau khi phân tích các quan điểm
của các tác giả nhƣ Halliday và Hasan, Lemke, Givon về ngữ cảnh, về vai trò, tác dụng
của ngữ cảnh trong việc xác định, tiếp nhận nghĩa của văn bản, L.T. Helen đã khẳng định
rằng ngữ cảnh là tất cả các điều kiện nằm trong và cả nằm ngồi ngơn ngữ cho phép tiếp
nhận, cho phép hiểu một phát ngôn cụ thể trong bối cảnh giao tiếp cụ thể. Theo Helen,
ngữ nghĩa của văn bản đƣợc xác định, đƣợc tạo nên bởi ngữ cảnh; nghĩa thật – nghĩa
thực tế (actual – occurrence meaning), nghĩa thông dụng (use – meaning), nghĩa văn bản
(text meaning) đều xác định chỉ ở trong ngữ cảnh. Tác giả đã tổng kết lại 3 mức độ ngữ
cảnh, đó là ngữ cảnh văn hố (Context of culture), ngữ cảnh tình huống (Context of
situation) và ngữ cảnh văn bản (Textual context). Ngữ cảnh văn bản lại bao gồm hai tiểu
loại, đó là ngữ cảnh liên văn bản (Textual-crossing context) và ngữ cảnh trong văn bản
(Intertextual context).
Cũng có ý kiến cho rằng, ngữ cảnh là bối cảnh ngơn ngữ mà ở đó sản phẩm
ngơn ngữ (văn bản) đƣợc tạo ra trong hoạt động giao tiếp, đồng thời là bối cảnh
cần dựa vào để lĩnh hội thấu đáo sản phẩm ngơn ngữ đó.
Trong đó, các nhân tố của ngữ cảnh bao gồm: nhân vật giao tiếp gồm tất cả
các nhân vật tham gia giao tiếp: ngƣời nói (viết), ngƣời nghe (đọc) với các mơ hình:

19


Một ngƣời nói - một ngƣời nghe: Song thoại.
Nhiều ngƣời nói luân phiên vai nhau: Hội thoại
Ngƣời nói và nghe đều có một "vai" nhất định, đều có đặc điểm khác nhau về
lứa tuổi, nghề nghiệp, cá tính, địa vị xã hội, ... Điều đó có ảnh hƣởng đến việc chi
phối, việc lĩnh hội lời nói.
Nhân tố thứ hai của ngữ cảnh là ngữ cảnh ngồi ngơn ngữ gồm có : Bối
cảnh giao tiếp rộng (còn gọi là bối cảnh văn hóa): Bối cảnh xã hội, lịch sử, địa lý,

phong tục tập qn, chính trị...ở bên ngồi ngơn ngữ ; bối cảnh giao tiếp hẹp (cịn
gọi là bối cảnh tình huống): Đó là thời gian, địa điểm cụ thể, tình huống cụ thể và
hiện thực đƣợc nói tới (gồm hiện thực bên ngoài và hiện thực bên trong của các
nhân vật giao tiếp): Gồm các sự kiện, biến cố, sự việc, hoạt động...diễn ra trong
thực tế và các trạng thái, tâm trạng, tình cảm của con ngƣời.
Văn cảnh là nhân tố còn lại: bao gồm tất cả các yếu tố ngơn ngữ cùng có
mặt trong văn bản, đi trƣớc hoặc sau một yếu tố ngơn ngữ nào đó. Văn cảnh có ở
dạng ngơn ngữ viết và ngơn ngữ nói. Ngữ cảnh có vai trị đặc biệt quan trọng trong
q trình tạo lập và lĩnh hội văn bản. Cụ thể:
Đối với ngƣời nói (viết) và q trình tạo lập văn bản: Ngữ cảnh là cơ sở cho
việc lựa chọn nội dung cách thức giao tiếp và phƣơng tiện ngôn ngữ (từ, ngữ, câu...)
Đối với ngƣời nghe (đọc) và quá trình lĩnh hội văn bản: Ngữ cảnh là căn cứ
để lĩnh hội, phân tích, đánh giá nội dung, hình thức của văn bản.
( Nguồn : )
Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu và Hồng Trọng Phiến trong Cơ sở
ngơn ngữ học và tiếng Việt thì khi dùng ngơn ngữ để giao tiếp, ngƣời ta thƣờng nói
ra những câu, những phát ngơn, chứ khơng phải là những từ rời rạc. Tại đó, các từ
kết hợp với nhau theo những quy tắc và chuẩn mực của ngôn ngữ. Cũng trong câu
hoặc phát ngôn cụ thể, ngƣời ta mới biết đƣợc rằng: Tại trƣờng hợp, hồn cảnh cụ
thể này, từ có nghĩa gì (tức là nó bộc lộ nghĩa nào trong số các nghĩa của nó).Ví dụ,
khi ta nghe thấy chỉ một từ "chắc" trong tiếng Việt thơi, thì khơng thể biết đƣợc
ngƣời nói muốn nói gì tới nghĩa nào đó của từ này. Thế nhƣng, từng nghĩa một của

20


từ "chắc" sẽ xuất hiện rất rõ ràng, nếu ta nghe thấy nó trong các phát ngơn, những
chuỗi từ đại loại nhƣ sau:
Lúa đã chắc hạt; Nhà xây rất chắc; Lời nói chắc nhƣ đinh đóng cột; Ơng
này chắc đã có con lớn; Anh làm thế, dễ ngƣời ta khơng biết đấy chắc;...

Từ đó, xây dựng định nghĩa về ngữ cảnh nhƣ sau:
Ngữ cảnh của một từ là chuỗi từ kết hợp với nó hoặc bao xung quanh nó, đủ
để làm cho nó đƣợc cụ thể hố và hồn tồn xác định về nghĩa.
(Định nghĩa này cho thấy rằng ngữ cảnh có thể tối thiểu là một từ, tối đa là
một chuỗi lớn hơn, có khả năng ứng với một câu, một phát ngôn,...) [6, tr. 178–182].
Gillian Brown và George Yule trong Phân tích diễn ngơn (Nxb ĐHQGHN,
2002) đặc biệt quan tâm đến ngữ cảnh tình huống (The context of situation). Không
chỉ luận giải các đặc điểm của ngữ cảnh tình huống và sự hỗ trợ của nó cho cách
hiểu theo dự định (giới hạn các cách hiểu có thể có đƣợc) khi trích dẫn quan điểm
của Hymes, 1962 theo Woolton, 1975 mà các tác giả cịn phân biệt ngơn cảnh trong
sự đối lập với ngữ cảnh (chỉ mang tính chất tƣơng đối trong thuật ngữ tiếng Việt) và
ngữ cảnh mở rộng (extending context). Ngôn cảnh (co-text) là môi trƣờng ngơn ngữ
trong đó từ ngữ xuất hiện và ngữ cảnh (context): mơi trƣờng vật chất trong đó từ
ngữ xuất hiện [2, tr. 79].
Lê Quang Thiêm trong Ngữ nghĩa học cũng thừa nhận vấn đề một lời có
nghĩa, có ý biểu hiện gì ln ln bị quy định bởi ngơn cảnh. Nếu nhƣ một câu –
câu hệ thống là phi ngôn cảnh mà ta vẫn xác định đƣợc nghĩa của nó thì ở lời, khả
năng này là khó xác định. Một lời luôn bị ngôn cảnh chi phối. Cùng một lời mà
nghĩa nghĩa, ý của lời nói ra có thể khác nhau đối với ngƣời nghe, ngƣời nói do
hồn cảnh quy định. Theo tác giả, nhân tố quy định nghĩa của đơn vị trên văn bản là
ngơn cảnh, cịn nhân tố quy định nghĩa, ý của lời là ngơn cảnh tình huống và trong
một số trƣờng hợp đặc biệt là ngôn cảnh văn hóa. Nói đến ngơn cảnh tình huống, có
thể dùng gọn hơn là ngôn cảnh (bối cảnh ngôn ngữ thể hiện lời nói) tức là nói đến
chủ thể hành động nói – ngƣời nói tạo lời truyền đạt đến ngƣời nghe với nội dung
muốn truyền đạt. Trong môi trƣờng độc thoại, ngƣời nói thực hiện hành động nói

21



×