Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vai trò của cơ quan năng lượng quốc tế iea đối với vấn đề an ninh năng lượng những năm đầu thế kỷ xxi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.37 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HÀN THỊ THU HUYỀN

VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN NĂNG LƯỢNG
QUỐC TẾ (IEA) ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ AN NINH
NĂNG LƯỢNG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế

Hà Nội-2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HÀN THỊ THU HUYỀN

VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN NĂNG LƯỢNG
QUỐC TẾ (IEA) ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ AN NINH
NĂNG LƯỢNG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đào Minh Hồng


Hà Nội-2014


MỤC LỤC

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1.

Lí do chọn đề tài: ....................................................................................................... 1

2.

Mục đích nghiên cứu: ................................................................................................ 2

3.

Lịch sử nghiên cứu đề tài: ......................................................................................... 3

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài: .................................................................. 6

5.

Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................................... 7

6.


Cấu trúc luận văn: ..................................................................................................... 9

7.

Những đóng góp của luận văn:.................................................................................. 9

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CƠ QUAN NĂNG LƯỢNG QUỐC TẾ (IEA) ................... 12
1.1 Bối cảnh ra đời của IEA .............................................................................................. 12
1.1.1 Bối cảnh quốc tế : ................................................................................................. 12
1.1.2 Yêu cầu thành lập một tổ chức mới của các nước công nghiệp .............................. 16
1.1.3 Các bước đi ngoại giao và tổ chức cho sự thành lập IEA ..................................... 16
1.2 Nguyên tắc tổ chức của IEA ....................................................................................... 20
1.2.1 Mục đích hoạt động của IEA ................................................................................ 20
1.2.2 Cơ cấu tổ chức của IEA ....................................................................................... 21
1.2.3 Nguyên tắc hoạt động: .......................................................................................... 27
1.3 Phản ứng trước các cuộc khủng hoảng nguồn cung của IEA trong thế kỷ XX : ........... 29
1.3.1 Phản ứng trước cuộc khủng hoảng nguồn cung 1979-1981:.................................. 29


1.3.2 Phản ứng trước cuộc khủng hoảng vùng Vịnh 1990-1991 ..................................... 30
Tiểu kết: ........................................................................................................................... 31
CHUƠNG 2: AN NINH NĂNG LƯỢNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA IEA TRONG NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI .................................................................................................... 33
2.1 Vấn đề an ninh năng lượng đầu thế kỷ XXI ................................................................. 36
2.1.1 Thực trạng tiêu thụ năng lượng trên thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI. .... 36
2.1.2 Sự bất ổn định của thị trường dầu mỏ .................................................................. 42
2.1.3 An ninh năng lượng trong quan hệ giữa các nước lớn trong thế kỷ XXI ................ 43
2.2 Những hoạt động nổi bật của IEA trong những năm đầu thế kỷ XXI ........................... 47
2.1.1 Tư vấn chính sách năng lượng quốc gia cho các quốc gia thành viên.................... 47

2.1.2 IEA lập mạng năng lượng thơng minh tồn cầu: ................................................... 48
2.1.3 Thúc đẩy chính sách năng lượng bền vững: .......................................................... 50
2.1.4 Hợp tác công nghệ năng lượng đa quốc gia .......................................................... 53
2.1.5 Tiếp tục các hoạt động ứng phó với tình trạng gián đoạn nguồn cung. .................. 56
Tiểu kết: ........................................................................................................................... 58
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA IEA TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI ................ 59
3.1 Đánh giá vai trị của IEA trong thế kỷ XXI.................................................................. 60
3.1.1 IEA đóng vai trò củng cố an ninh dầu mỏ-nội dung cốt lõi của an ninh năng
lượng: ........................................................................................................................... 60
3.1.2 IEA đóng vai trị tích cực, “đầu tàu” trong thúc đẩy hợp tác quốc tế liên quan
đến an ninh năng lượng thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI: ............................... 63
3.1.3 IEA đóng vai trị định hướng và định hình các nội dung cốt lõi cho việc thực
hiện mục tiêu năng lượng bền vững: .............................................................................. 66
3.2. Triển vọng ................................................................................................................. 70
Tiểu kết: ........................................................................................................................... 76
KẾT LUẬN ............................................................................................................................................ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................... 82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APEC

Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương

BP

British Petroleum
Tập đồn dầu khí đa quốc gia Anh


EEC

European Economic Community
Ủy ban Kinh tế Châu Âu

EIA

U.S. Energy Information Administration
Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ

IAEA

International Atomic Energy Agency
Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế

IEA

International Energy Agency
Cơ quan Năng lượng Quốc tế

IRENA

International Renewable Energy Agency
Cơ quan Năng lượng tái tạo Quốc tế

I.E.P

International Energy Program (I.E.P. Agreement)
Hiệp định mang tên “Chương trình Năng lượng Quốc tế”


OECD

Organization for Economic Co-operation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

OPEC

Organization of the Petroleum Exporting Countries
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tiêu thụ dầu theo khu vực và các nước tiêu thụ dầu lớn trong mỗi
khu vực (2008-2012).
Biểu đồ 2.1 Lượng tiêu thụ và dự đoán theo nguồn năng lượng.
Biểu đồ 2.2: Giá dầu theo các năm (USD)


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài:
Sang thế kỷ XXI an ninh năng lượng được coi là “chìa khóa” để mỗi quốc gia
và nền kinh tế của mình được “bảo vệ” khỏi các nguy cơ có thể ảnh hưởng
đến trạng thái kinh tế - xã hội của quốc gia và làm chậm hoặc ngăn cản đà
tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy vấn đề an ninh năng lượng ln là vấn đề
quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia cũng như trong quan hệ quốc tế, nó đã
tạo ra những “điểm nóng” hay thậm chí là những “cuộc chiến” ngấm ngầm
lẫn công khai diễn ra ngày càng phức tạp. Trong thế giới hiện nay, một biến
động ở một địa điểm giàu năng lượng nào đó cũng đủ làm cả khu vực lên cơn
sốt, gây đau thương tang tóc, giá dầu tăng vọt, và kinh tế toàn cầu lâm nguy.

Thực vậy, với cầu năng lượng ngày một lên cao, cung năng lượng ngày một
cạn kiệt, trong thực tế, nhân loại đang bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên địa - năng lượng. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia tăng lên, thế giới dường như trở nên nhỏ bé hơn,
nhưng lại khó kiểm sốt hơn, kém an tồn hơn bởi các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống có mức độ nguy hiểm cao hơn, sức ảnh hưởng lớn hơn, tầm ảnh
hưởng rộng hơn và tốc độ lây lan cũng nhanh hơn… Hiện nay, những vấn đề
“an ninh phi truyền thống” đã vượt qua khỏi phạm vi lợi ích an ninh quốc gia
của một nước, trở thành những thách thức mang tính tồn cầu. Tăng cường
hợp tác, cùng nhau phối hợp hành động chung đang là xu thế và giải pháp
quan trọng nhằm đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay đã
tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực và cả
các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Bước sang thế kỷ XXI vai trò của các tổ
chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ quốc tế ngày càng có tiếng nói hơn.
1


Đơn cử như Tổ chức Greenpeace (Hịa bình xanh) với các hoạt động để thay
đổi thái độ và hành vi, để bảo vệ và duy trì mơi trường cũng như thúc đẩy hịa
bình. Greenpeace hiện có mặt tại 40 quốc gia dọc châu Âu, châu Mỹ, châu Á
và Thái Bình Dương, tổ chức có nhiệm vụ nghiên cứu, vận động hành lang,
ngoại giao một cách kín đáo cũng như cơng khai. Greenpeace là tiếng nói của
2,8 triệu người ủng hộ trên khắp thế giới và kêu gọi hàng triệu triệu người hãy
hành động ngay từ ngày hôm nay để bảo vệ môi trường sống.
Bước sang thế kỷ XXI, vấn đề an ninh năng lượng là một đề tài nóng được
cộng động Quốc tế quan tâm, đã có nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế được
thành lập như IAEA, IRENA, IEA, Tổ chức Năng lượng Mỹ La Tinh, Diễn
đàn Năng lượng Quốc tế (IEF)… nhằm tăng cường sự hợp tác quốc tế và khu
vực hơn nữa trong việc giải quyết các vấn đề về năng lượng. Để tìm hiểu vai
trị của việc hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề an ninh năng lượng,

tôi đã quyết định chọn “ Vai trò của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA)1 đối
với vấn đề an ninh năng lượng trong những năm đầu thế kỷ XXI” làm đề tài
nghiên cứu của mình.

2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá vai trị của Cơ quan Năng lượng
Quốc tế đối với vấn đề an ninh năng lượng trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, người viết xác định ba nhiệm vụ cần hồn
thành như sau:
Một là, đánh giá vai trị của IEA đối với vấn đề an ninh năng lượng thế giới
những năm đầu thế kỷ XXI;

1 Tên tiếng Anh là International Energy Agency, còn được dịch là Tổ chức Năng lượng thế giới

2


Hai là, lợi ích thực sự mà tổ chức này mang lại chỉ cho các nước thành viên
hay cho cộng đồng quốc tế;
Ba là, những đánh giá của người viết về tác động của IEA đối với quan hệ
quốc tế. Người viết sẽ đưa ra những nhận định của mình thông qua những
hoạt động của IEA trong những năm đầu thế kỷ XXI.

3. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu về an ninh năng lượng đã có rất nhiều cơng trình khoa học đi
trước trong đó phải kể đến Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Chính sách ngoại giao
năng lượng của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI”(2011) của tác
giả Nguyễn Minh Mẫn. Người viết đã kế thừa các khái niệm về năng lượng,
an ninh năng lượng và các thông tin về bối cảnh năng lượng thế giới làm tiền
đề cơ bản khi thực hiện đề tài. Đặc biệt tác giả đã đưa ra một bức tranh toàn

cảnh về chính sách năng lượng của Trung Quốc, một quốc gia có tốc độ phát
triển vượt bậc trong những năm đầu thế kỷ XXI, năng lượng trở thành trọng
tâm trong chiến lược ngoại giao Trung Quốc. Đây chính là tài liệu quan trọng
đã hỗ trợ người viết hoàn thiện tốt chương II với các nội dung liên quan đến
tổng quan về an ninh năng lượng thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI
làm nổi bật lên bối cảnh thế giới và những hành động của IEA đã phát triển
theo hướng như thế nào trong bối cảnh an ninh năng lượng của thế kỷ mới .
Với bất cứ đề tài nghiên cứu về quan hệ quốc tế nào việc tìm hiểu về bối cảnh
lịch sử và diễn biến trong quan hệ quốc tế trong mỗi thời kỳ là một bước
không thể bỏ qua và nó được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ đề tài, trên
cái nền bối cảnh ấy, người viết mới có thể đưa ra các lập luận phù hợp dựa
trên mối quan hệ tương tác giữa các chủ thể…Khi nghiên cứu đề tài của mình
người viết đã sử dụng cuốn sách Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (19452000) của tác giả Trần Nam Tiến, Nhà xuất bản Giáo dục năm 2008 để làm

3


tiền đề cho những nội dung nghiên cứu đầu tiên về bối cảnh lịch sử, tình hình
quan hệ quốc tế trong thế kỷ trước là những tiền đề cho sự ra đời của IEA.
Ngồi ra, người viết cũng tìm đọc và tham khảo một số bài báo, tạp chí
chuyên ngành như: Lê Thị Ái Lâm: An ninh năng lượng thế giới: lịch sử hình
thành và những nhân tố mới trong thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi
và Trung Đông số 9 (97) tháng 9.2013; House of Commons Library, Energy
Security, research papers 7/42, 9-may-2007; Trung Đông-Bắc Phi bất ổn,
dầu mỏ tiếp tục lĩnh hậu quả, cũng cung cấp cho
người viết các thơng tin cơ sở về tình hình an ninh năng lượng trên thế giới
Về Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) tại Việt Nam, vẫn chưa có một cơng
trình nào nghiên cứu tồn diện về tổ chức và vai trị của nó đối với an ninh
năng lượng thế giới. Tuy nhiên, lại có một số cơng trình nghiên cứu nước
ngoài đã tổng kết về hoạt động và ảnh hưởng của nó trên một số lĩnh vực hoạt

động khác nhau. Đây cũng chính là nguồn tài liệu chính và quan trọng cho
người viết để hoàn thành đề tài, dưới đây xin nêu ra một số cơng trình nghiên
cứu tiêu biểu:
- Cuốn sách“IEA the first twenty years 1974-1994” (IEA trong 20 năm đầu
hoạt động 1974-1994) với các tập I, II, III, IV của tác giả Richard Scott, được
OECD xuất bản năm 1994. Bốn tập liên tiếp của ấn phẩm này là những tài
liệu vô cùng quý giá cho người viết khi nghiên cứu về IEA. Tập I cung cấp
toàn bộ thơng tin về sự hình thành của IEA, cấu trúc, chức năng và nhiệm vụ
của từng cơ quan trong IEA, các nguyên tắc hoạt động...cho phép người đọc
có cái nhìn tổng quan về tổ chức quốc tế này. Chương II cung cấp các thơng
tin về chính sách và hành động chính của IEA trong 20 năm đầu thành lập,
đây là tài liệu tham khảo giúp người viết đưa ra các nhận định về hướng hoạt
động của IEA thế kỷ XX, là tiền đề để nhận ra sự chuyển biến trong phương

4


hướng hoạt động của IEA khi bước vào thế kỷ XXI. Các tập III và IV cung
cấp các tài liệu bổ sung cho hai tập đầu: tập III lại cung cấp các văn bản gốc
của của IEA, tập IV lại bổ sung các nội dung cho ba tập đầu nhấn mạnh vào
cơ cấu và các hoạt động đảm bảo an ninh dầu mỏ của IEA với các thông tin
như: thành viên, cấu trúc nội bộ, quan sát viên, hình thức và tổ chức các cuộc
họp cấp bộ trưởng, các dẫn chứng về hệ thống chia sẻ thông tin dầu mỏ….tuy
nhiên do giới hạn nghiên cứu về vai trò của IEA nên tập III và tập IV được
người viết sử dụng như một cuốn “từ điển” tra cứu các dẫn chứng, chứ ít sử
dụng các dữ liệu một cách trực tiếp như hai tập đầu.
- Bài nghiên cứu “Soft Persuasion Through IEA Energy Policy Reviews:
Transitions Towards Sustainable Energy?”của tác giả Markku Lehtonen, Đại
học Sussex, Anh đưa ra khái niệm “sự thuyết phục mềm” của cơ chế hợp tác
IEA và IEA sẽ sử dụng “sự thuyết phục mềm” thông qua các công cụ và

phương tiên nào để kích thích q trình chuyển đổi cơ bản của các nước thành
viên hướng đến chính sách năng lượng bền vững.
- Các ấn phẩm thường niên “World Energy Outlook” (Triển vọng năng
lượng thế giới) do IEA xuất bản tổng hợp các hoạt động tích cực của IEA
trong việc nghiên cứu và truyền tải các thông tin về năng lượng. Tác phẩm
giúp người viết có được các số liệu, bảng biếu về nhu cầu năng lượng, mức độ
tiêu thụ năng lượng, chính sách năng lượng của các quốc gia trên website của
IEA www.iea.org/publications/ và trên website của Cơ quan thông tin năng
lượng Hoa Kỳ (EIA) (www.eia.gov) được người viết tổng hợp, phân tích và
đưa ra những nhận định khái quát về đà tăng trưởng hoặc giảm sút theo từng
thời kỳ các thông số về năng lượng như nhu cầu, tiêu thụ, sản xuất, triển
vọng. Đồng thời việc tiếp cận với các số liệu của cùng một tiêu chí nội dung
do hai cơ quan IEA và EIA đưa tạo điều kiện cho việc so sánh giữa các nguồn
thông tin khác nhau, đồng thời giúp người đọc thấy được tương quan giữa các

5


số liệu, tim hiểu nguyên nhân của sự khác biệt nếu có và chọn lọc được các
dữ liệu đáng tin cậy.
Ngồi ra cịn có các tài liệu khác về các hoạt động của IEA trong cả thế kỷ
XX và XXI sẽ được đề cập chi tiết trong mục Tài liệu tham khảo phía sau.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Chủ thể nghiên cứu của đề tài là những hoạt động của IEA trong việc đảm
bảo an ninh năng lượng từ đó đánh giá vai trị của IEA đối với an ninh năng
lượng thế giới trong bối cảnh an ninh năng lượng trong thế kỷ XXI.
Hiện nay IEA hoạt động trên 4 lĩnh vực chính:
An ninh năng lượng : Thúc đẩy sự đa dạng, hiệu quả và tính linh hoạt
trong tất cả các lĩnh vực năng lượng;

Phát triển kinh tế : Đảm bảo cung cấp ổn định năng lượng cho các
nước thành viên IEA và thúc đẩy thị trường tự do để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo;
Nâng cao nhận thức về mơi trường : Tăng cường kiến thức mang tính
Quốc tế về các lựa chọn để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.
Hợp tác quốc tế về năng lượng : Phối hợp chặt chẽ với các nước
không phải thành viên, đặc biệt là nhà sản xuất lớn và người tiêu dùng,
để tìm giải pháp cho năng lượng chia sẻ và vấn đề môi trường.
Trong giới hạn thực hiện đề tài, người viết chỉ dừng lại ở các hoạt động của
IEA liên quan đến đảm bảo an ninh năng lượng chung cho các quốc gia thành
viên và an ninh năng lượng chung trên toàn thế giới trong những năm đầu thế
kỷ XXI, các hoạt động liên quan đến phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
chưa được đề cập tới hoặc chỉ được đề cập gián tiếp vài khía cạnh nào đó
phục vụ cho việc giải quyết các câu hỏi nghiên cứu. Chẳng hạn trong Chương
3, mục 3.2, khi phân tích các hoạt động của IEA về phát triển các nguồn năng
6


lượng mới, hoặc sử dụng tiết kiệm và hiêu quả các nguồn năng lượng, các
hoạt động này đồng thời liên quan đến vấn đề an ninh năng lượng đồng thời
liên quan đến khía cạnh bảo vệ mơi trường, chống biến đổi khí hậu tuy nhiên
khía cạnh này chưa được đề cập đến cụ thể và trực tiếp, mà nó chỉ được đề
cập đến như một trong những hành động đảm bảo sử dụng tiết kiệm nguồn
cung và phát triển các nguồn cung thay thế hướng đến mục tiêu an ninh năng
lượng được đảm bảo.

5. Phương pháp nghiên cứu:
Người viết đã xác định các phương pháp nghiên cứu chính sau đây để thực
hiện nghiên cứu đề tài của mình:
Đầu tiên, đó là Phương pháp lịch sử. Phương pháp lịch sử được sử dụng

xuyên suốt trong toàn luận văn. Đặc biệt trong Chương I, người viết phải
bám sát theo các sự kiện trong bối cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của IEA.
Trong chương I, khi phân tích các hoạt động nổi bật của IEA trong thế kỷ XX
người viết đã vận dụng phương pháp lịch sử theo hai hướng đó là chọn lọc
các sự kiện lịch sử quan trọng mang tính chất tiêu biểu trong mỗi giai đoạn và
liệt kê các sự kiện theo thứ tự thời gian. Chương II cũng được vận dụng
phương pháp lịch sử, bám sát các dòng sự kiện, các hoạt động của IEA trong
từng năm để thấy được sự thay đổi, chuyển hướng trong chính sách và hoạt
động của IEA.
Do đề tài liên quan đến vấn đề an ninh năng lượng với đặc trưng là các dữ
liệu số, bảng biểu nên phương pháp thống kê là một phương pháp cần thiết
phải ứng dụng. Dựa trên các suy luận logic có được trong q trình phân tích
số liệu về an ninh năng lượng như: nhu cầu năng lượng trên thế giới, nguồn
cung năng lượng, các dự đoán nhu cầu năng lượng của thế giới, các nguồn
năng lượng thay thế….người viết đã đưa ra một bức tranh khái quát nhất về
7


tình hình an ninh năng lượng trên thế giới. Với bối cảnh đó, các hoạt động của
IEA sẽ tác động đến quan hệ quốc tế như thế nào, phương pháp thống kê đã
giúp người viết có những cơ sở định lượng để đánh giá ảnh hưởng và kết quả
của những hành động tập thể của IEA trong các cuộc khủng hoảng nguồn
cung ở các thời kỳ khác nhau. Đồng thời khi phân tích sự thay đổi, chuyền
hướng hoạt động của IEA và các quốc gia thành viên khi bước sang thế kỷ
XXI, có rất nhiều dữ liệu số để minh chứng cho việc các hoạt động của IEA
trong những năm đầu thế kỷ XXI bước đầu đã đạt được một số kết quả khả
quan.
Đề tài sẽ khơng thể hồn thiện nếu thiếu đi phương pháp liên ngành. Đề tài
liên quan đến nhiều chuyên ngành và nguồn tài liệu cũng được thu thập từ các
lĩnh vực khác nhau với cách tiếp cận và nhìn nhận vấn đề đặc trưng khác nhau

như Lịch sử, Chính trị, Năng lượng, Quan hệ quốc tế, Kinh tế và cả Mơi
trường, địi hỏi người viết phải biết khái quát, so sánh các nguồn thông tin để
đưa ra các luận điểm, luận cứ, luận chứng phù hợp với chuyên ngành quan hệ
quốc tế. Phương pháp này đặc biệt được sử dụng trong chương II khi nghiên
cứu về sự chuyển biến trong hoạt động của IEA (liên quan đến các lĩnh vực
Kinh tế, Môi trường, Năng lượng….) từ đó đánh giá vai trị của IEA đối với
vấn đề an ninh năng lượng trong những năm đầu thế kỷ XXI trong chương III;
sự tác động của IEA đối với quan hệ quôc tế và những triển vọng của IEA
trong thời gian tới.
Và cuối cùng, đó là phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. Phương pháp
nghiên cứu Quan hệ quốc tế với các cấp độ phân tích được áp dụng trong mọi
nội dung nghiên cứu: từ bối cảnh chung về an ninh năng lượng tồn cầu đến
các chính sách ngoại giao năng lượng, nhu cầu năng lượng của các quốc gia
đã tương tác như thế nào đến nền năng lượng thế giới, những hướng hoạt
động của IEA trong bối cảnh Quốc tế và triển vọng của nó trong tương lai.

8


6. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn được chia thành
3 chương với nội dung chính như sau:
Chương 1: Khái quát những thông tin cơ bản về bối cảnh ra đời, nguyên tắc
tổ chức của IEA và những hoạt động của IEA trước thế kỷ XXI.
Chương 2: Tình hình an ninh năng lượng trên thế giới và những hành động
nổi bật của IEA trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ XXI.
Chương 3: Dựa trên những hoạt động của IEA trong những năm đầu thế kỷ
XXI từ đó đánh giá vai trị của Cơ quan này đối với vấn đề an ninh năng
lượng đang ngày càng căng thẳng trên toàn thế giới cũng như dự báo các xu
hướng phát triển của IEA trong thời gian tới.


7. Những đóng góp của luận văn:
Trong bối cảnh khủng hoảng nguồn cung và những mâu thuẫn, tranh chấp
trong quan hệ quốc tế xoay quanh vấn đề an ninh năng lượng đang diễn ra
ngày càng phức tạp, liệu các tổ chức quốc tế có thể có những tác động tích
cực đến tình hình an ninh năng lượng của thế giới hay chỉ dừng lại ở mục tiêu
đảm bảo lợi ích của các nước thành viên. Luận văn phần nào đưa ra quan
điểm cá nhân về vấn đề này thơng qua việc đánh giá về vai trị và tác động
của một cơ chế hợp tác năng lượng quốc tế cụ thể ở đây là Cơ quan Năng
lượng Quốc tế (IEA).
Hiện nay, vấn đề an ninh năng lượng thường xuyên xuất hiện trong các
chương trình nghị sự của các quốc gia và các tổ chức khu vực trên thế giới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đóng góp một cái nhìn tổng quan về
một cơ chế hợp tác năng lượng quốc tế và giúp người đọc có thể so sánh các

9


cơ chế hợp tác năng lượng khác nhau để tìm ra ưu và nhược điểm của các cơ
chế hợp tác này. Chẳng hạn, ở khu vực Đông Nam Á, hàng năm các nước
ASEAN đều tổ chức Hội nghị Bộ trưởng năng lượng các nước ASEAN để
thảo luận và đưa ra các chương trình hợp tác đa phương, song phương giữa
các quốc gia thành viên hoặc các quốc gia khác (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ….) trong lĩnh vực năng lượng. Xét về hình thức hoạt động, Hội
nghị Bộ trưởng Năng lượng ASEAN có một số điểm tương tự với hình thức
hoạt động của IEA như định kỳ Bộ trưởng Năng lượng của các nước thành
viên sẽ nhóm họp để đưa ra các chương trình hành động hợp tác năng lượng
trong và ngồi nhóm trong một giai đoạn cụ thể. Tuy nhiên xét về tính chất
hoạt động thì IEA có cơ cấu tổ chức quy mô và chặt chẽ hơn, có tính ràng
buộc hơn giữa các nước thành viên và có những quy định về một hành động

chung nhất quán hơn. Theo đó, các nước thành viên buộc phải tham gia xây
dựng kho dự trữ dầu hoặc trong trường hợp có những sự cố khủng hoảng
năng lượng, các nước thành viên sẽ nhóm họp nhanh để đưa ra các hành động
chung thích hợp theo tình hình hiện tại, sau đó, các nước thành viên được yêu
cầu tuân thủ các hành động chung này. Có thể thấy việc có một hành động
chung giữa các nước thành viên trước các diễn biến phức tạp về an ninh năng
lượng hiện nay là một hành động cụ thể và có tính phản ứng nhanh nếu khủng
hoảng nguồn cung xảy ra và cơ chê này có thực sự cần thiết và mang lại hiệu
quả như mong đợi nếu được áp dụng ở các cơ chế hợp tác năng lượng quốc tế
khác hay khơng cịn tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà nguyên nhân là do sự khác
biệt về trình độ phát triển của các nước thành viên, mức độ tiêu thụ năng
lượng trong từng khu vực, trọng tâm phát triểm năng lượng trong từng giai
đoạn, mục tiêu cơ bản của cơ chế khác nhau…
Người viết cũng hy vọng luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho sinh
viên, những người có quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực an ninh năng lượng

10


hoặc tìm hiểu về Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA). Luận văn cũng mở ra
những hướng nghiên cứu tiếp theo như: vai trò của IEA đối với sự phát triển
của các nước thành viên; hoặc có thể phát triển đề tài theo hướng nghiên cứu
sâu hơn sự hợp tác quốc tế giữa IEA với các tổ chức khác, với các nước
không thành viên trong vấn đề an ninh năng lượng…

11


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CƠ QUAN NĂNG LƯỢNG
QUỐC TẾ (IEA)

1.1 Bối cảnh ra đời của IEA
1.1.1 Bối cảnh quốc tế :
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, trật tự thế giới hai cực Yalta được thiết
lập, thế giới bị chia thành hai cựa với Mỹ và Liên Xô đứng đầu mỗi bên và
kéo theo nó là cuộc chiến tranh lạnh đối đầu Xô-Mỹ và hai khối Đông-Tây
trong suốt nhiều thập kỷ.
Trung Đông nằm trên cả ba châu lục (Âu, Á, Phi) nối liền hai vùng biển Địa
Trung Hải và Ấn Độ Dương, chính vì vị trí này mà khu vực Trung Đông đã
thu hút nhiều cường quốc đến chinh phục và thay nhau cai trị ở vùng đất này.
Từ khi kênh đào Suer hoàn thành năm 1868 mở đường từ châu Âu sang Ấn
Độ và phương Đông, đặc biệt là việc phát hiện một trữ lượng dầu mỏ lớn nằm
ở khu vực này vào năm 1908 thì Trung Đông lại càng trở nên quan trọng,
luôn luôn chiếm vị trí chiến lược hàng đầu trong chính sách đối ngoại của
nhiều cường quốc trên thế giới [3,tr. 206].
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đế quốc Ottaman bị đánh bại
khỏi khu vực này. Anh, Pháp vào thế chân lập ra chế độ quản thác nhưng thực
tế là chia nhau để thống trị, đô hộ và khai thác tài nguyên khống sản ở khu
vực này. Nhân dân Arab đã khơng ngừng đấu tranh để giành lại độc lập.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai để xoa dịu phong trào đấu tranh của
nhân dân Arab, chính phủ Anh nhiều lần tuyên bố sẵn sàng ủng hộ, tạo điều
kiện thuận lợi cho các quốc gia Arab phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị.
Được sự ủng hộ của Anh, những cơ sở đầu tiên cho việc hình thành “Liên
đồn các quốc gia Arab” đã được hình thành. Người Arab một mặt phải chống

12


lại sự quản thác của Anh đồng thời chống tuyên bố Balfour và phong trào hồi
cư lập quốc của người Do Thái. Sau chiến tranh thế giới thứ hai phong trào
khủng bố, phá hoại của người Do Thái ở Palestin lại bùng lên. Ngày 15-51948 Chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất bắt đầu. Đứng sau các lực lượng

Arab là Anh, bị mất Palestine do kết quả của Nghị quyết ngày 29-11-1947 và
sau đó là sự thành lập nhà nước Israel. Ngược lại, Mỹ muốn Israel thắng để
biến nước này thành cơng cụ chống lại phong trào giải phóng dân tộc và ngăn
chặn ảnh hưởng của Liên Xô ở Trung Đông.
Chiến tranh kết thúc với thắng lợi của Israel, mâu thuẫn trong quan hệ giữa
Israel và các nước Arab gây ra những bất ổn kéo dài tại khu vực Trung
Đông.Vụ quốc hữu hóa kênh đào Suer đã châm ngịi nổ cho Chiến tranh
Trung Đông lần thứ hai (1956) với chiến thắng nghiêng về nhân dân Arab, Ai
Cập với sự giúp đỡ của Liên Xô đã khôi phục lại việc kiểm soát đi lại trên
kênh đào Suer. Quan hệ Israel và Arab tiếp tục xấu đi và đỉnh điểm là cuộc
chiến tranh Trung Đông lần thứ ba (1967) đã đem lại chiến thắng cho Israel
có thể nói là tuyệt đối trong 6 ngày. Việc từ chối thực hiện Nghị quyết số 242
của Liên Hợp Quốc ngày 22-11-1967 về việc Israel phải rút quân ra khỏi các
lãnh thổ nước này chiếm được trong cuộc chiến sáu ngày đã đẩy Israel vào
tình cảnh cô lập trên trường quốc tế và phụ thuộc nhiều hơn vào Mỹ. Trung
Đơng tiếp tục rơi vào tình trạng mất ổn định kéo dài, hai bên Ai Cập và Israel
vẫn đối đầu quyết liệt ở khu vực kênh đào Suer. Israel vẫn luôn nhận được
hậu thuẫn từ các nước phương Tây trong khi Ai Cập được Liên Xô ủng hộ
bằng việc trợ quân sự và chuyên gia cố vấn. Để chuẩn bị cho một cuộc chiến
tranh mới, tổng thống Ai Cập Sadat chú trọng đến việc vận động ngoại giao
với các nước Arab. Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư 2 mở màn vào ngày 62 Ngày 6-10-1973 ngày lễ thánh Yom Kippur của đạo Do Thái và cũng là ngày rằm trong tháng ăn chay
Ramadan của đạo Hồi qn đội Ai Cập bất ngờ tấn cơng Israel. Chính vì sự trùng hợp này mà cuộc chiến
tranh Trung Đơng lần thứ tư còn được gọi là cuộc chiến Yom Kippur

13


10-1973 với những trận đánh vô cùng khốc liệt. Phe Arab giành được thế chủ
động trong thời gian đầu nhưng không kéo dài được lâu. Liên Hợp Quốc đã
đưa ra Nghị quyết yêu cầu hai bên ngừng bắn nhưng không được các bên

chấp nhận. Trước khi chiến tranh nổ ra ngày 23-8-1973 vua Faisal của Arab
Saudia và tổng thống Sadat của Ai Cập gặp nhau tại Riyadh và thỏa thuận là
các nước Arap sẽ sử dụng “vũ khí dầu lửa” trong cuộc chiến tranh. Ngày 1610-1973 giữa lúc cuộc chiến đang diễn ra ác liệt, các quốc gia vùng vịnh như
Kuwait, Arab Saudia, Qatar, Irag, các tiểu vương quốc Arab thống nhất và
Iran quyết định tăng giá dầu trên thị trường 77%. Hội nghị các nước xuất
khẩu dầu lửa (OAPEC) diễn ra ngày hôm sau đã quyết định: lấy sản lượng 9
tháng của các nước thành viên làm cơ sở cho quyết định giảm mỗi tháng 5%
sản lượng khai thác, đồng thời căn cứ vào thái độ của các nước đối với cuộc
chiến Israel-Ai Cập để áp dụng chính sách cấm vận dầu lửa với mức độ khác
nhau. Việc cấm vận dầu mỏ đối với các nước ủng hộ Israel kéo dài suốt từ
tháng 10/1973 tới tháng 3/1974 đã khiến phe Mỹ gặp khơng ít khó. Lệnh cấm
vận được thực hiện một cách có chọn lọc và có chủ ý. Bởi vậy “các quốc gia
được gọi là thân thiện” vẫn tiếp tục nhận được nguồn cung như cũ mà khơng
có sự xáo trộn nào.
Thị trường dầu mỏ bị chi phối trong nhiều năm bởi các cơng ty dầu mỏ có sức
mạnh đáng kể để “làm giá” đối với các nước khai thác dầu mỏ. Trong suốt
nhiều thập kỉ trước cuộc khủng hoảng 1973-1974, sự dư thừa khả năng cung
cấp dầu mỏ của các nhà khai thác đã dẫn đến giảm áp lực lên giá trị thực phải
trả cho dầu mỏ. Khi các vấn đề về nguồn cung ngắn hạn phát sinh trong
những thời điểm này, ở Mỹ và các khu vực khác có đủ khả năng ứng phó và
xử lý đã tạo ra cảm giác an tâm về an ninh dầu mỏ đối với các nước công
nghiệp ở châu Âu và vùng Viễn Đông cũng như ở tại nước Mỹ [36, volume I,
tr.27].

14


Tuy nhiên, trong giai đoạn nửa cuối những năm 60 đầu những năm 70, việc
cung cấp dầu mỏ tương đối ổn định bắt đầu có dấu hiệu suy giảm vì thế giới
đã phụ thuộc quá nhiều vào mặt hàng này. Việc phụ thuộc vào sử dụng dầu

mỏ đã tạo nên những nguy cơ về một cuộc khủng hoảng năng lượng trầm
trọng và các vấn đề bền vững của việc quản lý nguồn cung năng lượng. Nhu
cầu dầu mỏ tăng cao trong các nước công nghiệp thông qua tăng trưởng kinh
tế, nhưng các biện pháp dự phịng năng lượng lại khơng được quan tâm đúng
mức, và việc phát triển các nguồn năng lượng thay thế cũng khơng có. Giá
dầu thấp đã làm sụt giảm đầu tư vào công nghiệp dầu mỏ ở Mỹ và suy giảm
khả năng khai thác. Những ràng buộc về mặt mơi trường bắt đầu hình thành
trong việc khai thác dầu và các nguồn năng lượng chính khác cũng góp phần
làm thắt chặt thị trường. Những yếu tố này cuối cùng cũng đã làm biến đổi
“thị trường của người mua” thành “thị trường của người bán” đối với dầu mỏ.
Hành động dùng “vũ khí dầu lửa” của OAPEC đã biến nỗi sợ hãi tồi tệ của
các nước công nghiệp cuối cùng cũng thành sự thật bắt đầu bằng việc giảm
sản lượng dầu mỏ trước đây của họ từ 20.8 triệu thùng một ngày xuống còn
15.8 triệu thùng một ngày. Sự cắt giảm này được thiết lập tăng dần theo hàng
tháng, cho tới khi đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị, và chúng đã
được thực hiện đầy đủ để tăng giá dầu đột ngột, trong một số giao dịch tại chỗ
đã tăng tới sáu lần. Việc cấm vận dầu lửa đã giáng một đòn nặng nề vào nền
kinh tế các nước phương Tây đến mức kết thúc quá trình tăng trưởng kinh tế
được gọi là “ Ba mươi năm vinh quang” kéo dài gần suốt thời hậu chiến ở các
nước này và đẩy nền kinh tế vào chu kì khủng hoảng kéo dài suốt cả một thập
niên [2,tr.358]

15


1.1.2 Yêu cầu thành lập một tổ chức mới của các nước cơng nghiệp
Chính phủ các nước tiêu thụ phương Tây nhanh chóng nhận ra rằng “tiếng
vang” về sự thành công của các quốc gia khai thác dầu mỏ trong cuộc khủng
hoảng 1973-1974 là không thể bỏ qua và rằng các vấn đề chính sách năng
lượng khơng thể trơng chờ vào các công ty dầu mỏ hay được giải quyết hiệu

quả bằng cách hành động đơn lẻ của các quốc gia. Hợp tác quốc tế thông qua
các thể chế bền vững là cần thiết để đáp ứng với những thách thức mới. Phản
ứng của các nước công nghiệp là cần thiết để đạt được nhận thức đầy đủ về
thực tế rằng thành công của các nhà khai thác dầu mỏ là kết quả từ việc phối
hợp hành động dựa trên sức mạnh kinh tế mới đạt được. Do đó các quốc gia
cơng nghiệp đã có cái nhìn mới về sự tồn tại các tổ chức hợp tác của họ trong
các vấn đề chính sách năng lượng, đặc biệt là OECD, họ nhận ra cần tạo được
một cơ cấu hợp tác phù hợp hơn cho việc củng cố đoàn kết và chia sẻ gánh
nặng khó khăn đang đang tới [36, volume I, tr.38].
1.1.3 Các bước đi ngoại giao và tổ chức cho sự thành lập IEA
 Thực trạng về mặt tổ chức của các nước công nghiệp.
Từ những năm 1963 đến những năm đầu thập niên 70 xuất hiện khủng hoảng
trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và quá trình tập hợp lực lượng mới tại các
nước phương Tây nhằm chống lại sự khống chế của Mỹ. Kế họach Marshall
của Mỹ đề ra năm 1947 đã giúp cho nền kinh tế của các nước Tây Âu phục
hồi nhưng cũng làm cho các nước này ngày càng lệ thuộc vào Mỹ. Nền kinh
tế của các nước Tây Âu có tốc độ phát triển nhanh chóng, vượt qua cả Mỹ. Từ
cuối những năm 50 tuy Mỹ vẫn là nước mạnh nhất về kinh tế, tài chính và
quân sự trong hệ thống tư bản chủ nghĩa nhưng dần dần khơng cịn chiếm ưu
thế tuyệt đối nữa. Tổng thống Pháp De Gaulle đã khởi xướng việc tập hợp lực

16


lượng các nước châu Âu để đấu tranh với Mỹ giành lại vai trị và địa vị chính
trị của họ vốn đã bị Mỹ lấn áp. Trong kinh tế cũng xuất hiện những rạn nứt
trong Khối thị trường chung , tiếp sau đó là cuộc tấn cơng vào đồng Dollar
Mỹ của Pháp.
Trong khi đó các nước cơng nghiệp khơng thống nhất về tổ chức và hành
động cũng không nhất quán. Sự khác biệt chính sách đã chia rẽ các nước công

nghiệp và những cám dỗ thúc đẩy mỗi nước đi theo con đường mà khơng
quan tâm đầy đủ tới tình cảnh của các nước khác. Tình trạng này đã khơng
được khắc phục thơng qua các hình thức hợp tác quốc tế đang tồn tại của họ
như EEC, ECG, OECD.[36, volume I, tr.43]
 Sự chuẩn bị về mặt ngoại giao
Đề nghị về việc thành lập một tổ chức năng lượng mới được khởi xướng bởi
Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger vào lúc giữa cuộc khủng hoảng 19731974, khi người Mỹ nghĩ về ảnh hưởng của vấn đề và sự cần thiết cho việc
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng được phát sinh vào thời điểm này:
Trong bài nói chuyện tại hội nghị Pilgrims ở London ngày 12/12/1973, ngoại
trưởng Kissinger thông báo rằng cuộc khủng hoảng năng lượng 1973 đã trở
thành “Thách thức Sputnik 19573trong kinh tế”. Tờ báo có uy tín lớn ở Pháp
Le Monde đã đăng tải bài diễn văn tại Hội nghị Pilgrims dưới tiêu đề “Un
Nouveau ‘Discours d Harvard” ( tạm dịch là “Bài phát biểu Harvard mới” để
so sánh với bài phát biểu tại Harvard của Ngoại trưởng Marshall ngày
5/6/1947 đề xuất Kế hoạch Marshall cho việc tái thiết kinh tế châu Âu sau
chiến tranh.
Xem xét những nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng năng lượng,
Ngoại trưởng Kissinger nhận xét “đó khơng đơn giản là sản phẩm của cuộc
3 Sputnik 1 là vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Trái Đất đã được Liên Xô phóng thành cơng vào ngày 4 tháng 10
năm 1957, sự kiện này được coi như bước mở đầu cho cuộc chạy đua không gian giữa Mỹ và Liên Xô.

17


chiến Arab – Israel; nó là hậu quả tất yếu của sự bùng nổ toàn cầu về nhu cầu
dầu mỏ vượt quá khả năng cung cấp”. Giải pháp dài hạn cho khía cạnh kinh tế
của cuộc khủng hoảng là “hết sức nỗ lực để tạo cho các nước khai thác một
động lực để tăng nguồn cung của họ, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng
nguồn cung hiện có một cách hợp lý, và phát triển các nguồn năng lượng thay
thế”.

Để thực hiện những mục tiêu này và phối hợp một chương trình nghiên cứu
quốc tế để phát triển các cơng nghệ năng lượng mới, Ngoại trưởng Kissinger
đề xuất thành lập một “Nhóm Hành động Năng lượng” bởi các nước châu Âu,
Bắc Mỹ và Nhật Bản. Tuyên bố ở Hội Pilgrims của ngoại trưởng Kissinger đã
phác thảo trong những thuật ngữ này một mơ hình có tổ chức và những mục
tiêu chủ yếu mà sau đó trở thành nền tảng cho sự thành lập Cơ quan Năng
lượng Quốc tế. Ngoại trưởng Kissinger không phải là người duy nhất đề cập
đến vấn đề này. Trước đó ít ngày, có một Hội nghị thượng đỉnh của Cộng
đồng chung châu Âu ở Copenhaghen, lúc bế mạc Hội nghị, Chủ tịch
Jorgensen tuyên bố “Các nguyên thủ quốc gia hay chính phủ cần nhìn nhận
rằng sẽ là hữu ích khi nghiên cứu với các nước tiêu thụ dầu mỏ trong phạm vi
khuôn khổ những biện pháp của OECD trong việc đối phó với các vấn đề
năng lượng trong ngắn hạn và dài hạn của các nước tiêu thụ”.
Sự kiện ngoại giao được coi là bước chuẩn bị cho việc thành lập một tổ chức
năng lượng thế giới của các nước OECD đó là Hội nghị năng lượng
Washington diễn ra từ ngày 11đến ngày 13/02/1974[36, volume I, tr.45,46]:
Sau hội nghị Pilgrims, Mỹ nhanh chóng xúc tiến hồn thành thành mục tiêu tổ
chức đã đề ra trong bài diễn văn tại Hội nghị Pilgrims. Từ ngày 1113/02/1974, Hội nghị Năng lượng Washington đã quy tụ đại diện của 13 quốc
gia tiêu thụ dầu mỏ chính ( bao gồm Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Cộng hòa

18


Dân chủ Đức, Ai-len, Ý, Nhật, Luc-xem-bua, Hà Lan, Na-Uy, Anh và Mỹ)
cũng như các quan chức cấp cao của EEC và OECD.
Ngay sau bế mạc Hội nghị Washington, Nhóm Phối hợp năng lượng (Energy
Co-ordinating Group – ECG) đã nhóm họp tại Brussels (Bỉ) để hoàn thành
yêu cầu được giao tại Hội nghị và để phát triển chương trình một cách chi tiết.
Tất cả các quốc gia tham dự Hội nghị Washington, ngoại trừ Pháp, đều tham
gia vào ECG, cùng với OECD và Cộng đồng chung châu Âu. Những nước

sau này tham gia vào ECG là Úc, Nhật, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Thổ Nhĩ Kì.
Chủ tịch đầu tiên của ECG là Đại sứ Roger Ockrent, một giáo sư Luật Quốc
tế, Đại diện thường trực của Bỉ tại OECD và từng một thời gian dài là chủ
tịch ủy ban hành pháp của OECD. Đại diện của 17 quốc gia và hai thể chế
quốc tế đã gặp nhau ở Brussels Palais d’Egmont từ tháng 3 đến tháng
11/1974, khi công việc của họ lên đến đỉnh điểm trong việc đạt được sự đồng
thuận về đề xuất thành lập IEA. Những điều này đã dẫn tới hình thành hai văn
kiện phác thảo đầu tiên. Đầu tiên là Quyết định sơ thảo của Hội đồng OECD
về việc thành lập Cơ quan Năng lượng Quốc tế, cịn được gọi chính thức là
“Quyết định của Hội đồng về việc Thành lập một Cơ quan Năng lượng Quốc
tế của Tổ chức”, sau này được quy định là “Quyết định Hội đồng”, được
thông qua ngày 15/11/1974 bởi sự nhất trí cao ngoại trừ các phiếu trắng của
Phần Lan, Pháp và Hy Lạp. Thứ hai là hiệp ước sơ thảo với nhan đề “Hiệp
định về một Chương trình Năng lượng Quốc tế”, sau này được gọi là “Hiệp
định I.E.P” hay “Hiệp định”, được kí tại Paris ngày 18/11/1974. Hoạt động
của ECG đã tiến triển tốt vượt ngồi cơng việc phân tích chính sách, đàm
phán và hoạch định chính sách. Nó cịn xác định các hướng hợp tác chính
trong chính sách năng lượng, cho phép các quan chức cấp cao của 17 quốc gia
và hai tổ chức hiểu các vấn đề của nhau, việc này có ý nghĩa quan trọng, nó
cịn cổ vũ một niềm tin vững chắc rằng nhóm có thể làm việc cùng nhau một

19


×