Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Đảng bộ tỉnh nghệ an lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 1991 đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.07 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

V TH THANH T

ĐẢNG Ộ T NH NGH AN ÃNH ĐẠO C NG T C
ẢO TỒN VÀ PH T HU GI TR C C I T CH
CH S

VĂN H A T



U N VĂN THẠC S

Hà Nội – 2013

Đ N NĂ

CH S


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

V TH THANH T


ĐẢNG Ộ T NH NGH AN ÃNH ĐẠO C NG T C
ẢO TỒN VÀ PH T HU GI TR C C I T CH
CH S

C u

VĂN H A T

à



Đ N NĂ

s Đả

Cộ

số 6

56

U N VĂN THẠC S
N ƣ i ƣ

TS NGU

Hà Nội – 2013

sả Vi t N


CH S
N QUANG I U


LỜI CA

ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu riêng tôi. Nguồn tài
liệu được sử dụng trong luận văn là chân thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng. Những đánh giá, kết luận được rút ra trong luận văn là những gợi
mở bước đầu về đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 10/2013
Học viên
Vũ Thị Thanh Tú


ỜI CẢ

ƠN

Để hoàn thành luận văn với đề tài: “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo
công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hố từ năm
1991 đến năm 2012” khơng chỉ là cơng sức của riêng tơi, ngồi sự cố gắng,
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong
khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội,
lớp Cao học (Khóa 2010 – 2013) cùng gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp
đỡ, động viên, khích lệ, tạo mọi điều kiện giúp tơi hồn thành luận văn này.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lịng biết ơn sâu sắc

tới thầy Nguyễn Quang Liệu – người đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn
trong suốt quá trình thực hiện để tơi hồn thành luận văn của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn của tơi sẽ khơng tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các
thầy cô giáo và các bạn.

Hà Nội, tháng 10/2013
Học viên
Vũ Thị Thanh Tú


ỤC ỤC
Ở ĐẦU ...................................................................................................... 3
C ƣơ

ĐẢNG Ộ T NH NGH AN ÃNH ĐẠO C NG T C

ẢO TỒN VÀ PH T HU GI TR C C I T CH
HO T



Đ N NĂ

C ủ trƣơ
i tí

l

s


ủ Đả


CH S

VĂN

...................................................... 9

về ơ

tá bả tồ và p át u

á từ ă

đế

ă

iá tr á

............................. 9

1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác bảo tồn và
phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hoá........................................... 9
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về công tác bảo tồn và
phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hố......................................... 17
1.2. Q trì
huy giá tr á


Đả

bộ tỉ

i tí

l

N
s

A



ỉ đạ

ơ

tá bả tồ và p át

á từ ă

đế

ă

....... 22


1.2.1.Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ................................................... 22
1.2.2. Những kết quả đạt được ............................................................ 27
C ƣơ

ĐẢNG Ộ T NH NGH AN ĐẨ

ẠNH C NG T C

ẢO TỒN VÀ PH T HU GI TR C C I T CH
HO T



C ủ trƣơ
u

iá tr á

Đ N NĂ
ủ Đả
i tí

l

VĂN

.................................................... 37

bộ tỉ
s


CH S

N



A về ơ

á từ ă

tá bả tồ và p át
đế

ă

....... 37

2.1.1. Tình hình và yêu cầu mới về công tác bảo tồn và phát huy giá
trị các di tích lịch sử, văn hố ở tỉnh Nghệ An ................................... 37
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ ........................................................... 40
Quá trì

ỉ đạ t ự

i

ủ Đả

1


bộ tỉ

N

A ............ 46


2.2.1. Quá trình chỉ đạo thực hiện ....................................................... 46
2.2.2. Những kết quả đạt được ............................................................ 53
C ƣơ
CHỦ
3

3: NH N XÉT CHUNG VÀ

ỘT SỐ KINH NGHI

U ........................................................................................ 75
N ậ xét

u

............................................................................... 75

3.1.1. Kết quả đạt được ....................................................................... 75
3.1.2. Hạn chế...................................................................................... 80
3

N ữ


i

i

ủ ếu ......................................................... 84

3.2.1. Kinh nghiệm trong xác định chủ trương ................................... 84
3.2.2. Kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện........................................ 88
K T U N ................................................................................................ 95
TÀI I U THA

KHẢO ........................................................................ 98

PHỤ ỤC ................................................................................................. 106

2


Ở ĐẦU
1. Lý

đề tài

Di tích lịch sử, văn hóa là nơi hình thành, ni dưỡng, tồn tại và kết
tinh những tinh hoa từ nhiều thế hệ trước để lại. Di tích lịch sử, văn hóa là
tài sản văn hóa q giá của mỗi địa phương, dân tộc, đất nước và cả nhân
loại. Chúng là nơi lưu giữ và lưu truyền cho thế hệ sau những giá trị truyền
thống của văn hóa dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền
thống tốt đẹp, về kỹ năng, kỹ xảo và tâm linh con người. Trong sức ép toàn

cầu hóa hiện nay, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc lại càng trở
nên quan trọng và được xác định là một trong những nhân tố phát triển bền
vững của xã hội.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc giữ gìn giá trị tồn
vẹn của di tích, nên từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đã rất quan tâm, tạo điều kiện để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa.
Các hoạt động tu bổ, tơn tạo di tích đã diễn ra sơi động khắp nơi, bằng
nhiều nguồn vốn và do nhiều lực lượng tiến hành. Phần lớn các di tích đã
được đầu tư chống xuống cấp, phục hồi, tơn tạo ở các mức độ và trình độ
khác nhau. Di tích đã thực sự trở thành tài nguyên cho du lịch. Nguồn thu
trực tiếp từ di tích đã phát triển, góp một phần khơng nhỏ cho hoạt động
tơn tạo di tích và ngân sách Nhà nước. Rõ ràng những kết quả đó đã làm
thay đổi diện mạo của đất nước, góp phần giữ gìn, xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đóng góp phần thiết thực
vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Nghệ An là tỉnh in đậm dấu ấn văn hoá – lịch sử của đất nước trong
suốt cả quá trình dựng nước và giữ nước. Trên địa bàn tỉnh có nhiều loại
hình di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu như: Di tích khảo cổ, Di tích lịch sử,

3


Di tích lưu niệm danh nhân, Di tích kiến trúc nghệ thuật. Đây là những
chứng cứ thể hiện cội nguồn, truyền thống và bản sắc văn hoá xứ Nghệ.
Tuy mật độ di tích nhiều nhưng việc tơn tạo di tích cịn hạn chế:
nhiều di tích, cổ vật tồn tại từ hàng vạn năm đã và đang liên tục bị tác động
của thời tiết, chiến tranh và các biến cố lịch sử, sự xâm hại của con người,
hay trong quá trình tu bổ, tôn tạo lại xảy ra hư hỏng, thất lạc, mất mát và
sai lệch so với di tích gốc; Nhiều giá trị văn hoá phi vật thể đang bị lãng
quên, đội ngũ nghệ nhân dân gian đang mai một dần. Thêm vào đó, hiện

nay với sự phát triển mạnh của kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt
thuận lợi mang lại thì nó cũng tác động khơng nhỏ đến việc bảo tồn di tích
như: mâu thuẫn giữa nhu cầu khai thác ngun vật liệu, xây dựng các cơng
trình kinh tế, cơng trình dân dụng, nhà ở… với u cầu bảo tồn ngun vẹn
di tích. Trước những thách thức đó, sự cần thiết nhất là phải tăng cường
công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa ở tỉnh nhà với
những chính sách và giải pháp kinh tế - xã hội phù hợp với tình hình mới
của đất nước. Chính vì vậy, tơi lựa chọn đề tài: Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa
từ năm 1991 đến năm 2012 làm Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tì

ì

i

ứu li

qu

đế đề tài

Bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước
và các cấp, các ngành, các địa phương quan tâm. Vấn đề này cũng được nhiều
nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
N ữ

ơ


bả tồ và p át u

trì

đề tài
i tí

l

s

i

ứu về lý luậ



ó

u

về vấ đề

ƣ

Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch sử văn hố, Nhà xuất bản Đại học Văn hố Hà Nội. Nội dung chính là đi sâu
nghiên cứu vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề bảo tồn di tích ở

4



nước ta; Dương Văn Sáu (2000), Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội với nội dung trình
bày các khái niệm, phân loại các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh của Việt Nam; Nguyễn Đình Thanh, Lê Thị Minh Lý (2008), Di sản
văn hóa bảo tồn và phát triển, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh với
nội dung trình bày hiện trạng bảo tồn và phát huy ở một số di sản văn hóa
tiêu biểu ở Việt Nam; Từ Mạnh Lương (2003), Một số chính sách và giải
pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm bảo tồn, tôn tạo và nâng cao hiệu quả
khai thác di tích lịch sử - văn hoá của dân tộc giai đoạn phát triển mới của
đất nước, LATS kinh tế. Cuốn Luận án này đã nêu bật lên được thực trạng
về các chính sách bảo tồn di tích ở Việt Nam, trên cơ sở đó, tác giả đã đề
xuất một số giải pháp về kinh tế xã hội nhằm nâng cao hơn nữa năng lực
bảo tồn, phát huy giá trị di tích ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới
của đất nước; Khoa Thị Khánh Chi (2010), Vi phạm di tích lịch sử, văn
hóa, danh lam thắng cảnh – thực trạng và giải pháp, Luận văn Th.s Luật,
H.Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Từ chỗ trình bày những sai phạm
chủ yếu trong cơng tác bảo tồn di tích và danh thắng, luận văn đã đưa ra
những giải pháp thiết thực nhất để nhằm hạn chế tối đa thực trạng này;
Nguyễn Quang Điển (1999), Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc:
Vai trò của nghiên cứu và giáo dục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, luận
bàn về những giá trị của văn hóa đồng thời nhấn mạnh vai trị của việc
nghiên cứu và giáo dục để đưa ra những biện pháp nhằm thúc đẩy công
cuộc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa ở Việt Nam,
Bên cạnh đó, cịn có một số bài đăng trên các tạp chí, như:
Hà Văn Tấn (2005), Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam; Lưu Trần Tiêu (2002), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật; Đặng Văn Bài (2006), Tu bổ và tôn tạo các di


5


tích lịch sử văn hóa là hoạt động có tính đặc thù chun ngành, Tạp chí Di
sản văn hóa; Nguyễn Xuân Phúc (2004), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa thế giới, Tạp chí Du lịch Việt Nam; Đinh Trung Kiên (2003), Di
tích lịch sử và tư liệu lịch sử với việc phát triển du lịch Việt Nam, Tạp chí
Khoa học xã hội nhân văn.
Những bài báo, sách và luận văn, luận án trên đều đề cập đến vấn đề
di sản văn hóa, các lý luận chung đối với công tác bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị di tích lịch sử văn hóa. Tuy nhiên, vẫn chưa có một cơng trình
nghiên cứu cụ thể nào về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử
dưới sự lãnh đạo của một Đảng bộ địa phương.
3. Mụ đí



i

vụ

i

ứu

3.1 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ chủ trương và đường lối của Đảng và Đảng bộ Nghệ An về
công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa từ năm 1991
đến năm 2012.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày có hệ thống chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Nghệ
An về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa từ năm
1991 đến năm 2012.
- Làm sáng tỏ một cách khách quan và tồn diện nhất q trình lãnh
đạo cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa từ năm 1991
đến năm 2012 của Đảng bộ Nghệ An. Từ đó đánh giá q trình bảo tồn này.
- Khẳng định thành tựu và hạn chế trong quá trình Đảng bộ tỉnh
Nghệ An lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn
hóa từ năm 1991 đến năm 2012.
- Bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm chủ yếu của Đảng bộ tỉnh
Nghệ An về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa từ
năm 1991 đến năm 2012.

6


4. Đối tƣợ

và p ạ

vi

i

ứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Nghệ An về cơng tác bảo
tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa từ năm 1991 đến năm 2012.
- Q trình triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng bộ

tỉnh Nghệ An về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa
từ năm 1991 đến năm 2012.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung tìm hiểu những chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ Nghệ An về công tác
bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa trên cơ sở những thành
tựu đã đạt được và những mặt hạn chế, bước đầu đưa ra những nhận xét cơ
bản về chính sách, chủ trương của Đảng bộ về cơng tác bảo tồn.
- Về thời gian: Luận văn tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng bộ Nghệ An
về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa trong thời
gian từ năm 1991 đến năm 2012.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. P ƣơ

p áp

i

ứu và

uồ tƣ li u

5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước
ta qua các thời kỳ, gắn với những lý thuyết của kinh tế học hiện đại có liên
quan đến vấn đề cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn
hóa; chủ trương, chính sách của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
tỉnh Nghệ An về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa
từ năm 1991 đến năm 2012
5.2 Phương pháp nghiên cứu


7


Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và logic. Ngồi ra,
luận văn cịn sử dụng các phương pháp: tổng hợp, thống kê, so sánh, đồng
đại, lịch đại, khảo sát thực tế…
5.3 Nguồn tư liệu
Luận văn chủ yếu dựa vào Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, VIII, IX, X, XI của Đảng; các nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Nghệ An lần thứ XIII, XIV, XV, XVI, XVII; số liệu thống kê của của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng, Thư viện tỉnh Nghệ An, Ban quản
lý di tích danh thắng Nghệ An, Ban quản lý Khu di tích Kim Liên – Nam
Đàn...; các cơng trình nghiên cứu sách, báo, tạp chí...
6. Đó

óp ủ luậ vă

- Luận văn hệ thống hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Đảng bộ
tỉnh Nghệ An về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa.
- Làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Nghệ An về về công tác
bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa từ năm 1991 đến năm 2012.
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị
di tích lịch sử, văn hóa, những thành tựu, hạn chế và bước đầu nêu lên một
số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh trong lãnh đạo công tác bảo tồn và phát
huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa.
7. Kết ấu ủ luậ vă
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công tác bảo tồn và phát

huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa từ năm 1991 đến năm 2001.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Nghệ An đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa từ năm 2001 đến năm 2012.
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu.

8


C ƣơ
ĐẢNG Ộ T NH NGH AN ÃNH ĐẠO C NG T C ẢO
TỒN VÀ PH T HU GI TR C C I T CH
VĂN HO T
1.1.
tr á

i tí

C ủ trƣơ
l

s



ủ Đả


CH S

Đ N NĂ

về ô

á từ ă

tá bả tồ và p át uy giá
đế

ă

1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác bảo
tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hố
Trong sự nghiệp quản lý di sản nói chung, di tích lịch sử văn hóa nói
riêng, việc ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công tác
quản lý là hết sức cần thiết. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước, do nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa
trong đó có di sản văn hóa đối với sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã
hội của đất nước vì một tương lai phồn thịnh, Đảng và Chính phủ đã có
nhiều quyết sách, ban hành các văn bản pháp luật về quản lý di sản văn hóa
nói chung, di tích lịch sử, văn hóa nói riêng phù hợp với điều kiện lịch sử
cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Thấy rõ được tầm quan trọng của di tích lịch sử, văn hóa hoạt động
bảo tồn di tích ở Việt Nam đã xuất hiện từ cách đây từ rất lâu. Ở cấp độ
Quốc gia, Nhà nước quân chủ đã xây dựng hệ thống văn bản pháp quy
thông qua các đạo luật, sắc phong và bộ máy quản lý của chính quyền
Trung ương. Tại các làng, xã hệ thống hương ước, tục lệ đều có những điều
quy định hướng vào việc chăm lo xây dựng và bảo vệ các di sản văn hóa
của địa phương phù hợp với truyền thống.
Năm 1945, chỉ trong vòng thời gian 4 tháng, từ sau ngày giành được
độc lập và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 2/9/1945 đến ngày


9


31/12/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký 56 sắc lệnh thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đất nước. Một
trong những văn bản pháp luật đầu tiên nhất của Nhà nước ta sau Cách
mạng tháng Tám 1945 là Sắc lệnh số 65-SL “Ấn định nhiệm vụ của Đông
Phương bác cổ học viện”, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23/11/1945.
Sắc lệnh ấn định Đơng Dương bác cổ có nhiệm vụ “bảo tồn tất cả cổ tích
trong tồn cõi Việt Nam”, đồng thời “cấm phá huỷ đình chùa, đền miếu
hoặc những nơi thờ tự khác như: cung điện, thành quách cùng lăng mộ
chưa được bảo tồn” [9, tr.8].
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất năm 1975, hệ thống các di
tích của Việt Nam đang trong tình trạng bị phá huỷ nhiều và xuống cấp
nghiêm trọng do chiến tranh, sự phá hoại của thiên nhiên và việc quản lý,
sử dụng của con người… nên việc cấp bách là phải cứu vãn ngay hệ thống
các cơng trình có giá trị về lịch sử, văn hố, khoa học đang có nguy cơ mất
mát hoàn toàn. Do vậy, Pháp lệnh số 14 – PL/HĐNN ngày 4/4/1984 của
Hội đồng Nhà nước (nay là của Chủ tịch nước) về công bố Pháp lệnh bảo
vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hố và danh lam thắng cảnh và Nghị định
số 288/HĐBT ngày 31/12/1985 của Hội đồng Bộ trưởng quy định việc thi
hành Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam
thắng cảnh ra đời. Vào các năm 1985, 1986, Nghị định của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) quy định việc thi hành pháp lệnh và Thông tư
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh của Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể
thao và du lịch) được ban hành. Đây được coi là bước tiến lớn của ngành
nhằm thống nhất việc quản lý và chỉ đạo mọi hoạt động của ngành trên cơ
sở pháp lý.
Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, Đảng
Cộng sản Việt Nam ln coi trọng việc xây dựng và phát triển một nền văn


10


hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mặc dù đất nước vừa bước ra khỏi
cuộc chiến tranh ác liệt, mới bắt đầu vào công cuộc xây dựng và phát triển,
nhưng vấn đề văn hóa ln được đánh giá như là nền tảng tinh thần của xã
hội. Điều này được thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội của Đảng. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng khẳng định:
“Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn học
nghệ thuật, xây dựng một nền văn hóa văn nghệ xã hội chủ nghĩa, đậm đà
bản sắc dân tộc”[16, tr.222]. Trong vấn đề phát triển văn hóa đó, lĩnh vực
bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc là một trong những lĩnh vực
được Đảng quan tâm: “Phải coi các di tích lịch sử, các tác phẩm, cơng trình
văn hóa, nghệ thuật, các tài năng và danh nhân là tài sản quý của quốc gia;
có những chủ trương và biện pháp có hiệu lực bảo tồn lâu dài các di tích
lịch sử và các giá trị văn hóa để giáo dục nhân dân về lịng u nước và tự
hào dân tộc, về truyền thống lịch sử và văn hóa, tạo điều kiện cho nhiều thế
hệ có thể thưởng thức, tiếp thu, nghiên cứu các giá trị văn hóa mới thể hiện
được tầm cao của thời đại và chiều sâu của truyền thống, vừa dân tộc, vừa
hiện đại, đấu tranh chống xu hướng mất gốc, hư vô chủ nghĩa”[16, tr.226].
Năm 1991, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế rơi vào khủng
hoảng, nhiều Đảng Cộng sản mất vị thế lãnh đạo, vai trò của các Đảng
Cộng sản thu hẹp phạm vi ảnh hưởng ở nhiều nước. Diễn biến phức tạp của
đời sống chính trị - xã hội thế giới đã tác động đến công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.Tình hình đó đã
gây xáo động lớn về tư tưởng, tình cảm trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Riêng trên lĩnh vực văn hóa cũng có nhiều biến động: các thế lực thù
địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng vǎn hóa nhằm thực hiện
"diễn biến hịa bình". Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh

những tác động tích cực to lớn, cũng đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng

11


tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta. Việt Nam
còn nghèo, nhu cầu vǎn hóa của nhân dân rất lớn nhưng khả nǎng đáp ứng
còn hạn chế do thiếu những điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết.
Chính trong thời điểm khó khăn của cách mạng thế giới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
(6/1991) thể hiện quan điểm, bản lĩnh chính trị của mình. Cương lĩnh nêu
lên 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam: nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân; khơng ngừng củng cố tăng cường khối đại đoàn kết; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đồng thời, cương lĩnh đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa; Phát
triển lực lượng sản xuất; Đa dạng về hình thức sở hữu; Tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; Thực hiện chính
sách đại đồn kết dân tộc; Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Bên cạnh đó, tại Đại hội, các nghị quyết về xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và định hướng cho các hoạt động văn hóa,
văn nghệ đã giành một vị trí thích đáng cho lĩnh vực bảo tồn và tơn tạo di
tích. Trong báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm
1991 – 1995 trình tại Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa
VII: “Tiếp tục trùng tu, tơn tạo các di tích lịch sử và sửa chữa các cơng

trình văn hóa. Xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh. Đấu tranh có hiệu

12


quả chống văn hóa đồi trụy, mê tín dị đoan, đồi phong bại tục, chống các
loại tuyên truyền phản động” [18, tr.449].
Để cụ thể hóa chủ trương này, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam sửa đổi ngày 18/4/1992 đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát
huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hố và danh lam thắng cảnh. Hiến
pháp đã cơng bố: Nhà nước và xã hội cần bảo tồn, phát triển các di sản văn
hố dân tộc, tu bổ, tơn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch
sử, cách mạng, các cơng trình nghệ thuật và danh lam thắng cảnh. Việc bảo
tồn di sản văn hoá dân tộc nói chung và di tích nói riêng được Hiến pháp
quy định trước tiên là thuộc trách nhiệm của Nhà nước. Đây là cơ sở pháp
lý cao nhất, nó xác định quan điểm, trách nhiệm của Nhà nước trước nhiệm
vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, là cơ sở cho việc xây dựng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nguồn ngân sách Nhà nước hàng năm cho
các hoạt động bảo tồn và phát huy di tích.
Tiếp đó là Quyết định số 25/TTg ngày 19/01/1993 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn
hoá nghệ thuật cũng xác định Nhà nước đầu tư 100% kinh phí cho việc tu
bổ, tơn tạo các di tích cách mạng, những di tích gắn với q trình hoạt động
của Đảng và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc (thuộc loại hình di tích
lịch sử), hỗ trợ một phần kinh phí và huy động mọi nguồn lực, kể cả thu hút
viện trợ và vốn đầu tư của nước ngồi, để giữ gìn tơn tạo các di tích khác,
kể cả các cơng trình mang tính chất tơn giáo đã được cơng nhận là di tích,
cịn lại phải huy động các nguồn vốn đầu tư khác. Chính sách này được
nghiên cứu xây dựng dựa vào đặc điểm, giá trị của di tích và thực tế khả
năng huy động các nguồn vốn đầu tư của mỗi loại hình di tích. Đây chính

là chính sách đầu tư cho di tích cả về quan điểm đầu tư và định hướng sử
dụng nguồn vốn đầu tư ngân sách Nhà nước.

13


Ngày 03/02/1994, Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 62/TTg
giao cho Bộ Văn hóa thơng tin quản lý điều hành 3 chương trình có mục
tiêu cấp Nhà nước trong đó có chương trình lớn “Chống xuống cấp và tơn
tạo các di tích lịch sử, văn hố ở Việt Nam”. Chương trình này được triển
khai thực hiện trong thời gian từ năm 1994 đến năm 2000, với ngân sách
Nhà nước đầu tư trên dưới 100 tỷ đồng [75, tr.96], chưa kể phần gọi vốn
đầu tư của nước ngoài và phần bổ sung của ngân sách Nhà nước từng địa
phương. Nội dung của chương trình chủ yếu là tập trung vào cơng việc bảo
tồn di tích và cơng tác bảo tàng với các nhiệm vụ chính là: bảo vệ, phục
cấp, nâng cấp, tơn tạo các di tích lịch sử, cách mạng và kháng chiến đặc
biệt quan trọng, các di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị lớn đang có nguy
cơ sụp đổ cần tu bổ gấp; xây dựng mới một số khu di tích lịch sử và cách
mạng quan trọng; phục cấp, nâng cấp, sắp xếp lại và hiện đại hoá các nhà
bảo tàng và một số kho bảo tàng có nhiều hiện vật quý hiếm; xây dựng mới
một vài viện hoặc khu bảo tàng đặc biệt; bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ
cho cán bộ quản lý di tích, quản lý bảo tàng…
Vấn đề đầu tư cho việc tôn tạo di tích cịn được nhắc đến trong Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: “Giữ gìn và nâng
cao các loại hình văn hóa, nghệ thuật truyền thống, bảo vệ và tơn tạo các di
tích văn hóa, lịch sử. Nhà nước đầu tư thích đáng và có cơ chế quản lý
thích hợp với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật” [17, tr.36].
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ban hành ngày 16 tháng 7 năm 1998 về “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” có ý nghĩa hết sức

quan trọng đối với nền văn hóa nước nhà, việc bảo vệ di sản văn hóa dân
tộc được đẩy lên tầm cao mới. Nghị quyết đã đề ra phương hướng chung
của sự nghiệp vǎn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền

14


thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền vǎn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa vǎn hóa nhân loại,
làm cho vǎn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư,
vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta
đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục
vụ đắc lực sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, vǎn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội. Với những quan điểm chỉ đạo cơ bản:
- Vǎn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Nền vǎn hóa mà chúng ta xây dựng là nền vǎn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Nền vǎn hóa Việt Nam là nền vǎn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển vǎn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
- Vǎn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển vǎn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì
thận trọng.
Từ quan điểm chỉ đạo đó, Đảng đã đưa ra nhiệm vụ cụ thể cho ngành
văn hóa nước nhà. Trong đó, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc

được đề cập di sản vǎn hóa là tài sản vơ giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu
vǎn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị vǎn hóa
truyền thống (bác học và dân gian), vǎn hóa cách mạng, bao gồm cả vǎn

15


hóa vật thể và phi vật thể. Tiếp đó, Đảng đã đề ra phương hướng cụ thể cho
sự nghiệp văn hóa nước nhà: Trong quy hoạch xây dựng các cơng trình lớn
phải tính đến một số thiết chế vǎn hóa cần thiết nhất như thư viện, nhà
thông tin, khu giải trí, bảo đảm cảnh quan mơi trường cho các di tích lịch
sử, vǎn hóa và danh lam thắng cảnh. Thực hiện chính sách miễn, giảm phần
chịu thuế cho các khoản đầu tư, đóng góp của các doanh nghiệp vào sự
nghiệp vǎn hóa.
Chính sách bảo tồn, phát huy di sản vǎn hóa dân tộc hướng vào cả
vǎn hóa vật thể và phi vật thể. Tiến hành sớm việc kiểm kê, sưu tầm, chỉnh
lý vốn vǎn hóa truyền thống (bao gồm vǎn hóa bác học và vǎn hóa dân
gian) của người Việt và các dân tộc thiểu số; phiên dịch, giới thiệu kho tàng
vǎn hóa Hán nơm. Bảo tồn các di tích lịch sử, vǎn hóa và các danh lam
thắng cảnh, các làng nghề, các nghề truyền thống....
Năm 2001, Nhà nước ban hành Luật Di sản văn hóa, trong văn bản
luật đã dành một chương để quy định những việc có liên quan đến di tích,
đây được coi là một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc nói chung và di tích lịch sử văn hóa nói riêng. Năm 2002,
khi Luật Di sản văn hóa có hiệu lực, Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia
được thành lập. Bộ Văn hóa đã thành lập Hội đồng khoa học về bảo tồn di
tích để tư vấn cho Nhà nước các vấn đề về bảo tồn, tôn tạo di tích.
Từ những chính sách đúng đắn của Đảng, đồng thời với sự nỗ lực
khai thác có hiệu quả, nhiều di tích lịch sử văn hóa đã trở thành điểm du

lịch quan trọng, thu hút khách thăm quan trong và ngồi nước, góp phần
giới thiệu các giá trị văn hóa của đất nước, đồng thời tạo nguồn thu đáng kể
cho ngân sách Trung ương và địa phương.
Như vậy, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh khơng chỉ là nhiệm vụ của riêng cơ quan có trách

16


nhiệm, mà đó là nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn dân, của các cấp, các ngành
trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhận thức rõ điều đó, trong khoảng
thời gian từ năm 1991 đến năm 2001, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kịp
thời đề ra những chủ trương đúng đắn để nhằm tăng cường công tác tu bổ,
tôn tạo ở các di tích xuống cấp và những di tích đặc biệt quan trọng của
quốc gia. Những chủ trương của Đảng là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Nghệ An
chỉ đạo và thực hiện cơng tác này một cách có hiệu quả nhất định tại địa
phương.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về công tác bảo tồn
và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hố
Nghệ An in đậm dấu ấn văn hoá – lịch sử của đất nước trong suốt cả
quá trình dựng nước và giữ nước. Khi nói đến Nghệ An, chúng ta đều nghĩ
đến điều kiện địa lý đặc biệt, núi rừng, sơng ngịi, đồng bằng, biển cả hội tụ
trong một dải đất cổ, vừa ban cho con người một cảnh sắc thiên nhiên hùng
vĩ tạo nên những cảm hứng thẩm mỹ, thăng hoa; vừa đặt con người nơi đây
trước những đối mặt gay gắt với những khó khăn của tự nhiên như gió Tây
Nam, nắng hạn, bão lụt. Có lẽ chính vì vậy mà con người xứ Nghệ có cốt
cách thơng minh sáng tạo, dám nghĩ dám làm, khảng khái, dám xả thân vì
nghĩa lớn, chịu thương, chịu khó, chịu khổ. Vùng đất cịn nhiều khó khăn,
thiên nhiên khắc nghiệt đã phần nào tạo cho con người những đức tính cần
cù, chịu khó, dũng cảm và kiên nghị. Người dân xứ Nghệ tuy nghèo nhưng

vẫn luôn nổi tiếng về tinh thần hiếu học cũng như thái độ lạc quan, tin
tưởng vào cuộc sống. Đất Nghệ cũng là cái nôi của nhiều anh hùng dân tộc
như Mai Hắc Đế, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Lê Hồng Phong, Hồ
Chí Minh…
Nghệ An giàu truyền thống trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.
Đặc biệt, phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh (1930 – 1931) như một dấu son

17


trong truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Truyền thống yêu nước,
chống ngoại xâm của người dân xứ Nghệ cịn được minh chứng qua hàng
loạt di tích, lịch sử cách mạng đã được xếp hạng, những bảo tàng để giáo
dục cho thế hệ hôm nay và mai sau. Hệ thống di tích – danh thắng Nghệ An
được sinh ra và ni dưỡng bằng tín ngưỡng, đạo lý và phong tục truyền
thống của dân tộc nên có sức sống, sức lan toả lâu bền và mãnh liệt. Mặc
dù có những biến cố thăng trầm, song nhìn chung từ các triều đại phong
kiến Việt Nam đến chế độ hiện nay, nhân dân vẫn nhận thức được rằng: di
tích – danh thắng là một trong những chứng cứ thể hiện cội nguồn, truyền
thống và bản sắc văn hố xứ Nghệ. Vì thế, nhiều di tích được xây dựng
sớm, bảo vệ và tôn tạo chu đáo, tiêu biểu: đền Cuông, đền Cờn, đền thờ và
miếu mộ Mai Hắc Đế, đền Quả Sơn, đền Bạch Mã, khu di tích Kim Liên…
Ở Nghệ An từ năm 1991 đến năm 2001 dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy
cùng các ban ngành trong tỉnh đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm tăng
cường công tác bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử địa
phương.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp,
Đảng bộ tỉnh Nghệ An tiến hành Đại hội lần thứ XIII (5/1991) với nhiệm
vụ đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII,
xây dựng phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 1991 - 1995 trong công cuộc

phát triển kinh tế - xã hội, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng bộ, phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục đổi mới, xây dựng tỉnh
Nghệ An thành một tỉnh khá trong cả nước. Đại hội đã xác định hồn cảnh
đất nước: chưa thốt ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, sự sụp đổ chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã ảnh hưởng lớn đến
kinh tế và tư tưởng của nhân dân ta, các thế lực thù địch nhân đà đó ráo riết
đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hịa bình” chĩa mũi nhọn chống phá cách

18


mạng Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn thâm độc. Đại hội cũng đã thẳng thắn
nhìn nhận khó khăn của tỉnh nhà: kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ cơng
nghệ, kỹ thuật lạc hậu, sản xuất hàng hóa chậm phát triển, chưa có sức hút
đầu tư trong và ngồi nước. Dân số tăng nhanh, xuất phát điểm quá thấp,
nguy cơ tụt hậu xa so với các tỉnh trong cả nước. Song chúng ta đã phát
huy được truyền thống cách mạng, đồn kết, tự lực tự cường, vượt qua khó
khăn thử thách và vươn lên đạt được một số thành tựu quan trọng.
Riêng vấn đề phát triển văn hóa, tại Đại hội đã đưa ra nhiệm vụ “Các
cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể phải chăm lo bồi dưỡng,
đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động trên mặt trận văn hóa – xã hội, làm cho
họ có đủ nhiệt tình, năng lực và điều kiện hoạt động. Phải ra sức chăm lo
đời sống, thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán
bộ hoạt động trên mặt trận văn hóa” [19, tr.52].
Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XIV (năm 1996) đã được tiến hành với
tinh thần: “Dân chủ, trí tuệ, đồn kết, xây dựng”, các đại biểu đã đóng góp
nhiều ý kiến vào bản tóm tắt dự thảo báo cáo. Trong đó, tuyệt đại đa số đều
đóng góp chân thành, tâm huyết, vừa góp ý cho cái chung, vừa liên hệ vào
thực tiễn tình hình nhiệm vụ của đơn vị mình, với mong muốn và quyết
tâm xây dựng Nghệ An sớm trở thành một tỉnh giàu đẹp, xây dựng Đảng bộ

trong sạch, vững mạnh. Đại hội nhận thấy những khó khăn của tỉnh: kết cấu
hạ tầng thấp kém, trình độ cơng nghệ, kỹ thuật lạc hậu, sản xuất hàng hóa
chậm phát triển, song chúng ta đã phát huy được truyền thống cách mạng,
đoàn kết vươn lên giành được những thành tựu quan trọng. Trong đó, hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có những chuyển biến phục vụ tốt
cho nhiệm vụ chính trị, xây dựng con người mới, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII trình
đại hội XIV nhiệm kỳ 1996 – 2000 đã đưa ra những chủ trương nhằm phát

19


huy hơn nữa truyền thống tốt đẹp của văn hóa và con người xứ Nghệ: “Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa trong và ngồi nước, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp
của văn hóa xứ Nghệ. Đẩy mạnh cơng tác văn hóa quần chúng, xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở. Cần có nhận thức đúng về nhân tố gia đình trong
cộng đồng dân cư, coi trọng xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa.
Phát triển mạng lưới phát thanh, truyền hình, báo chí, thơng tin cổ động đến
tận cơ sở. Khuyến khích các sáng tạo văn hóa – nghệ thuật lành mạnh, cổ
vũ người tốt, việc tốt, cái đẹp, cái thiện, lên án những tệ nạn xã hội, những
hành vi tiêu cực trong quan hệ xã hội. Bảo tồn và nâng cấp các di tích lịch
sử, văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống, bảo vệ các danh lam thắng cảnh,
sưu tầm các tư liệu lịch sử, nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương, lịch
sử đảng bộ” [20, tr.42].
Cũng trong đại hội Đảng lần thứ XIV này, Đảng bộ đã đề ra những
nhiệm vụ cho ngành văn hóa trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2000:
“Đẩy mạnh phong trào văn hóa quần chúng, xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa. Có chính sách đầu tư ưu tiên để
phát triển sự nghiệp văn hóa thơng tin, một số cơng trình văn hóa, bảo tồn

bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa xứ Nghệ, chống xuống cấp một số di tích
quan trọng” [20, tr.93]. Với tất cả tinh thần trách nhiệm và sự nỗ lực cố
gắng trong các nhiệm vụ, mục tiêu mà Đại hội đề ra, trong đó đặc biệt chú
ý tới lĩnh vực văn hóa mà cụ thể là bảo tồn và phát huy các giá trị di tích
lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, nhân dân toàn tỉnh hy vọng Đại hội
sẽ hoàn thành xuất sắc sứ mạng lịch sử của Đảng bộ, đáp ứng lòng mong
mỏi của đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh.

20


Di tích lịch sử - văn hóa giữ vai trị quan trọng, là nguồn tài nguyên
vô hạn cho việc sản xuất hàng hóa dịch vụ du lịch. Từ đó kích thích tiêu
dùng tạo ra những sản phẩm mang giá trị đặc trưng, làm thỏa mãn các nhu
cầu đa dạng của khách du lịch và đem lại nguồn tài chính đáng kể, góp
phần làm tốt cơng tác bảo tồn. Hơn nữa, việc phát huy tốt giá trị của di sản
còn mang lại một lợi nhuận vô giá về mặt tinh thần, bởi thơng qua việc hiểu
biết về di sản văn hóa sẽ có tác động trực tiếp tới phương diện giáo dục,
giúp vun đắp tình cảm cho mỗi cá nhân và cộng đồng. Nhận thấy tầm quan
trọng đặc biệt của các di tích lịch sử - văn hóa trong việc phát triển ngành
du lịch, thu hút khách thập phương về tham quan và nghỉ dưỡng, Đảng bộ
Nghệ An đã đưa ra một số nhiệm vụ cho ngành du lịch: “Tiến hành quy
hoạch, xây dựng các khu du lịch hòa nhập với tuyến du lịch của cả nước và
quốc tế. Trước mắt, tập trung quy hoạch và từng bước tiến hành xây dựng
khu du lịch Cửa Lò, Bãi Chùa (Đảo Ngư), Bãi Hoang (Nghi Thiết), lâm
viên núi Quyết, công viên trung tâm thành phố Vinh, cụm di tích Nam Đàn,
khu rừng nguyên sinh Phù Mát; có kế hoạch bảo tồn, trùng tu, tơn tạo các
di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng, nâng cấp và xây dựng mới các tụ
điểm vui chơi giải trí, hệ thống khách sạn, nhà hàng và nâng cao chất lượng
phục vụ” [20, tr.36].

Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIV đã kế thừa công tác của
nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII. Trên cơ sở đó, trong lĩnh vực bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc Đại hội đã có hướng đi mới, quan tâm hơn đến vấn đề kết
hợp thăm quan di tích lịch sử văn hóa với phát triển du lịch, đồng thời nâng
cấp cải tạo các cơng trình phục vụ phát triển văn hóa - du lịch, đây được coi
là một bước tiến mới khả quan. Tin tưởng với những hướng đi mới, Đại hội

21


×