Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh việt nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

DƯƠNG THỊ THU HÒA

CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT NHIẾP ẢNH VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội-2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

DƯƠNG THỊ THU HÒA

CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT NHIẾP ẢNH VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.03.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thu Nghĩa


Hà Nội-2014
2


MỤC LỤC
MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁI ĐẸP VÀ NGHỆ
THUẬT NHIẾP ẢNH ................................................................................... 12
1.1.

Quan niệm về cái đẹp trong lịch sử mỹ học...................................... 12

1.1.1. Quan niệm về cái đẹp trong tư tưởng các nhà mỹ học trước Mác ...... 12
1.1.2. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về cái đẹp ......................... 20
1.1.3. Quan niệm về cái đẹp và cái đẹp trong nghệ thuật của các nhà mỹ
học Việt Nam ............................................................................................... 27
1.2. Khái quát về nhiếp ảnh và nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam .......... 39
1.2.1. Một số nét khái quát về nghệ thuật nhiếp ảnh ................................ 39
1.2.2. Nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam ................................................... 48
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT
NHIẾP ẢNH VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI ........................................ 60
2.1. Những biểu hiện của cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam
thời kỳ đổi mới ............................................................................................... 60
2.2. Thực trạng sáng tạo, thưởng thức, đánh giá cái đẹp trong nghệ thuật
nhiếp ảnh ở Việt Nam hiện nay.................................................................... 82
2.2.1. Những thành tích đạt được của nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................... 83
2.2.2. Những hạn chế của nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam hiện nay .... 87
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng sáng tạo, thưởng thức,

đánh giá cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam hiện nay ......... 94
2.3.1. Giải pháp về chủ thể sáng tạo, thưởng thức, đánh giá. ................. 94
2.3.2. Giải pháp về quy định, chủ trương,chính sách của Đảng và Nhà
nước ta ....................................................................................................... 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cái đẹp là một hiện tượng thẩm mỹ giữ vị trí quan trọng trong nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội. Cái đẹp xuất hiện trong các mối quan hệ của con
người, nhất là các hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Cái đẹp là nhu cầu sống của
mỗi người, mỗi cộng đồng người, mỗi dân tộc, thời đại và cả nhân loại.
Trong các loại hình nghệ thuật: điêu khắc, âm nhạc, thơ ca, hội họa,
điện ảnh, sân khấu… thì nhiếp ảnh - nghệ thuật của cái nhìn và khoảnh khắc,
là một trong những hình thức trẻ trung và có sức lơi cuốn, rất phát triển ở
nhiều nơi trên thế giới. Nhiếp ảnh không chỉ giúp con người thể hiện các cảm
quan thẩm mỹ, trong quan sát, cảm nhận sâu sắc về cuộc sống xung quanh mà
còn là một nguồn động lực khơi gợi, phát triển những sung lực sáng tạo mới
mẻ, lưu giữ lâu dài những kỷ niệm về một thời khắc khó qn của lịch sử.
Nghệ thuật nhiếp ảnh đóng vai trị khá quan trọng trong nền văn hóa, góp
phần cởi mở những khả năng thẩm mỹ tiềm tàng của đời sống xã hội. Đây là
một loại hình nghệ thuật độc đáo, kết hợp được tính tài liệu với tính nghệ
thuật, tính chân thật lịch sử với những phút thăng hoa của mỹ cảm nói chung.
Trong q trình tồn tại và phát triển, nghệ thuật nhiếp ảnh đã trở thành
một trong những hình thức hoạt động mang tính quần chúng rộng rãi nhất. Nó
góp phần làm phong phú các hình thức tồn tại của cái đẹp và cùng góp phần

với các loại hình nghệ thuật khác đưa cái đẹp từ đời sống đến tâm hồn người
thưởng thức. Chính những điều này đã mang lại cho nghệ thuật nhiếp ảnh
những kết quả vô cùng quan trọng và cực kỳ phong phú, phản ánh những giá
trị đặc sắc của nền văn hóa, những cảm xúc dâng trào của nội tâm con người.
Nó mang tính tư tưởng và đặc biệt là tính thẩm mỹ cao.
Do hoạt động có hiệu quả, ngành nhiếp ảnh được Đảng, Nhà nước quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện cho nhiếp ảnh phát triển. Tuy nhiên, nghệ
thuật nhiếp ảnh Việt Nam hiện nay còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết.

4


Một là, vẫn cịn có những biểu hiện sai lệch trong thưởng thức, đánh
giá, sáng tạo cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh. Rất nhiều tác phẩm, cơng
trình nhiếp ảnh đạt giải ở quốc tế, trong nước, song chưa có sự thẩm định giá
trị thực của từng tác phẩm, từng cơng trình đã có, do đó, các tác phẩm
đó chưa thật sự đi vào cuộc sống của xã hội. Có sự ngộ nhận trong đánh giá
các tác phẩm, bởi có những Hội đồng chấm chưa hẳn là đủ năng lực thẩm
định toàn diện một tác phẩm mang ý nghĩa, giá trị. Có nhiều tác giả Việt Nam
đạt rất nhiều giải thưởng quốc tế, nhưng các tác phẩm đó chỉ nằm im trong bộ
sưu tập cá nhân và mau chóng bị lãng qn, đó cũng là một sự lãng phí chất
xám rất lớn.
Hai là, nạn đạo ảnh. Không hiếm hiện tượng vì lợi nhuận, danh vọng mà
một người mang một bức ảnh khơng phải của mình - có thể đã đạt giải ở một
cuộc thi nào đó - đem dự thi và thậm chí lại đoạt giải cao. Điều này khơng chỉ
thể hiện ý thức đạo đức cá nhân, sự chây lười trong sáng tạo nghệ thuật, mà còn
cho thấy năng lực của những người có nhiệm vụ đánh giá, thẩm định.
Ba là, do ảnh hưởng của tâm thức hậu hiện đại và cách nhìn lệch lạc,
khơng ít bức ảnh q đi sâu vào việc khai thác vẻ đẹp thể xác của con người
nhằm thỏa mãn những nhu cầu thẩm mỹ tầm thường. Chức năng của nghệ

thuật là giáo dục thẩm mỹ, đồng thời cịn có ý nghĩa phát hiện, hướng dẫn thị
hiếu về cái đẹp đối với người xem. Cùng với việc hội nhập quốc tế, các tác
phẩm nghệ thuật cũng có xu hướng hội nhập theo đó. Tuy nhiên, bên cạnh
những tác phẩm có giá trị thẩm mỹ thì cũng có khơng ít các tác phẩm độc
hại, thể hiện những thị hiếu thiếu lành mạnh. Theo dõi nghệ thuật nhiếp ảnh
trong những năm gần đây có thể thấy khơng hiếm những biểu hiện lệch chuẩn
về cái đẹp xuất hiện trong nghệ thuật nhiếp ảnh.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá
VIII về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Phương hướng chung của
sự nghiệp văn học nghệ thuật nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và

5


truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng
và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại,
làm cho văn hố Việt Nam thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội, vào từng
con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống
tinh thần cao đẹp, trình độ văn hố cao, khoa học phát triển phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội"[13, tr.54]. Nghệ thuật nhiếp ảnh cũng không nằm ngồi phương hướng
chung đó.
Từ những vấn đề mà ngành nhiếp ảnh đặt ra hiện nay, từ đường lối văn
hóa nghệ thuật của Đảng, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Cái đẹp trong nghệ
thuật nhiếp ảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhiếp ảnh là một bộ môn nghệ thuật xuất hiện muộn trên thế giới cũng
như ở Việt Nam. Tuy ra đời muộn nhưng bộ mơn nghệ thuật này đã phát triển
nhanh chóng và có tác động đến sự phát triển của nhiều nghệ thuật khác, tầm
ảnh hưởng của nghệ thuật nhiếp ảnh sâu rộng đến các lĩnh vực đời sống xã
hội. Với những tính năng ưu việt của mình, nhiếp ảnh dễ dàng được công
chúng yêu mến và hiện nay đã trở thành một bộ môn nghệ thuật mũi nhọn
trong đời sống xã hội.
Với đặc thù gắn nhiều với kỹ thuật máy móc, từ thời sơ khai mới ra
đời, nhiếp ảnh chưa được coi là nghệ thuật. Chỉ đến khi cùng với máy móc kỹ
thuật để cho ra được những bức ảnh đẹp, nhiếp ảnh mới dần trở thành môn
nghệ thuật thật sự. Mới vào Việt Nam được hơn một thế kỷ nhưng nhiếp ảnh
Việt Nam đã có nhiều thành tích đáng kể trong nước cũng như trên trường
quốc tế.

6


Trước đổi mới, chủ đề sáng tác của nhiếp ảnh Việt Nam phần lớn xoay
quanh chủ đề chiến tranh, người anh hùng. Sách về nhiếp ảnh chủ yếu là
những cuốn sách ảnh tập hợp lại các bức ảnh đẹp của thời kỳ hay khu vực nào
đó và một số sách về kỹ thuật chụp ảnh. Vào những năm 1980 - 1985, có một
số cán bộ được cử đi đào tạo cơ bản về nhiếp ảnh nghệ thuật và nhiếp ảnh báo
chí ở Cộng hịa dân chủ Đức và Liên Xơ cũ về nước có giới thiệu trên tạp chí
Nhiếp ảnh và trong một số bài giảng tại các lớp nhiếp ảnh trung cấp và đại
học ở Hà Nội về tính tài liệu và tính thẩm mỹ của ảnh, về các thể loại ảnh báo
chí cũng như các thể loại ảnh nghệ thuật. Đáng lưu ý trong thời kỳ này là
cuốn Mỹ học và ảnh nghệ thuật của M.X.Kagan (Liên Xô) do Nguyễn Huy
Hồng dịch, nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội,1980 trình bày khá sâu về những
vấn đề cơ bản của nhiếp ảnh. Trên cơ sở mỹ học Mác - Lênin, tác giả đã phân
tích mối quan hệ qua lại giữa mỹ học và nhiếp ảnh, phân tích các khía cạnh

của ảnh như tính tài liệu, tính khoa học, tính nghệ thuật, bản chất hình tượng
nhiếp ảnh. Cuốn sách cũng trình bày nội dung và hình thức trong các tác
phẩm ảnh, phương pháp sáng tác và cách diễn đạt, vị trí của ảnh trong nghệ
thuật tạo hình cũng như ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thẩm mỹ của ảnh nghệ
thuật. Cuốn sách này có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam
trong giai đoạn này. Tuy nhiên, ở thời điểm này chưa có một nghiên cứu nào
cụ thể về biểu hiện của cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam chỉ có
cuốn kỷ yếu hội thảo "Nghệ thuật nhiếp ảnh - cuộc sống, con người thời đại”
năm 1983 của Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tập hợp các bài viết của các
nhà nhiếp ảnh, các nhà nghiên cứu yêu quý bộ môn nghệ thuật này.
Từ sau năm 1986, nước ta bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc
tế, nhiếp ảnh Việt Nam càng phát triển hơn, cùng với nó là sự phát triển của
cơng tác lý luận phê bình nhiếp ảnh. Nghiên cứu nghệ thuật nhiếp ảnh Việt
Nam có thể kể đến Tạp chí Nhiếp ảnh của Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam,
tạp chí Ánh sáng đẹp của hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Thành phố Hồ Chí Minh, với
các bài viết về nghệ thuật nhiếp ảnh trên các số cùng việc đăng tải các bức

7


ảnh đẹp của các tác giả phát hành hàng tháng, cả các bài lý luận phê bình trên
trang điện tử của Hội cũng đề cập nhiều đến nhiếp ảnh Việt Nam và thế giới.
Với những đổi thay sâu sắc của chính sách đổi mới, nhiếp ảnh Việt
Nam có điều kiện để giao lưu và học hỏi những tiến bộ của nhiếp ảnh quốc tế.
Các nhà nhiếp ảnh nước ngồi khơng chỉ đến thăm Việt Nam mà còn bắt đầu
sống và làm việc ở đây. Các nhà nhiếp ảnh Việt Nam cũng bắt đầu sang
phương Tây. Điều kiện cho việc giao lưu, học hỏi kinh nghiệm cũng như củng
cố kiến thức về nhiếp ảnh được mở rộng. Các sách viết và dịch về nhiếp ảnh
phục vụ nghiên cứu, học tập được viết nhiều nhưng chủ yếu là sách về kỹ
thuật chụp ảnh, những sách đề cập đến nghiên cứu nhiếp ảnh dưới góc độ mỹ

học nghệ thuật có thể kể đến sách “Suy nghĩ về nhiếp ảnh” (1986) của Bectôn
Bailơ do Lê Phức dịch. Sách đề cập đến vẫn đề nghiên cứu lý luận nhiếp ảnh,
tầm quan trọng của nhiếp ảnh trong giáo dục thẩm mỹ, đặc điểm của quá trình
sáng tạo nhiếp ảnh và mối liên hệ giữa nhiếp ảnh và nghệ thuật tạo hình. Đây
là tài liệu có giá trị trong nghiên cứu nghệ thuật nhiếp ảnh dưới góc độ mỹ
học.
Viết về nhiếp ảnh Việt Nam có sách “Nhiếp ảnh và hiện thực: Nghiên
cứu - Tiểu luận”, nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1987 của Hội Nghệ sĩ nhiếp
ảnh Việt Nam viết về một số vấn đề về đặc trưng bản chất và chức năng của
nhiếp ảnh; Các bài nghiên cứu tiểu luận về nhiếp ảnh và hiện thực như: Nhiếp
ảnh và cái đẹp; tính dân tộc trong nhiếp ảnh,… Sách “Lịch sử nhiếp ảnh Việt
Nam”, nhà xuất bản Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội, 1993 do Lê Phức chủ biên,
trình bày lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam qua các q trình du nhập từ nước ngồi
vào, thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám, thời kỳ xây dựng nền nhiếp ảnh
dân tộc và cách mạng (1945-1954), trong cuộc chiến tranh giải phóng miền
Nam và thời kỳ thống nhất đất nước. Sách “Nhiếp ảnh - phê bình và tiểu
luận” của Lê Phức, nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, 2002 trình bày về nhiếp
ảnh Việt Nam trong quá trình lịch sử và trong đời sống văn hố văn nghệ dân
tộc và giới thiệu các tác phẩm nhiếp ảnh xuất sắc được giải thưởng trong và

8


ngoài nước. Đồng thời chỉ ra thực trạng của nhiếp ảnh Việt Nam trong tiến
trình hội nhập quốc tế, giao lưu văn hoá cũng như những thành tựu của nhiếp
ảnh báo chí, nhiếp ảnh nghệ thuật Việt Nam đạt được.
Bên cạnh các sách đã xuất bản về nhiếp ảnh, còn có nhiều bài viết về
nhiếp ảnh của các tác giả là nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhà phê bình lý luận về nhiếp
ảnh đăng trên các báo, tạp chí, nhất là các tạp chí, website về nhiếp ảnh như
Tạp chí Nhiếp ảnh của Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh của Cục Mỹ thuật Nhiếp ảnh và triển lãm. Tuy nhiên, cho đến nay

chưa có nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề biểu hiện của cái đẹp trong nghệ
thuật nhiếp ảnh Việt Nam trong thời kỳ đổi mới trên bình diện triết học, mỹ
học về nghệ thuật. Vì vậy, luận văn lần đầu tiên đi sâu nghiên cứu đề tài “Cái
đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới” từ góc độ mỹ học
dựa trên quan niệm mỹ học của chủ nghĩa Mác - Lênin và định hướng của
Đảng và Nhà nước ta về văn hóa nghệ thuật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là tìm hiểu, phân tích một cách khoa học những
biểu hiện của cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới
trên bình diện lý luận mỹ học mácxít.
Để thực hiện mục đích này, luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Trình bày và phân tích một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận về
cái đẹp. Trong đó, làm rõ quan niệm về cái đẹp trong lịch sử mỹ học, đặc biệt
là quan niệm về cái đẹp của C.Mác và Ph.Ăngghen.
- Trình bày khái quát về nhiếp ảnh và nghệ thuật nhiếp ảnh.
- Tìm hiểu, phân tích một cách khoa học những biểu hiện của của cái
đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- Phân tích thực trạng sáng tạo, thưởng thức, đánh giá cái đẹp trong
nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao khả năng sáng tạo, thưởng thức và đánh giá cái đẹp trong nghệ thuật
nhiếp ảnh ở Việt Nam hiện nay.

9


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp
ảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới qua các tác phẩm tiêu biểu.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về nghệ thuật nhiếp ảnh và
sự biểu hiện của cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam qua sách báo

bàn về cái đẹp của nghệ thuật nhiếp ảnh kết hợp với thực tế sáng tác trong
lĩnh vực nhiếp ảnh trong thời kỳ đổi mới qua những bức ảnh đã được giải
thưởng trong nước và quốc tế. Bình luận và đề xuất vấn đề xung quanh những
chủ đề về cái đẹp của nhiếp ảnh trong thời kỳ đổi mới có liên hệ với nền
nhiếp ảnh quốc tế hiện đại.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý mỹ học Mác - Lênin, các quan điểm
của Đảng và Nhà nước về văn hóa nghệ thuật. Đề tài cũng dựa trên thực tiễn
đời sống thẩm mỹ cũng như nghệ thuật nhiếp ảnh ở nước ta.
Luận văn sử dụng những phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh,
lơgic - lịch sử, khái quát hóa, …
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận, lần đầu tiên luận văn đi sâu nghiên cứu về biểu hiện
của cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới từ phương
diện mỹ học mácxít.
Luận văn đã phân tích được thực trạng thưởng thức, đánh giá, sáng tạo
cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam hiện nay và đề xuất được một
số giải pháp nâng cao khả năng sáng tạo, thưởng thức, đánh giá cái đẹp trong
nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thông qua những
phân tích của mỹ học mácxít.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần phân tích, chỉ ra những biểu hiện của cái đẹp trong
nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới, đồng thời, phân tích thực

10


trạng và đề xuất những giải pháp cho việc nâng cao khả năng sáng tạo, thưởng
thức, đánh giá cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh hiện tại và tương lai.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên
cao học ngành triết học, các sinh viên nghiên cứu về mỹ học, nghệ thuật học
của các trường nghệ thuật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 02 chương và 05 tiết.

11


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁI ĐẸP VÀ NGHỆ THUẬT
NHIẾP ẢNH
1.1.

Quan niệm về cái đẹp trong lịch sử mỹ học

1.1.1. Quan niệm về cái đẹp trong tư tưởng các nhà mỹ học trước Mác
Cái đẹp luôn là đề tài nghiên cứu muôn thuở của con người. Nhiều thế
kỷ trước đây và có lẽ nhiều thế kỷ mai sau, cái mà con người yêu quý nhất,
trân trọng nhất chính là cái đẹp. Hạnh phúc lớn nhất của mỗi người là được
sống với cái đẹp, được trở thành một người đẹp, được tôn vinh trong cộng
đồng như một biểu tượng của cái đẹp. Bởi, từ cá nhân đến các cộng đồng và
toàn nhân loại đều từng ngày từng giờ hướng tới cái đẹp. Cái đẹp đi vào mọi
lĩnh vực của cuộc sống. Dù tiếp cận, nghiên cứu cái đẹp ở khía cạnh nào thì
đây vẫn là một lĩnh vực quan trọng và vô cùng phong phú trong lĩnh vực thẩm
mỹ của đời sống xã hội.
Lịch sử mỹ học nhân loại đã nghiên cứu cái đẹp theo nhiều trường phái,
khuynh hướng khác nhau và đưa ra những quan niệm, cách tiếp cận về cái đẹp

riêng. Trong lịch sử mỹ học trước Mác, đã có nhiều nhà mỹ học nghiên cứu
về cái đẹp và khẳng định sự phong phú, vai trò của cái đẹp trong đời sống con
người. Theo cách giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của cái đẹp khác
nhau, có thể chia thành ba khuynh hướng chính.
Một là, khuynh hướng nghiên cứu cái đẹp chủ quan. Tiêu biểu cho
khuynh hướng này là Imanuen Cantơ (Imanuel Kant). Các tư tưởng về cái đẹp
chủ quan được Cantơ trình bày trong tác phẩm “Phê phán năng lực phán
đốn”. Ơng đã xây dựng hệ thống lý luận đồ sộ về tiếp cận cái đẹp từ lĩnh vực
chủ thể thẩm mỹ một cách đa dạng, phong phú. Theo I.Cantơ, khơng có khoa
học về cái đẹp, chỉ có phán đốn cá nhân về cái đẹp. Phán đốn về cái đẹp
khơng phải là phán đốn nhận thức mà là phán đoán thị hiếu. Đây là cơ sở lý
luận mỹ học quan trọng giải quyết một vấn đề rất cơ bản của cái đẹp trong
nghệ thuật nhiếp ảnh.
12


Theo Cantơ, cái đẹp khơng gắn liền với tính chất thực tiễn. Dù cái đẹp
có tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội nhưng nó chỉ tồn tại như các dạng vật
chất mà khơng phải là cái đẹp. Chỉ có hiện tượng nào đem lại những khoái
cảm và thỏa mãn những địi hỏi tinh thần mang tính chất chủ quan của cá
nhân mới có thể là hiện tượng đẹp. Nguồn gốc của cái đẹp thực sự không do
tác động của ngoại cảnh đem lại mà là do sự thích thú chủ quan của con người
tạo nên. Cái gì tơi thích thì cái ấy đẹp, bản chất của cái đẹp nằm ở tình cảm
chủ quan của con người.
Khi nghiên cứu về nguồn gốc và bản chất của cái đẹp, Cantơ đã chia
cái đẹp thành bốn phương diện để phù hợp với triết học chủ quan của ơng. Đó
là cái đẹp về chất lượng, cái đẹp về số lượng, cái đẹp về tương quan và cái
đẹp về hình thái. Cái đẹp về chất lượng là những gì làm cho ta thấy hài lịng,
vơ tư. Về mặt số lượng, cái gì làm cho nhiều người thích thú mà khơng cần
đến khái niệm thì là đẹp. Về mặt tương quan, cái hình thức mục đích mà

khơng hình dung đó là mục đích thì đó là đẹp. Về hình thái thì cái gì được
thừa nhận hài lịng mà khơng cần đến khái niệm thì đó là đẹp. Tất cả bốn
phương diện trên đều do chủ quan con người quyết định.
Cantơ cho rằng, cái đẹp là một phán đoán thẩm mỹ. Phán đoán thẩm
mỹ là phán đốn tình cảm, khác với phán đốn lơgic. Phán đốn thẩm mỹ là
phán đốn khơng những khơng có đối tượng mà cịn khơng vụ lợi ích trực
tiếp. Quan điểm này nhằm tránh rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm thẩm mỹ đơn
thuần và tìm cách khắc phục những khuyết điểm của nó, khắc phục chủ nghĩa
duy lý. Trước Cantơ, chủ nghĩa kinh nghiệm mỹ học đã có quan điểm cho
rằng, bất cứ một sự tác động của ngoại cảnh nào vào con người làm nảy sinh
tình cảm vui, buồn, hờn, giận, sung sướng hay căm ghét đều là tình cảm thẩm
mỹ, đều có quan hệ đến cái đẹp. Theo Cantơ, các khoái cảm mà thủ tiêu đối
tượng và nhờ đối tượng tác động vào hệ thần kinh thì khơng phải khối cảm
thẩm mỹ. Bản chất của khoái cảm thẩm mỹ là khoái cảm tự do.

13


Khoái cảm thẩm mỹ là khoái cảm gắn với thị hiếu của cá nhân, vô tư,
không đối tượng, không mục đích, khơng gắn với nhận thức. Cantơ phân biệt
cái tốt và cái đẹp, nhận biết khoái cảm đạo đức và khối cảm thẩm mỹ. Theo
ơng, tốt là cái gì nhờ vào lý tính làm hài lịng thơng qua những khái niệm đơn
thuần. Cantơ viết trong cuốn “Phê phán năng lực phán đốn”: “Để thấy cái
gì là tốt, lúc nào tơi cũng phải biết đối tượng ấy phải là một sự vật như thế
nào, tức là, có một khái niệm về nó. Cịn để thấy cái gì là đẹp, tơi khơng cần
điều ấy. Đóa hoa, tranh vẽ tự do, những đường nét đan nhau vơ tình, với tên
gọi là hoa văn chẳng có ý nghĩa gì, khơng phụ thuộc vào một khái niệm nhất
định nào, nhưng vẫn làm hài lòng”[33, tr.68].
Từ những quan điểm về mặt chất lượng của phán đoán thẩm mỹ trên,
Cantơ đã nghiên cứu cái đẹp về mặt số lượng, dựa trên cơ sở tính vơ tư,

khơng mục đích, khơng đối tượng, khơng khái niệm của cái đẹp về mặt chất
lượng.
Nếu phán đốn lơgic cần quan tâm tới đối tượng, cần có tri thức về đối
tượng, cần hiểu tính chất của đối tượng thì phán đốn thẩm mỹ chỉ quan tâm
đến cảm giác chủ quan, khoái cảm của chủ quan về đối tượng. Đó là một hoạt
động khối cảm về cái đẹp. Theo Cantơ, “Cái đẹp là cái gì được hình dung
như đối tượng của một sự hài lòng phổ biến, độc lập với mọi khái niệm”[33,
tr.75]. Tức là, khối cảm về cái đẹp vừa có tính chất cá thể, lại phải mang tính
phổ biến. Phán đốn thẩm mỹ là phán đốn chủ quan nên cái có thể mang tính
phổ biến khơng phải là tri thức về đối tượng mà là trạng thái xúc động tự do.
Khi phân tích phán đốn thẩm mỹ xét về mặt tương quan, Cantơ đã gắn
liền lôgic, đạo đức, thẩm mỹ trong “vẻ đẹp đơn thuần phụ thuộc”. Đó là cái đẹp
gắn liền mỹ cảm với nhận thức và đạo đức. Theo Cantơ, có hai vẻ đẹp là “vẻ
đẹp tự do” và “vẻ đẹp đơn thuần phụ thuộc”. Vẻ đẹp tự do không lấy khái niệm
phải như thế nào để làm tiền đề, gọi là những vẻ đẹp tự tồn cho mình của sự vật
này hay sự vật kia; vẻ đẹp đơn thuần phụ thuộc lấy khái niệm và tính hồn hảo

14


của đối tượng tương ứng với khái niệm ấy làm điều kiện tiên quyết, dành cho
những đối tượng phục tùng khái niệm về một mục đích nhất định.
Đẹp khơng mục đích nhưng vẫn phải phù hợp mục đích, đẹp khơng
khái niệm nhưng vẫn phải có khái niệm, đẹp khơng vụ lợi nhưng vẫn phải gắn
với lợi ích,… đó là cách giải quyết và khắc phục những thiếu sót của chủ
nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm trong lịch sử mỹ học cận đại.
Khi nghiên cứu mặt thứ tư của phán đốn thẩm mỹ - hình thái của phán
đốn thẩm mỹ, Cantơ đã giả định rằng mọi nhân thức đều có nguồn gốc tiên
nghiệm, phán đốn thẩm mỹ là một hình thức phán đốn được giả định có
“năng lực cảm giác chung”. Năng lực cảm giác chung là hình thái của phán

đốn thẩm mỹ. Nghiên cứu hình thái của phán đoán thẩm mỹ là ngiên cứu
mặt tự nhiên, của năng lực cảm giác chung. “Đẹp là cái gì được nhận thức
như là đối tượng của một sự hài lòng tất yếu, nhưng độc lập với khái
niệm”[33, tr.134].
Cantơ đã chia cái đẹp của nghệ thuật làm ba hình thái. Hình thái tự
nhiên là cái đẹp thấp nhất, ít mang ý nghĩa sáng tạo. Hình thái lao động là cái
đẹp có tính chất thủ cơng, gắn liền với vụ lợi ích kiếm tiền, đó là cái đẹp loại
hai. Cái đẹp của tự do, cái đẹp trời cho, tức là cái đẹp trò chơi là cái đẹp cao
nhất, gắn với tài năng và thiên tài. Trong tác phẩm Phê phán năng lực phán
đoán, Cantơ cho rằng, nghệ thuật thủ công được coi là nghệ thuật làm th đã
tạo nên sự khó chịu, cịn nghệ thuật trò chơi tạo ra sự bận rộn dễ chịu. Cái đẹp
của nghệ thuật trò chơi là khả năng tưởng tượng tự do của các thiên tài.
Cách tiếp cận cái đẹp của Cantơ đi sâu vào thế giới chủ quan, phân tích
tình cảm chủ quan về phương diện đẹp. Ông chỉ tìm hiểu nguồn gốc chủ quan
của cái đẹp, bản chất vô tư, không khái niệm của cái đẹp. Mỹ học Cantơ khi
đi tìm nguồn gốc và bản chất của cái đẹp đã tạo cầu nối giữa chủ nghĩa kinh
nghiệm và chủ nghĩa duy lý về nguồn gốc và bản chất của cái đẹp.
Hai là, khuynh hướng nghiên cứu cái đẹp từ linh cảm, trực giác, đại
diện là Ph.Hêghen (Georg Wilhelm Friedrich Hegel) trong tác phẩm “Mỹ

15


học”. Ông đã nghiên cứu cái đẹp, đặc biệt là cái đẹp trong nghệ thuật từ sự
vận động của ý niệm vào những quan hệ cụ thể trong đời sống. Ông đã nghiên
cứu sự vận động của ý niệm về cái đẹp trong các loại hình nghệ thuật từ kiến
trúc, điêu khắc đến âm nhạc, hội họa và thi ca. Tìm hiểu khuynh hướng này sẽ
làm sáng tỏ cái riêng và cái chung của cái đẹp trong các loại hình nghệ thuật.
Hêghen đã xuất phát từ những quan điểm trong hiện tượng luận tinh
thần để nghiên cứu về cái đẹp. Cái đẹp có nguồn gốc tinh thần và bản chất

của cái đẹp là thể hiện của ý niệm tuyệt đối. Ông thừa nhận có cái đẹp vật lý,
cái đẹp sinh học và cái đẹp tinh thần. Cái đẹp vật lý là cái đẹp đơn nhất và
nhất thời, cái đẹp sinh học là cái đẹp đang quá độ. Các cái đẹp này đều do tinh
thần sản sinh ra.
Hêghen trình bày về cái đẹp như sau: “Đời sống của vũ trụ là q trình
thực hiện của ý niệm tuyệt đối. Chỉ có vũ trụ trong tồn khoảng khơng gian và
trong q trình tồn tại của nó mới là sự thực hiện đầy đủ của ý niệm tuyệt đối,
còn trong một đối tượng nào đấy bị hạn chế trong những giới hạn của khơng
gian và thời gian thì ý niệm tuyệt đối khơng bao giờ được thực hiện đầy đủ
cả. Trong khi tự thực hiện, ý niệm tuyệt đối tự phân ra thành một loạt các
quan niệm nhất định và mỗi quan niệm nhất định lại cũng chỉ được thực hiện
đầy đủ trong mn hình vạn trạng các đối tượng hoặc các vật mà nó bao trùm,
nhưng nó khơng bao giờ được thực hiện trong một vật riêng lẻ.
… Nhìn nhận sự vật như thế chỉ là ảo ảnh (ist lin Shein) vì rằng ý niệm
không bao giờ biểu hiện một cách đầy đủ trong một đối tượng riêng lẻ; nhưng
dưới cái ảo ảnh ấy có ẩn náu chân lý, vì rằng ý niệm chung thực sự được thực
hiện đến một mức độ nào đó trong một ý niệm nhất định và một ý niệm nhất
định được thực hiện đến một mức độ nào đó trong một đối tượng riêng lẻ. Cái
ảo ảnh che dấu chân lý đó, cái ảo ảnh về sự biểu hiện đầy đủ của ý niệm trong
một vật riêng lẻ đó là cái đẹp (das schơne)”[46, tr.17 - 18].
Đây cũng là quan niệm chung của chủ nghĩa duy tâm khách quan khi
nghiên cứu về cái đẹp. Hêghen khẳng định, ý niệm vận động đến tuyệt đối thì

16


sản sinh ra cái đẹp, cái đẹp của nghệ thuật là ý niệm được thể hiện trong hình
tượng. Cái đẹp của nghệ thuật là biểu hiện đầy đủ của ý niệm chung trong một
hiện tượng cá biệt. Cái đẹp của nghệ thuật là sự biểu hiện của tinh thần tuyệt
đối trong hình tượng. Ơng cho rằng “Cái đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái đẹp

trong tự nhiên. Đối tượng của mỹ học là vương quốc rộng lớn của cái
đẹp”[16, tr.11].
Như vậy, Hêghen coi cái đẹp của tự nhiên là không đầy đủ và ông chỉ
quan tâm nghiên cứu cái đẹp trong nghệ thuật. Theo ông, cái đẹp nghệ thuật
nảy sinh hai lần từ tinh thần. Tinh thần và những sản phẩm của tinh thần càng
cao hơn tự nhiên bao nhiêu thì cái đẹp của nghệ thuật cao hơn cái đẹp tự
nhiên bấy nhiêu.
Trong sách “Mỹ học”, Hêghen đã nghiên cứu về nguồn gốc và bản chất
của cái đẹp nói chung cũng như cái đẹp trong nghệ thuật từ ý niệm. Cái đẹp
và cái chân thực là một, bởi tự thân cái đẹp đã là chân thực. Cái đẹp bao giờ
cũng là một khái niệm thống nhất trong nó lý tưởng khách quan vô hạn.
Đối với Hêghen, nguồn gốc của cái đẹp chính là tinh thần, bản chất của
cái đẹp là khái niệm được quan niệm như một thể thống nhất trực tiếp của
khái niệm được thể hiện trong tính cảm quan. Hêghen nghiên cứu các phương
diện khác nhau của cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp của các hình thức trừu
tượng, tính đều đặn, sự phù hợp tính quy luật, sự hài hòa, cái đẹp lý tưởng, cái
đẹp trong nghệ thuật. Từ quan niệm cái đẹp có nguồn gốc từ ý niệm gắn với
lý tưởng mà Hêghen giải thích bản chất của cái đẹp trong nghệ thuật.
Hêghen nghiên cứu cái đẹp của nghệ thuật theo quan điểm lịch sử do
ông tự vạch ra cùng với các giai đoạn vận động của tinh thần tuyệt đối, tạo ra
các loại hình nghệ thuật khác nhau. Vào thời phương Đông cổ đại, tinh thần
tuyệt đối tạo nên cái đẹp của nghệ thuật tượng trưng, mà đặc điểm loại hình
của nó là nghệ thuật kiến trúc. Ở thời Hy Lạp, La Mã, tinh thần tuyệt đối tạo
nên cái đẹp cổ điển mà mẫu mực vĩnh cửu của nó là nghệ thuật điêu khắc. Sau

17


thời cổ điển, tinh thần tuyệt đối tạo nên những cái đẹp lãng mạn của nghệ
thuật âm nhạc Ý, hội họa Hà Lan và thơ ca Đức.

Ba là, khuynh hướng coi cái đẹp của nghệ thuật đồng nhất với việc bắt
chước và tái hiện cuộc sống. Đó là các quan niệm về cái đẹp có độ, có tỷ lệ,
cái đẹp là cái thật, cái tốt, cái đúng trong lý luận của Arixtốt, Điđrô, Bớccơ và
đặc biệt là quan niệm về cái đẹp của Tsénưsépxki (Nikolay Gavrilovich
Chernyshevsky) trong luận án tiến sĩ “Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật với
hiện thực”. Ông coi cái đẹp có nguồn gốc từ cuộc sống và bản chất của cái
đẹp là cuộc sống theo quan niệm của con người. Cái đẹp phải gắn với sự
phong phú của cuộc sống, cơ sở của cái đẹp nằm trong chính bản thân hiện
thực.
Khi phê phán Hêghen, Tsécnưsépxki cho rằng, quan niệm cái đẹp là ý
niệm dưới một hình thức biểu hiện có hạn, cái đẹp là một đối tượng cảm tính
riêng lẻ, biểu hiện thuần túy của ý niệm trừu tượng là sự phù hợp hoàn toàn
giữa ý niệm và hình tượng của Hêghen là hồn tồn sai lầm. Trong mỹ học
Hêghen, tư duy phát triển càng cao thì cái đẹp càng biến mất, và cuối cùng chỉ
cịn lại cái chân thực chứ khơng cịn cái đẹp. Quan niệm đó của Hêghen làm
hạn chế phạm vi thể hiện của cái đẹp, tách nguồn gốc, bản chất của cái đẹp ra
khỏi cuộc sống phong phú.
Theo Tsécnưsépxki, sự phát triển của tư duy con người không hề thủ
tiêu mỹ cảm. Cái đẹp phải gắn với sự phong phú của cuộc sống: “Cái đẹp là
cuộc sống. Một thực thể đẹp là một thực thể trong đó ta nhìn thấy cuộc sống
đúng như quan niệm của chúng ta. Một đối tượng đẹp là đối tượng trong đó
cuộc sống được thể hiện hay là nhắc ta nghĩ đến cuộc sống”[46, tr.23]. Đối
với Tsécnưsépxki, cuộc sống lao động đẹp hơn cuộc sống an nhàn. Ông
khẳng định rằng, những người nông dân má đỏ, da hồng hào thì đẹp hơn các
cơ thiếu nữ thị thành ẻo lả.
Khi con người coi những sự vật, hiện tượng nào đó là đẹp thì đó khơng
phải xuất phát từ ý niệm mà dựa trên quan hệ của sự vật và hiện tượng đó đối

18



với cuộc sống con người một cách trực tiếp hay gián tiếp. Tsécnưsépxki đã
đến gần với quan niệm về thực chất, bản chất xã hội của cái đẹp và đi đến kết
luận hết sức quan trọng về tính giai cấp - tính chất được quy định về mặt xã
hội của cảm thụ về cái đẹp. Mỗi giai cấp, mỗi thời đại, mỗi dân tộc đều có
những nhu cầu thẩm mỹ riêng. Ở những giai cấp khác nhau, quan niệm về cái
đẹp khơng giống nhau, thậm chí là đối lập nhau.
Những quan điểm mỹ học của Tsécnưsépxki mang tính chất duy vật chủ
nghĩa và dân chủ cách mạng tiến bộ. Ông cũng khơng tránh khỏi những thiếu
sót khi nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất cái đẹp khi cho rằng: “Những sáng
tác nghệ thuật đều thấp hơn cái đẹp trong hiện thực”[46, tr.172]. Ơng đã hạ
thấp vai trị của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, coi nghệ thuật là sự mô phỏng
lại tự nhiên. Tsécnưsépxki không thấy được cái đẹp với tư cách là hoạt động
sáng tạo của chủ thể, chưa đánh giá đúng tác dụng cải tạo thế giới của hoạt
động thực tiễn vật chất. Tsécnưsépxki không thấy rằng, trong khi biến đổi tự
nhiên, con người cũng biến đổi và phát triển những cảm xúc của chính bản
thân con người.
Tsécnưsépxki coi cơ sở của cái đẹp là ở trong bản thân hiện thực, cái
đẹp thực tế cuộc sống khác cái đẹp trong tưởng tượng chủ quan. Ông kêu gọi
cải tạo hiện thực cho phù hợp với quan niệm cách mạng dân chủ về cuộc
sống, đó là căn cứ của nền nghệ thuật hiện thực. Những luận điểm của ơng đã
có giá trị to lớn với sự hình thành mỹ học Mác - Lênin.
Nhìn chung, các nhà mỹ học trước Mác không vạch ra được nguồn gốc,
bản chất thật sự của cái đẹp, bởi họ không nắm được phép biện chứng duy
vật. Phần lớn trong họ coi cái đẹp cái vốn có của thị hiếu, của ý niệm, của
cuộc sống. Cái đẹp trong nghệ thuật là sản phẩm của các thiên tài, là sự thể
hiện của tinh thần tuyệt đối, là sự bắt chước cuộc sống. Chỉ đến chủ nghĩa
Mác mới đưa ra được cơ sở để nhận thức một cách khoa học cái đẹp trong
cuộc sống cũng như cái đẹp trong nghệ thuật.


19


1.1.2. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về cái đẹp
Kế thừa những tư tưởng của các nhà mỹ học trước đó đã nghiên cứu về
cái đẹp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp cận cái đẹp từ lao động, từ bản chất xã
hội, quan hệ giá trị. Cách tiếp cận của các ông là sự thống nhất giữa cái đạo
đức và thẩm mỹ, giữa sở thích và lý tưởng thẩm mỹ đã tạo ra một bước tiến
mới trong việc lý giải bản chất và nguồn gốc của cái đẹp, gắn cái đẹp với
quan hệ sản xuất, đạo đức, giá trị xã hội. Lý luận về cái đẹp của C.Mác và
Ph.Ăng ghen đã khắc phục được nhiều nhược điểm trong nghiên cứu cái đẹp
trước đó và mở ra sự phát triển mới của cái đẹp trong đời sống con người.
Theo C.Mác và Ăngghen, cái đẹp không phải là sản phẩm thuần túy
chủ quan, thuần túy ý niệm và không phải là một hiện tượng vốn có của tự
nhiên. Cái đẹp là một hiện tượng xã hội. Cái đẹp nảy sinh trong quá trình lao
động của con người có mục đích rõ ràng, mang tính phổ biến gắn với vật chất
nhưng khơng bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất trực tiếp. Hai ông đã tiếp cận
cái đẹp theo quan điểm thực tiễn và điều đó làm cho quan niệm của các ơng
về cái đẹp khác với các quan niệm khác.
Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, lần đầu tiên
C.Mác đã phát hiện ra nguồn gốc thật sự của cái đẹp đó là từ lao động. Đến
“Luận cương về Phoiơbắc”, C.Mác đã khẳng định thêm bí mật thật sự của cái
đẹp gắn với bản chất xã hội của con người là hoạt động thực tiễn. Hoạt động
lao động, đấu tranh, sáng tạo là thực tiễn cơ bản của con người. Lao động là
điều kiện cơ bản đầu tiên của tồn bộ đời sống lồi người. Ơng cho rằng:
“Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả
chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được
nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được
nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận
thức về mặt chủ quan”[5, t.3, tr.9]. C.Mác đã chỉ ra cách tiếp cận mới đối với

tiến trình lịch sử của một thế giới quan mới. Quan điểm thực tiễn của C.Mác

20


có vai trị quan trọng trong việc giải thích lịch sử, trong đó có quan niệm về
nguồn gốc và bản chất của cái đẹp.
Ph.Ăngghen cũng cho rằng, quá trình lịch sử chính là q trình sản xuất
xã hội. Những phát hiện của hai ông đã khắc phục được cách tiếp cận duy tâm
về nguồn gốc, bản chất của cái đẹp. Theo đó, trong q trình hoạt động sống,
một mặt con người tác động vào tự nhiên, biến đổi cải tạo tự nhiên để phục vụ
nhu cầu của mình, mặt khác, con người cũng phát triển bản thân, năng lực
sáng tạo của mình. Khi đó, tự nhiên được con người tác động sẽ mang những
dấu vết của con người, con người cũng ngày càng phát triển về tinh thần, vật
chất để làm chủ tự nhiên.
C. Mác đã nói: “Tồn bộ cái gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ
là sự sáng tạo con người kinh qua lao động của con người”[6, t.42, tr.182].
Ơng đã tìm ra nguồn gốc, bản chất của cái đẹp chính là từ lao động. Phát hiện
này của C.Mác đã cho mỹ học cơ sở để hiểu rõ nguồn gốc của cái đẹp khơng
phải ở tình cảm của thị hiếu chủ quan của con người như Cantơ cũng không
phải ở ý niệm tuyệt đối như quan niệm của Hêghen.
Nguồn gốc đầu tiên của cái đẹp là khi con người lao động có ý thức,
biểu hiện rõ rệt nhất là khi con người sáng tạo ra công cụ lao động và biết sử
dụng nó. Với cơng cụ lao động, bàn tay của con người có thêm sức mạnh và
vượt qua được những thử thách mới của thiên nhiên. Xuất phát từ việc trong
q trình hồn thiện cơng cụ lao động, con người đã làm đẹp thêm cho các
sản phẩm của mình. Từ những sản phẩm chỉ mang giá trị thực dụng đơn
thuần, con người muốn những sản phẩm đó phù hợp với sở thích và mang lại
niềm vui cho con người khi ngắm nhìn. Từ đó, các sản phẩm của con người
tạo ra ngày càng đẹp và đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người. Trong q

trình đó, con người có cơ hội phát triển những năng khiếu, sự sáng tạo của
bản thân mình. Con người, từ chủ thể thực dụng thành chủ thể thẩm mỹ.
Phát triển quan niệm về nguồn gốc cái đẹp từ lao động, trong tác phẩm
“Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen đã mở rộng hơn quan điểm này. Bàn

21


tay con người cũng do lao động tạo thành. Lao động tạo nên những tác phẩm
nghệ thuật. Lao động đã tạo nên chủ thể thẩm mỹ, tạo nên đôi tai thính âm
nhạc, đơi mắt thấy cái đẹp của hình thức. Lao động tạo nên mối quan hệ giữa
đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ. Trong lao động, cùng đơi tay, các
giác quan, bộ óc của con người cũng phát triển. Trong tác phẩm này
Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, những tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất của
danh họa Raphaen và nhà điêu khắc lừng danh Tôvanxen đều sản sinh ra từ
lao động.
Đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, cái đẹp của nghệ thuật phải kết hợp
được các giá trị thẩm mỹ cao và tính tư tưởng sâu sắc. C.Mác yêu thích vẻ
đẹp của các tác phẩm do Sếchxpia (William Shakespeare) sáng tạo vì
Sếchxpia đã kết hợp tài tình quy mơ thẩm mỹ rộng lớn của thời đại với ý
nghĩa tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tác phẩm của mình. Cịn Ph.Ăngghen
ca ngợi vẻ đẹp trong các tác phẩm của Banzắc (Honoré de Balzac) bởi vì nhà
văn này đã miêu tả được một hiện thực điển hình trong các hồn cảnh điển
hình.
Chủ thể thẩm mỹ là con người mang tính xã hội trong quá trình tác
động biện chứng với đối tượng thẩm mỹ nhằm mang lại các xúc cảm thẩm mỹ
cho con người. Cũng chỉ có con người mới có năng lực sáng tạo, đánh giá và
thưởng thức các hoạt động thẩm mỹ. Đây là năng lực đặc biệt của con người,
xuất hiện và phát triển trong quá trình lịch sử xã hội lồi người. Tình cảm
thẩm mỹ chính là đặc trưng quan trọng nhất của chủ thể thẩm mỹ, đó là thái

độ với cuộc sống, niềm hạnh phúc, vui sướng, tình cảm đau khổ, xót xa,…
của chủ thể trước các hiện tượng thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ có tác dụng
kích thích tính tích cực về mặt xã hội của con người, điều tiết các hành vi và
có tác động đến sự hình thành các lý tưởng chính trị, xã hội, đạo đức, thẩm
mỹ,… của cá nhân.
Con người cịn có thước do thẩm mỹ gắn với quá trình sáng tạo thẩm
mỹ. Q trình đó cũng sinh ra các thị hiếu thẩm mỹ - một năng lực biểu hiện

22


sự hài hòa giữa cảm xúc và nhận xét. Thị hiếu thẩm mỹ thể hiện khả năng nói
lên những nhận xét về phẩm chất thẩm mỹ của các đối tượng và hiện tượng tự
nhiên, xã hội, vật chất và tinh thần. Mặt khác, thị hiếu thẩm mỹ cũng thể hiện
ở sự biểu hiện cảm xúc, nhờ đó thấy được nhân tố chủ quan của cá nhân, sự
độc đáo của chủ thể. Dựa vào các thước đo xã hội mà có thị hiếu tốt, thị hiếu
xấu, thị hiếu lành mạnh, thị hiếu không lành mạnh,… Khi lý giải về bản chất
cái đẹp, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, thị hiếu thẩm mỹ khơng hồn tồn
mang tính cá nhân hay thần bí mà là thái độ, tình cảm của chủ thể trước đối
tượng thẩm mỹ trong tự nhiên và trong cuộc sống. Cái tai thính âm nhạc, con
mắt thấy cái đẹp của hình thức đều là cái tai, con mắt gắn với thực tiễn xã hội,
tức là q trình xã hội hóa các lực lượng lao động. Quan niệm này đã phủ
định lại các quan niệm về thị hiếu nghệ thuật của Cantơ, khi ông cho rằng thị
hiếu thẩm mỹ tách rời với thực tiễn thẩm mỹ, sản xuất thẩm mỹ. Theo C.Mác
và Ph.Ăngghen, thị hiếu thẩm mỹ xuất hiện cùng với nhu cầu hưởng thụ, đánh
giá, sáng tạo cái đẹp mang tính chất xã hội. Nhu cầu ấy chỉ xuất hiện trong
quá trình lao động sản xuất và do tình cảm con người chi phối. Nhu cầu thẩm
mỹ mang tính chất vơ tư, không vụ lợi và nhu cầu ấy càng phong phú thì năng
lực thưởng thức thẩm mỹ của chủ thể càng cao. Tuy nhiên, không phải nhu
cầu thẩm mỹ nào cũng chính đáng. Nhu cầu thẩm mỹ chính đáng thường được

biểu hiện ở những chủ thể thẩm mỹ có ý thức thẩm mỹ đúng đắn, trong sáng.
Ngược lại, có những nhu cầu thẩm mỹ xa xỉ, giả tạo xuất hiện ở những chủ thể
thiếu tính thực tế, lười lao động, ích kỷ. Trong thực tế, cái đẹp không chỉ gắn
với nhu cầu thẩm mỹ mà còn gắn với lý tưởng thẩm mỹ. Bởi trong cuộc sống
cũng như nghệ thuật, không phải lúc nào con người cũng thỏa mãn các nhu
cầu, thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh của mình. Vì vậy, để bù đắp những thiếu hụt
về nhu cầu thẩm mỹ đó, con người cần gắn cái đẹp với lý tưởng cao đẹp.
Trong nội dung mỹ học của C.Mác và Ph.Ăngghen, quy luật của cái
đẹp bắt nguồn từ hoạt động người. Cảm giác về cái đẹp là cảm giác của con

23


người và được nảy sinh từ lao động, không phải là cảm giác vốn có của thần
thánh hay một hiện tượng tự nhiên nào.
Ph.Ăngghen đã nhận xét, C.Mác có hai phát kiến vĩ đại là chủ nghĩa
duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị và sự bóc lột giá trị thặng dư. Cả hai
phát hiện này đều được vận dụng trong nghiên cứu về cái đẹp. Trong quá
trình tìm hiểu sự bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản đối với cơng nhân,
ơng cũng đã tìm ra sự tha hóa của cái đẹp trong xã hội tư bản.
Theo C.Mác, giá trị gắn với lợi ích và có nhiều loại giá trị với ý nghĩa
khác nhau. Giá trị sử dụng chỉ thỏa mãn được những nhu cầu vật chất của con
người và là dạng giá trị đầu tiên xuất hiện trong xã hội. Giá trị đạo đức là sự
thể hiện lợi ích gắn liền với cái thiện của con người. Giá trị thẩm mỹ được
nảy sinh trên giá trị sử dụng và giá trị đạo đức, không có trong nó những vụ
lợi, lo âu. Các giá trị thẩm mỹ khơng phải là các thuộc tính sẵn có của tự
nhiên và xã hội mà nó xuất hiện và phát triển nhờ lao động. Đó là lao động xã
hội lành mạnh.
Con người xuất hiện, bằng việc tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên,
xã hội và bản thân mình, con người dần phát hiện ra những giá trị của tự

nhiên, trong đó có giá trị thẩm mỹ. Cái đẹp khơng phải là cái vốn có trong tự
nhiên thuần túy, cũng không phải là cái được nhận thức tùy tiện do cảm giác
chủ quan của cá nhân. Cái đẹp là một phạm trù giá trị, xuất hiện và không
ngừng phát triển trong thực tiễn sản xuất của con người, xã hội.
Trong các quan hệ thẩm mỹ xã hội, cái đẹp được quy định bởi quan hệ
chủ thể và khách thể. Ở trong những mối quan hệ khác nhau, thời đại, giai
cấp, dân tộc khác nhau thì các đối tượng mang giá trị thẩm mỹ là khác nhau.
Muốn hiểu được hiện tượng này là đẹp hay khơng đẹp thì cần quá trình lao
động xã hội làm thước đo. Vì vậy, giá trị thẩm mỹ phải có tính khách quan xã
hội. Cái đẹp lại được đo từ mối quan hệ chủ quan và khách quan nên cái đẹp
mang giá trị với thước đo riêng của cá nhân và thước đo chung của xã hội.
Bởi cá nhân ấy phải ở trong một cộng đồng, giai cấp, một thời đại nhất định.

24


Cái đẹp trong học thuyết của Mác là một hiện tượng khách quan, không phụ
thuộc vào cá nhân cụ thể nào.
Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, cái đẹp ra đời, tồn tại và
phát triển trong lao động sản xuất, đấu tranh giai cấp, cải tạo tự nhiên và xã
hội. Bản chất của cái đẹp là do các mối quan hệ quy định và luôn vận động,
biến đổi cùng các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ thẩm mỹ. Bên cạnh đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen cịn có những luận giải sâu sắc về giá trị tư tưởng và
giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật. Những tư tưởng về cái đẹp trong nghệ thuật là
sự thống nhất giữa giá trị tư tưởng cao và giá trị thẩm mỹ cao. Những tư
tưởng này đã đặt cơ sở quan trọng cho một nền nghệ thuật cách mạng.
Gắn với sự vận động của xã hôi, cái đẹp cũng được chia ra làm nhiều
thời kỳ. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản đã tạo ra thước đo cái đẹp khác
với bản chất vốn có của nó. Vì vậy, việc đấu tranh để trả lại giá trị thật cho cái
đẹp và xây dựng thước đo thẩm mỹ đúng đắn là hết sức cần thiết. Bởi, cái đẹp

là một phạm trù giá trị mang tính khách quan, tồn tại độc lập với nhận thức
của cá nhân riêng lẻ, vận động với sự đi lên của xã hội và nhu cầu thẩm mỹ
lành mạnh của xã hội.
Trong Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã khẳng định, về bản chất con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Trước khi con người xuất hiện, mọi vật
trên trái đất vẫn tồn tại với những thuộc tính riêng vốn có. Chỉ đến khi con
người xuất hiện với xã hội lồi người thì các giá trị thẩm mỹ mới xuất hiện
với các thước đo do con người đặt ra qua q trình lao động. Cái đẹp khơng
tồn tại độc lập với con người và xã hội loài người. Những thay đổi về lịch sử
và xã hội cũng làm cho các mối quan hệ xã hội thay đổi, kể cả quan hệ thẩm
mỹ. Bản chất của cái đẹp vì vậy mà khơng chỉ gắn với lao động mà cịn gắn
với các quá trình lịch sử xã hội với các thước đo khác nhau của các dân tộc,
giai cấp, thời đại khác nhau.
Cái đẹp mang tính xã hội. Dù có trong các tình cảm cá nhân, nhưng
những nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng, ý thức thẩm mỹ của mỗi cá nhân đều gắn

25


×