Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Triết học chính trị phương tây hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.97 KB, 122 trang )

đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn

đoàn thị quý

triết học chính trị ph-ơng tây hiện đại

Luận văn thạc sĩ triết học

Hà Nội, 2012


đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn

đoàn thị quý

triết học chính trị ph-ơng tây hiện đại

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết häc
M· sè: 60 22 80

Ng-êi h-íng dÉn khoa häc:
PGS. TS. Ngun Anh Tn

Hµ Néi, 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS.Nguyễn Anh Tuấn.


Tôi cũng xin cam đoan đề tài này không trùng với bất kỳ đề tài luận văn,
luận án nào đã được cơng bố ở Việt Nam.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.
Người cam đoan
Đoàn Thị Quý


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, em luôn nhận được sự quan tâm, chỉ dẫn ân
cần của các thầy cô giáo. Các thầy cô giáo không chỉ là người soi sáng cho
em trên con đường tri thức mà còn là tấm gương về lối sống và nhân cách cho
em noi theo. Có thể nói rằng luận văn thạc sĩ là thành tựu ban đầu trong sự
nghiệp nghiên cứu khoa học của em. Thành tựu đó vừa là sự kết tinh những
nỗ lực học hỏi của bản thân em, cũng đồng thời thể hiện sự tận tâm dạy dỗ
của các thầy cô giáo. Qua luận văn này, cho phép em được nói lời cảm ơn
chân thành tới các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn PGS.TS.
Nguyễn Anh Tuấn, thầy đã tận tình hướng dẫn để em có thể hồn thành luận
văn này.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
NỘI DUNG ..............................................................................................................12
CHƢƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ PHƢƠNG TÂY
HIỆN ĐẠI ................................................................................................................12

1.1. Khái niệm “triết học chính trị” ......................................................... 12
1.1.1 Các định nghĩa khác nhau về “triết học chính trị” ....................... 12
1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của triết học chính trị ............................. 17

1.2. Khái quát về triết học chính trị phƣơng Tây hiện đại .................... 23
1.2.1. Một số đặc điểm của triết học chính trị phương Tây hiện đại ...... 23
1.2.2. Phân loại sơ bộ về mặt phương pháp luận của triết học chính trị
phương Tây hiện đại ............................................................................... 28
Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 35
CHƢƠNG 2. CHỦ NGHĨA TỰ DO TRONG TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ ........37

2.1. Khái quát về chủ nghĩa tự do ............................................................ 38
2.1.1. Khái niệm “chủ nghĩa tự do” trong triết học chính trị ................ 38
2.1.2. Sự đa dạng của chủ nghĩa tự do ................................................... 46
2.2. Chủ nghĩa tự do hiện nay .................................................................. 51
Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 68
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ HỌC THUYẾT TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ KHÁC ....69

3.1. Chủ nghĩa Mác mới trong triết học chính trị phƣơng Tây hiện đại ... 69
3.1.1. Chủ nghĩa Mác nhân văn và chủ nghĩa Mác phản nhân văn ....... 69
3.1.2. Chủ nghĩa Mác phân tích .............................................................. 77
3.2. Chủ nghĩa cộng đồng và thuyết nữ quyền ....................................... 88
3.2.1. Cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa cộng đồng và chủ nghĩa tự do .. 88
3.2.2. Thuyết nữ quyền ............................................................................ 96
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................... 108
KẾT LUẬN ............................................................................................................110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................112


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với tư cách là cái phản ánh, triết học chính trị ln lấy thực tiễn làm
thước đo của chân lý. Thực tiễn vận động và biến đổi khiến cho nhiều khái
niệm, phạm trù… thuộc lĩnh vực nghiên cứu của triết học chính trị cũng thay

đổi theo. Mặt khác, chính sự nhận thức của triết học chính trị cũng có sự vận
động biến đổi.
Trong những năm cuối thế kỷ XX và thập niên đầu thế kỷ XXI, q
trình tồn cầu hóa vẫn tiếp tục làm biến chuyển tình hình thế giới nói chung,
vận mệnh mỗi quốc gia và từng cá nhân cụ thể trong xã hội nói riêng. Cùng
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là cơng nghệ thơng tin, tồn
cầu hóa đang dường như “xóa nhịa” biên giới của các quốc gia, làm thay đổi
vai trò và mối quan hệ của các nhà nước dân tộc, cơ cấu xã hội, làm gia tăng
xu hướng cá nhân hóa, làm nảy sinh hàng loạt vấn đề mang tính tồn cầu…
Bên cạnh đó, các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới gần đây, đặc biệt là
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khởi nguồn từ Hoa Kỳ vào năm 2008, đã
và đang tác động mạnh mẽ tới đời sống chính trị thế giới. Triết học chính trị
chính vì thế mà cũng có sự chuyển biến đáng kể. Có những học thuyết chính
trị ở phương Tây được xem là có sự liên đới hay là chất xúc tác cho cuộc
khủng hoảng kinh tế nói trên. Chính vì vậy nhiều nhà nghiên cứu triết học
chính trị đã và đang xem xét lại nền tảng triết học ẩn chứa bên dưới các học
thuyết này. Cuộc tranh luận về triết học chính trị phương Tây đương đại đã
cho thấy phần nào tinh thần của thời đại cũng như sự vận động nội tại của
chính các lý luận này.
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, với tinh thần cởi mở và trong
khơng khí ảnh hưởng của bối cảnh “thế giới phẳng”, việc học tập và nghiên
cứu triết học phương Tây nói chung và triết học chính trị phương Tây nói
riêng ngày càng gia tăng. Những nội dung, vấn đề cụ thể của triết học chính

1


trị phương Tây đã được quan tâm nghiên cứu dưới dạng những tư tưởng về
chính trị của các nhà triết học trong lịch sử triết học, đặc biệt là triết học chính
trị Mác-xít. Những tư tưởng chính trị của các nhà triết học chính trị phương

Tây thường được phân tích và đánh giá dưới lăng kính của triết học Mác. Tuy
nhiên, ở Việt Nam và cả phương Tây, việc xem xét định nghĩa, phương pháp,
chức năng của triết học chính trị nói chung vẫn chưa có sự thống nhất. Trong
khi tại phương Tây, vấn đề này được tranh luận sôi nổi thì ở Việt Nam, vấn đề
này vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Một thời gian dài trước đây ở Việt
Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, những vấn đề của triết học chính trị
thường được xem xét trong khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật lịch sử, để phần
nào khoả lấp chỗ trống này, việc nghiên cứu đưa ra khái niệm “triết học chính
trị” cũng là cần thiết đối với người viết luận văn.
Ngoài ra, đặc điểm triết học chính trị phương Tây hiện đại cũng như
cách phân chia các luồng lý luận chính trị theo quan niệm của nhiều nhà
nghiên cứu phương Tây đương đại cũng chưa được nghiên cứu thích đáng.
Trong khn khổ luận văn, chúng tơi khơng có tham vọng chỉ ra chi tiết tất cả
mọi vấn đề của triết học chính trị phương Tây hiện đại, cũng như đưa ra cách
giải quyết cho những vấn đề hiện vẫn đang nằm trong vòng tranh luận của các
nhà nghiên cứu phương Tây hiện đại về triết học chính trị; ở đây chúng tơi chỉ
hướng tới mục đích khái quát phần nào tinh thần của triết học chính trị
phương Tây hiện nay, chỉ ra quan niệm của các nhà nghiên cứu triết học chính
trị phương Tây về chính bộ mơn khoa học này của họ. Đó là lý do cơ bản nhất
để người viết chọn “Triết học chính trị phương Tây hiện đại” làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Triết học chính trị là một trong những nội dung triết học thịnh hành
được nhiều học giả trên thế giới và Việt Nam chú trọng nghiên cứu. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, triết học chính trị nói chung và triết học chính trị phương
Tây hiện nay nói riêng được tập trung nghiên cứu theo hướng phân tích tư
2


tưởng triết học chính trị của một số triết gia hoặc một số trào lưu trong lịch sử

tư tưởng triết học, hoặc một số chủ đề của triết học chính trị như tự do, bình
đẳng, quyền… Những cơng trình kiểu này khá phong phú ở Việt Nam. Trong
bài viết “Một số quan niệm cơ bản về triết học chính trị ở Việt Nam” [12], tác
giả Phạm Anh Hùng đã khái quát về thực trạng nghiên cứu triết học chính trị
tại Việt Nam. Theo tác giả, ở Việt Nam, khái niệm, đối tượng, chức năng của
triết học chính trị vẫn chưa có sự thống nhất. Do vậy, “triết học chính trị ở
Việt Nam vẫn chưa có sự định hình một cách rõ nét” [12; 1]. Và tác giả cũng
chỉ ra một số nội dung triết học chính trị đã được đề cập ở Việt Nam như bản
chất con người, nguồn gốc xung đột giữa con người, tiêu chí đánh giá tính
hợp lý của hệ thống chính trị, phạm vi quyền lực nhà nước và một số vấn đề
thuộc nhận thức luận trong triết học chính trị.
Phải nói rằng, trong các cơng trình nghiên cứu về triết học chính trị ở
Việt Nam, rất hiếm có tác giả nào đưa ra được khái niệm, phương pháp, đối
tượng của triết học chính trị. Một trong những bài viết hiếm hoi bàn về khái
niệm triết học chính trị ở Việt Nam đó là “Triết học chính trị và các q trình
chính trị” của tác giả Phạm Ngọc Thanh được đăng trong kỷ yếu hội thảo
quốc tế “Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX” [23]. Trong bài viết
này, tác giả đưa ra một số gợi ý phương pháp luận để hiểu về khái niệm triết
học chính trị. Theo tác giả, triết học chính trị là lĩnh vực đan xen giữa triết học
và chính trị học. Do vậy, để hiểu về triết học chính trị cần nắm rõ bản chất,
đặc điểm của triết học mà đặc điểm cơ bản nhất của triết học chính là “tìm
kiếm và làm sáng tỏ chân lý về bản chất và ý nghĩa của tồn tại”. Theo đó, triết
học chính trị “phải làm sáng tỏ những ngun tắc cịn ẩn giấu của một thế giới
chính trị trong các hiện tượng của nó. Nó tập trung chú ý vào những khía cạnh
bản chất, chính ngay bản chất các hiện tượng đặc biệt của chính trị” [23; 509].
Từ đây, triết học chính trị có nhiệm vụ làm sáng tỏ lý luận, ngun tắc… của
thế giới chính trị và đến lượt nó, nhiệm vụ này lại được thể hiện thông qua
việc làm sáng tỏ bộ máy khái niệm cho khoa học chính trị.
3



Ngồi ra, ở Việt Nam cũng có rất ít những cơng trình bàn về triết học
chính trị và triết học chính trị phương Tây đương đại dưới dạng tổng quát.
Dưới lăng kính của chủ nghĩa Mác - Lênin, tập thể tác giả của cơng trình
“Triết học chính trị” [4] đã đưa ra khái niệm, phương pháp và chức năng
của triết học chính trị. Ngồi ra, trong cơng trình này, các tác giả cũng khái
quát một số tư tưởng triết học chính trị trong lịch sử, một số trào lưu triết
học chính trị như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bảo thủ, dân chủ - xã hội… và
một số phạm trù của triết học chính trị như tự do, bình đẳng, dân chủ, nhà
nước pháp quyền…
Bàn về một số nội dung triết học chính trị ở phương diện thực tiễn, có
thể kể đến những cơng trình nghiên cứu như: “Tồn cầu hóa những biến đổi
lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa” của tác giả Phạm Thái Việt
[28], và luận văn thạc sĩ của Trần Thị Huyền về “Động thái của nhà nước dân
tộc và triển vọng quan hệ giữa các nhà nước dân tộc trong bối cảnh tồn cầu
hóa” [13]. Trong hai cơng trình này, các tác giả đã bàn đến một trong những
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của triết học chính trị từ xưa tới nay là nhà
nước. Đây là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu triết
học phương Tây hiện nay. Q trình tồn cầu hóa đã tác động tới hệ thống
chính trị thế giới, làm biến đổi các tác nhân trong hệ thống này, đặc biệt là
làm biến dạng các giá trị nền tảng của nhà nước như lãnh thổ, xã hội công
dân, cơ cấu quyền lực, chủ quyền… Bên cạnh đó, q trình tồn cầu hóa còn
làm gia tăng xu hướng xung đột giữa các quốc gia, cụ thể là xung đột văn hóa,
tơn giáo. Vậy nhà nước dân tộc có vai trị như thế nào trong việc quản lý tồn
cầu hay xây dựng văn hóa hịa bình giữa các quốc gia dân tộc? Đây cũng
chính là một trong những nội dung nghiên cứu của hai cơng trình trên.
Tại phương Tây1, ngồi những cơng trình nghiên cứu mang tính khái
quát về triết học chính trị phương Tây đương đại cũng có khơng ít cơng trình
Do tác giả luận văn chủ yếu nghiên cứu các tài liệu tiếng Anh, nên xin được giới hạn phạm vi các nước
phương Tây ở các nước nói tiếng Anh.

1

4


đi sâu nghiên cứu một số trào lưu hay nội dung cụ thể của các xu hướng triết
học chính trị. Nhìn chung, các cơng trình triết học chính trị phương Tây hiện
đại tại các nước nói tiếng Anh thường tập trung theo hai hướng: hoặc chuyên
sâu phân tích các học thuyết triết học chính trị phương Tây đương đại và một
số chủ đề nghiên cứu cụ thể, hoặc chú trọng tới khía cạnh thực tiễn của
nghiên cứu này. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng sự phân biệt lý thuyết
hay thực tiễn trong nghiên cứu triết học chính trị phương Tây đương đại chỉ
mang tính tương đối.
Trong “Contemporary political philosophy – An introduction (Giới
thiệu về triết học chính trị đương đại) [50], Will Kymlicka cho rằng hầu như
các học giả khi nghiên cứu về triết học chính trị đương đại đều sẽ gặp nhiều
khó khăn bởi hiện nay có rất nhiều học thuyết triết học chính trị. Chính sự đa
dạng và tính phức tạp của bản thân khoa học này sẽ làm lu mờ thực tiễn mà
các nhà triết học chính trị phải chú ý đến. Tuy nhiên, với tư cách là người
nghiên cứu triết học chính trị, chúng ta cần ý thức rằng các học thuyết dù đa
dạng đến đâu thì cũng đều chia sẻ nhiều vấn đề chung trong đời sống chính trị
xã hội với tư cách là đối tượng nghiên cứu của chúng. Từ đó ơng cho rằng các
nhà triết học chính trị đương đại về đại thể chia thành hai xu hướng. Xu
hướng thứ nhất chiếm ưu thế chủ đạo gồm những nhà triết học tán thành các
nguyên lý cơ bản của nền dân chủ tự do, họ tích cực tìm kiếm cơ sở lý luận
nhằm bảo vệ những giá trị của các nguyên lý này. Cho đến nay, xu hướng này
có ba trường phái: thuyết vị lợi (utilitarianism), thuyết bình đẳng tự do (liberal
equality), và chủ nghĩa tự do (libertarianism). Phạm trù trung tâm của các học
thuyết thuộc trường phái này liên quan tới các hướng tiếp cận về quyền
(rights), tự do (liberty), bình đẳng về cơ hội (equal opportunities)… Trên thực

tế, xu hướng này chiếm vị trí chủ đạo trong triết học chính trị phương Tây đến
mức nhiều người cho rằng nó đã tạo nên thứ ngơn ngữ chính trị duy nhất có
tính thuyết phục cao về mặt đạo đức trong các lĩnh vực công. Xu hướng thứ
hai gồm các trường phái “chống lại” nền dân chủ tự do. Những đại diện thuộc
5


xu hướng này đã cung cấp nhiều thuật ngữ, khái niệm nhằm bổ sung hoặc
thay thế cho các khái niệm được những trường phái thuộc xu hướng trên sử
dụng, do đó, theo Will Kymlicka, xu hướng này được gọi là chủ nghĩa phê
phán (criticism). Và chủ nghĩa phê phán theo ông gồm có 5 trường phái: chủ
nghĩa Mác, cộng đồng luận, thuyết nam nữ bình quyền, thuyết cộng hịa,
thuyết đa văn hóa. Trong đó, chủ nghĩa Mác nhấn mạnh tới hiện tượng tha
hóa của tầng lớp lao động, thuyết nam nữ bình quyền chỉ ra sự lệ thuộc của
phái nữ, thuyết đa nguyên văn hóa cho thấy sự cách ly và đồng hóa về mặt
văn hóa, và thuyết cộng hịa cơng dân chỉ ra sự thờ ơ về mặt chính trị. Qua đó,
xu hướng này cũng chỉ ra những thiếu sót khơng chỉ về mặt ngun tắc mà
cịn về phương diện thực tiễn của xu hướng dân chủ tự do.
Còn cơng trình “A companion to contemporary political philosophy”
(Đồng hành cùng triết học chính trị đương đại) [46] do Robert E. Goodin,
Philip Pettit và Thomas Pogge biên tập, thì lại tập hợp nhiều bài viết liên quan
đến các vấn đề nghiên cứu của triết học chính trị cũng như các học thuyết triết
học chính trị của nhiều giáo sư thuộc các trường đại học trên thế giới như
Arneson Richard J (Đại học California, Mỹ), Beitz Charles R (Đại học
Princeton, Mỹ), Coady C.A.J (Đại học Melbourne, Australia), Frost Rainer
(Đại học Johann Wolfwang Goethe, Đức)... Cụ thể, đó là các bài đã được
đăng trên Tạp chí Triết học chính trị (Journal of political philosophy) và các
bài thuộc kỷ yếu hội thảo quốc tế về chủ đề này được tổ chức tại Đại học
Quốc gia Australia vào năm 1991 đã được xuất bản cùng năm này. Trong lần
tái bản thứ 2, cơng trình có bổ sung một số nghiên cứu mới về quan hệ quốc

tế và lý thuyết chính trị do tình hình thế giới có sự biến chuyển. Nhìn chung,
các bài viết trong cơng trình này tập trung vào hai nội dung. Thứ nhất là các
bài phân tích về những học thuyết triết học chính trị gồm: chủ nghĩa vơ chính
phủ (anarchism), chủ nghĩa bảo thủ (conservatism), chủ nghĩa toàn thế giới
(cosmopolitanism), thuyết nam nữ bình quyền (feminism), chủ nghĩa tự do
(liberalism), chủ nghĩaMác (Marxism), trào lưu chính thống (fundamentalism)
6


và chủ nghĩa xã hội (socialism). Thứ hai, các bài viết phân tích về một số chủ
đề chủ đạo của triết học chính trị như: quyền tự trị (autonomy), nhà nước, xã
hội công dân, dân chủ, công bằng trong phân phối, tự do, quyền con người,
chiến tranh chính nghĩa (just war).
Cũng như những cơng trình kể trên, trong “Contemporary political
ideologies” (Các hệ tư tưởng chính trị đương đại) [38] do Roger Eatwell và
Anthony Wright biên tập, các học giả đã đi sâu phân tích một số lý thuyết triết
học chính trị đương đại nhằm chỉ ra tính ý thức hệ của chúng. Đó là các học
thuyết như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ
nghĩa Mác, chủ nghĩa vơ chính phủ, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phát xít,
thuyết nữ quyền và thuyết sinh thái. Tương tự, Norman P.Barry trong cơng
trình “An introduction to modern political theory” (Giới thiệu về học thuyết
chính trị hiện đại) [30] đã chỉ ra những học thuyết triết học chính trị hiện đại
thơng qua việc phân tích một số giá trị, trật tự chính trị.
Ngồi ra, một số học giả chú trọng nghiên cứu những chủ đề cơ bản của
triết học chính trị. Với lời kêu gọi “tham gia vào những tranh luận hợp lý về
những tiêu chuẩn cơ bản mà dựa vào đó chúng ta có thể đánh giá xã hội chính
trị hiện đại và vị trí của chúng trên thế giới”, cơng trình “Contemporary
debates in political philosophy” (Những tranh luận đương đại về triết học
chính trị) [37] đã chỉ ra những trọng tâm nghiên cứu hiện nay của triết học
chính trị như vấn đề về bản chất của cơng bằng mang tính tồn cầu, vị trí của

nhà nước dân tộc trong trật tự toàn cầu rộng lớn hơn, sự bất công kéo dài hàng
thế kỷ và hậu quả của những bất cơng đó đối với phụ nữ, cộng đồng thiểu số
hiện nay… Còn David Miller trong “Political philosophy: A very short
introduction” (Khái lược về triết học chính trị) [57] thì lại nêu ra và phân tích
khái quát một số nội dung nghiên cứu của triết học chính trị như cầm quyền,
dân chủ, tự do, cơng bằng, nhà nước, quốc gia dân tộc.
Hơn nữa, có một số cơng trình chỉ đề cập đến một học thuyết triết học
chính trị cụ thể hoặc một số nội dung nghiên cứu cơ bản của học thuyết triết
7


học chính trị nào đó. John Christman, trong cơng trình “Social and political
philosophy: An contemporary introduction” (Dẫn luận đương đại về triết học
chính trị xã hội) [36] đã đi sâu phân tích xu hướng tự do dân chủ (đặc biệt là
chủ nghĩa tự do) trên các khía cạnh như cơng bằng trong phân phối, dân chủ,
các vấn đề về cầm quyền… đồng thời phê phán chủ nghĩa tự do dưới lăng
kính chủ nghĩa bảo thủ, cộng đồng luận… Andrea Nye, trong cơng trình
“Feminism and modern philosophy: An introduction” (Dẫn luận về thuyết nữ
quyền và triết học hiện đại) [62] thì phân tích thuyết nữ quyền từ cận đại cho
tới thời kỳ sau Kant.
Bên cạnh một số cơng trình tập trung nghiên cứu các vấn đề lý thuyết
của triết học chính trị, có một số cơng trình nhấn mạnh tính thực tiễn trong
nghiên cứu triết học chính trị. Trong cơng trình “How twelve political
philosophies shape American debates” (Mười hai triết lý chính trị đã tạo nên
cuộc tranh luận về nước Mỹ như thế nào?) [74], Peter S.Wenz đã chỉ ra các
vấn nạn trong xã hội Mỹ hiện nay mà triết học chính trị buộc phải đối mặt
như chiến tranh thuốc phiện, chiến tranh khủng bố, tiền lương và thuế, chăm
sóc y tế, nhập cư, tồn cầu hóa… Tác giả đã minh họa các vấn đề này bằng
những ví dụ đời thường và vạch ra vài nét sơ lược cách thức giải quyết của
một số trường phái triết học chính trị.

Về xu hướng nghiên cứu này, phải kể tới cơng trình của tác giả Gerard
Elfstrom, “New challenges for political philosophy” (Những thách thức mới
dành cho triết học chính trị) [39]. Trong cơng trình này, Gerard Elfstrom
khơng chỉ nói về thực tiễn nước Mỹ mà cịn khái qt tình hình thế giới nói
chung. Gerard Elfstrom chỉ ra những nhân tố làm tình hình thế giới có sự biến
chuyển. Trong các nhân tố đó, ơng chú trọng tới tồn cầu hóa về kinh tế. Từ
đó, ơng phân tích sự tác động của tồn cầu hóa kinh tế tới các khách thể mà
theo ơng là thuộc thẩm quyền nghiên cứu của triết học chính trị, cụ thể như
nhà nước dân tộc, bản sắc dân tộc, cấu trúc và vai trị của chính phủ…

8


Tương tự, “The globalization of world politics: An introduction to
international relations” (Dẫn luận về quan hệ quốc tế: Toàn cầu hóa chính trị
thế giới) [31] do John Baylis và Steve Smith biên tập cũng phân tích bối cảnh
lịch sử trước thời kỳ chiến tranh lạnh và bối cảnh thế giới bị chi phối bởi tồn
cầu hóa, các học thuyết chính trị thế giới và một số vấn đề toàn cầu. Cơng
trình này mang tính chất tổng quan, vừa chỉ ra một số vấn đề chính trị thế giới
phát sinh dưới tác động của tồn cầu hóa, vừa khái qt ngắn gọn một số quan
niệm của các trường phái chính trị đối với vấn đề đó, điển hình như quan
niệm của chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa hiện thực mới, thuyết nam nữ bình
quyền… về vai trị của nhà nước trong tương quan với các chủ thể khác trong
bối cảnh tồn cầu hóa.
Ở phương Tây hiện nay, có nhiều cơng trình là tuyển tập những nghiên
cứu đương đại về triết học chính trị mà đây chính là nguồn cho các cơng trình
chúng tơi kể trên dựa vào để phân tích. Cụ thể đó là các nghiên cứu của
những nhà triết học chính trị phương Tây hiện đại như John Rawls, Robert
Nozick, Ronald Dworkin, H.L.A. Hart, Isaiah Berlin… Điển hình là cơng
trình “An introduction to contemporary political theory – a reader” (Hợp

tuyển giới thiệu học thuyết chính trị đương đại) [41] do Colin Farrelly biên
tập và “Debates in contemporary political philosophy: An anthology” (Hợp
tuyển các cuộc tranh luận về triết học chính trị hiện nay) [57] do Derek
Matravers và John Pike biên tập. Sự đa dạng trong nghiên cứu triết học chính
trị phương Tây hiện đại cho thấy tính phức tạp của lĩnh vực nghiên cứu này.
Tính phức tạp đó khơng chỉ bắt nguồn từ tự thân của vấn đề nghiên cứu triết
học chính trị trong lịch sử mà cịn do chính thực tiễn hiện tại mang lại. Nhìn
chung, các cơng trình nghiên cứu triết học phương Tây hiện nay đã chỉ ra một
số biến chuyển về đối tượng, vấn đề nghiên cứu của lĩnh vực này dưới tác
động của bối cảnh hiện tại, nêu ra một số vấn đề thực tiễn đặt ra cho lĩnh vực
nghiên cứu này.

9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Giới thiệu và phân tích một số nội dung cơ bản các khuynh
hướng chủ yếu của triết học chính trị phương Tây hiện đại.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ khái niệm, đối tượng, chức năng và phương pháp của triết
học chính trị, từ đó khái quát những đặc điểm chủ yếu của triết học chính trị
phương Tây hiện đại.
+ Phân tích nội dung cơ bản của một số lý thuyết “tự do chủ nghĩa”
trong triết học chính trị phương Tây hiện đại.
+ Giới thiệu những luận điểm cơ bản của một số lý thuyết - phản đề của
trào lưu “tự do chủ nghĩa” ở phương Tây những thập niên gần đây.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận
- Cơ sở lý luận: Luận văn sử dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, chú trọng vận dụng quan điểm Mác
– xít về mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, quan hệ giữa các

hình thái xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, thống nhất lơgíc –
lịch sử, hệ thống – cấu trúc…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: một số học thuyết triết học chính trị phương
Tây hiện đại.
- Phạm vi nghiên cứu: các nghiên cứu về triết học chính trị phương Tây
hiện đại tại Việt Nam và một số nước nói tiếng Anh, chủ yếu về truyền thống
triết học chính trị Anh – Mỹ trong khoảng thời gian 30, 40 năm gần đây.
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần tìm hiểu khái niệm triết học chính trị, làm rõ đặc điểm của
triết học chính trị phương Tây hiện đại, giới thiệu một số học thuyết triết học
chính trị phương Tây hiện đại và một số vấn đề nghiên cứu chủ yếu của nó.
10


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần cung cấp tri thức đầy đủ và có hệ
thống hơn về khái niệm “triết học chính trị”, đối tượng, nội dung, chức năng,
nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của nó, qua đó cũng gián tiếp làm rõ
phương pháp nghiên cứu “triết học chính trị” nói chung và những vấn đề cốt
lõi của một số lý thuyết triết học chính trị phương Tây hiện đại nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những ai nghiên cứu và học tập trong một số ngành khoa học xã hội nhân văn
như triết học xã hội, lịch sử triết học, khoa học chính trị, xã hội học…
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương và 6 tiết.

11



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ PHƢƠNG TÂY HIỆN ĐẠI
1.1. Khái niệm “triết học chính trị”
1.1.1 Các định nghĩa khác nhau về “triết học chính trị”
Trong lịch sử, đã khơng ít người hồi nghi về sự tồn tại của triết học
chính trị. Nhưng hiện nay, sự tồn tại và vai trị của triết học chính trị đối với
sự phát triển của nhân loại đã được khẳng định. Tuy nhiên, cho đến bây giờ
vẫn chưa có sự thống nhất ý kiến về khái niệm “triết học chính trị”. Đó cũng
là lý do mà hầu hết các cơng trình tổng quan về triết học chính trị phương Tây
hiện nay bao giờ cũng có phần dẫn nhập bàn về khái niệm “triết học chính trị”
hoặc chí ít là đề xuất phương pháp luận nghiên cứu của bộ mơn này.
Nhìn chung, triết học chính trị được định nghĩa dựa trên mối quan hệ
của chính nó với khoa học chính trị và triết học xã hội. Sự gắn bó giữa triết
học chính trị với chính trị học và triết học xã hội khăng khít tới mức việc định
nghĩa triết học chính trị thường dựa trên việc so sánh và vạch ra ranh giới với
hai bộ môn này.
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, khái niệm chính trị đã gắn liền với khái
niệm nhà nước. Nhà nước được xem là chủ thể tối cao của quyền lực. Hiện
nay, nhiều nhà nghiên cứu vẫn xác định phạm vi nghiên cứu của triết học
chính trị dựa trên chỉ dẫn này của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Trong
“Nhập môn triết học phương Tây”, tác giả Samuel Enoch Stumpf cho rằng
“ngành triết học đề cập tới các loại xã hội mà chúng ta làm thành, và các cách
thức mà các xã hội này làm và phải hành động, được gọi là triết học xã hội.
Hình thức của xã hội mà các nhà triết học trong mọi thế kỷ quan tâm nhất là
nhà nước, một tập thể con người có tổ chức chính trị trong một lãnh thổ đặc
biệt dưới sự cai trị của một chính phủ. Ngành triết học xã hội nghiên cứu về


12


nhà nước được gọi là triết học chính trị” [20; 352]. Quan niệm này về triết học
chính trị cho thấy lơgic mối quan hệ giữa triết học chính trị và triết học xã hội.
Theo đó, triết học chính trị là một bộ phận của triết học xã hội. Quan niệm
này không sai nhưng chưa cho thấy sự vận động trong chính khái niệm triết
học chính trị. Theo Gerard Elfstrom, nếu quan niệm như trên thì thuật ngữ
triết học chính trị đã bị dùng sai trong bối cảnh hiện nay. Bởi vì nhiều chức
năng truyền thống có liên quan tới nhà nước đang được đảm nhiệm bởi nhiều
tổ chức khác [xem 39; 158]. Tương tự, D.P.Raphael cũng chỉ ra ranh giới giữa
triết học xã hội và triết học chính trị, từ đó cho thấy phạm vi nghiên cứu của
triết học chính trị. Ông cho rằng những nghiên cứu về xã hội có thể hiểu theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, nghiên cứu xã hội bao gồm nghiên
cứu về chính trị và tất cả những gì liên quan tới hoạt động của con người
trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, nghiên cứu xã hội hay nghiên cứu có tính xã hội
được giới hạn trong những lĩnh vực không trùng với chủ đề nghiên cứu của
các bộ môn khác. Từ đây, ông khẳng định bản chất nhà nước, chủ quyền,
nghĩa vụ chính trị thuộc thẩm quyền nghiên cứu của triết học chính trị. Cịn tự
trị, tự do, bình đẳng, cơng bằng, do phạm vi ứng dụng rộng hơn nên chúng là
đối tượng nghiên cứu của triết học xã hội [xem 65; 15].
Sự giới hạn phạm vi nghiên cứu của triết học chính trị như trên đã dẫn
đến những quan niệm về triết học chính trị theo nghĩa hẹp. Bên cạnh đó, “triết
học chính trị cịn được hiểu như là sự cụ thể hóa các luận điểm của triết học
xã hội, tìm hiểu cơ cấu, chức năng và ý nghĩa của nhà nước, sự vận động và
phát triển của nó, các động lực cơ bản của xã hội, các đặc trưng điều hành…
từ cơ sở thế giới quan, phương pháp luận nhất định” [4; 15]. Quan niệm này
có vẻ đã bao quát được những khía cạnh mà cách định nghĩa hẹp trên về triết
học chính trị bỏ qua. Nhưng quan niệm này lại mắc phải vấn đề nan giải là:
nếu quan niệm như vậy về triết học chính trị thì sự phân biệt đối tượng nghiên

cứu của xã hội học, chính trị học với triết học chính trị là khơng rõ. Bởi vì xã
hội học và chính trị học thường tập trung vào cơ cấu và hoạt động của các cơ
13


chế xã hội trong khi triết học chính trị thường là những suy tư biện minh về
mặt lý thuyết của cơ chế này. Cần lưu ý rằng hiện nay trong triết học phương
Tây hiện đại, thuật ngữ “triết học chính trị” (political philosophy) và “học
thuyết chính trị” (political theory) được dùng thay thế lẫn nhau mỗi khi cần
nhấn mạnh tính “chuẩn tắc” của triết học chính trị trong thế tương quan với
“tính thực nghiệm”, “sự kiện” của chính trị học.
Mặt khác, quan niệm về triết học chính trị theo nghĩa hẹp còn xuất phát
từ việc nhấn mạnh nhiệm vụ xác minh khái niệm hoặc biện minh giá trị của bộ
môn này. Triết học chính trị từng bị xem là khoa học cấp 2 vốn có nhiệm vụ
xác định khái niệm để phục vụ cho khoa học chính trị. Với quan niệm này thì
triết học chính trị là một bộ phận của khoa học chính trị. P.Noack, D.Berg
Schlosser và H. Maier đều quy triết học chính trị về một trong các yếu tố của
chính trị học, trong đó triết học chính trị là cơ sở cho các yếu tố khác [xem 18;
41]. Với việc nhấn mạnh chức năng biện minh giá trị của triết học chính trị, thì
nó thường được hiểu đơn thuần chỉ là hệ tư tưởng hay ý thức hệ. Mặc dù khái
niệm ý thức hệ hiện nay đã mang những nội hàm mới, nhưng nhìn chung, quan
niệm về triết học chính trị này buộc phải viện dẫn đến mối quan hệ giữa triết
học đạo đức và triết học chính trị. Từ đó, triết học chính trị lại được phân biệt
với khoa học chính trị ở khía cạnh: triết học chính trị lưu tâm tới ln lý đạo
đức cịn khoa học chính trị thì khơng. Cụ thể, triết học chính trị bắt đầu với câu
hỏi: mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội nên được nhìn nhận như thế nào? Chủ
đề chính của triết học chính trị là tìm kiếm sự áp dụng các khái niệm đạo đức
đối với lĩnh vực xã hội và từ đó có thể suy tư về sự tồn tại những hình thức đa
dạng của chính phủ và xã hội mà con người đang sống – và từ đây, nó cũng
cung cấp một tiêu chuẩn mà chúng ta có thể dựa vào đó để phân tích và phán

đốn về những mối quan hệ và thể chế đang tồn tại. Mặc dù triết học chính trị
và khoa học chính trị đều có mối liên hệ mật thiết với phần lớn những vấn đề
và phương pháp triết học, thì triết học chính trị vẫn có thể phân biệt với khoa
học chính trị. Khoa học chính trị phần nhiều giải quyết những sự kiện chính trị,
14


do vậy có thể bỏ qua những vấn đề luân lý trong các miêu tả của nó, nó tìm
kiếm cách phân tích thực chứng về các sự kiện/vấn đề xã hội – ví dụ, vấn đề
thể chế, hành vi bầu cử, cân bằng quyền lực, hiệu quả của các quan niệm về tư
pháp, v.v… Triết học chính trị sản sinh ra các quan điểm về xã hội tốt
đẹp…[77]. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu triết học chính trị lại khơng đồng
tình với quan niệm này. A.R.M.Murray cho rằng, ở hầu hết các trường hợp
trong lịch sử, triết học chính trị liên quan tới lĩnh vực đạo đức. Điều này đúng
nhưng khơng đủ. Bởi vì lịch sử triết học chính trị cịn được đánh dấu bởi các
nhà triết học chính trị như Machiavelli (1469 – 1527), Thomas Hobbes (1588 –
1679) mà lý thuyết của họ dựa trên giả thuyết mang tính kinh nghiệm, thực
nghiệm, tránh đụng chạm tới lĩnh vực đạo đức [xem 59; 13].
Hiện nay, trong phần lớn các công trình nghiên cứu về triết học chính trị
phương Tây hiện đại, khái niệm triết học chính trị được hiểu theo nghĩa rộng
hơn. Ở mức độ nhất định, triết học chính trị thường được dùng với ngụ ý là triết
học chính trị xã hội. Trong “Social and political philosophy: A contemporary
introduction” (Dẫn luận đương đại về triết học chính trị xã hội), John
Christman đưa ra định nghĩa về triết học chính trị như sau: “Triết học chính trị
là lĩnh vực nghiên cứu về con người xã hội, được quản lý bởi các thể chế và
thực tiễn có vai trị thiết lập, cưỡng chế và định hình cuộc sống mà xã hội đó
hướng tới theo nhiều cách thức” [36; 3]. Trong “Contemporary debates in
political philosophy” (Những tranh luận đương đại về triết học chính trị), các
tác giả cho rằng trọng tâm nghiên cứu của triết học chính trị trong vịng 30 năm
qua đã vượt qua những chú trọng ban đầu đối với những nhận định về nhà nước

dân tộc… Theo đó, triết học chính trị khơng chỉ đơn thuần là học thuyết mang
tính chuẩn tắc bàn về nhà nước dân tộc mà cịn là các quy tắc mà dựa vào đó
chúng ta có thể đánh giá và cải cách các thể chế kinh tế chính trị có ảnh hưởng
rộng lớn tới đời sống chúng ta [xem 37; 1]. Trong từ điển “Triết học
Cambridge”, triết học chính trị được định nghĩa như sau: “Triết học chính trị
nghiên cứu bản chất và biện hộ cho các thể chế chính trị” [35; 718]. Trong đó,
15


thể chế chính trị có phạm vi từ gia đình, nhà nước – dân tộc cho đến các thể chế
quốc tế như Liên hiệp quốc.
Trong “A companion to comtemporary political philosophy” (Đồng
hành cùng triết học chính trị đương đại) [46], các tác giả cũng tán thành quan
niệm trên về định nghĩa triết học chính trị. Chính vì vậy, trong cơng trình này,
các tác giả đã khảo sát nhiều cơng trình thuộc các lĩnh vực kinh tế, lịch sử,
luật… với mục đích xác định các kiểu thể chế chính trị - được xem là đối tượng
nghiên cứu của triết học chính trị. Theo họ, đó phải là những thể chế tạo nên
“cấu trúc cơ bản của xã hội” theo như mô tả của J. Rawls đồng thời còn phải là
những thể chế đa quốc gia có tầm quan trọng ngày càng gia tăng đối với cộng
đồng quốc tế thông qua đầu tư thương mại, du lịch, du nhập văn hóa…
Quan niệm về triết học chính trị như trên được xem là quay về với truyền
thống “yêu mến sự thông thái” của triết học và phản ánh được sự biến đổi của
thế giới chính trị trong bối cảnh hiện nay. Nhà nước dân tộc vẫn là mối quan
tâm chủ đạo của triết học chính trị hiện nay; ngồi ra, các thể chế chính trị nói
chung cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của bộ môn này. Tuy nhiên, nhiều vấn
đề mà định nghĩa hẹp về triết học chính trị gặp phải thì cách định nghĩa này
cũng không hẳn đưa ra được câu trả lời thích đáng. Với cách định nghĩa này, sự
phân biệt rõ ràng giữa triết học chính trị và chính trị học, triết học xã hội vẫn
còn là vấn đề bỏ ngỏ. Chính vì vậy, trong cơng trình “An introduction to
modern political theory” (Giới thiệu về học thuyết chính trị hiện đại), Norman

P. Barry khẳng định: “… rõ ràng học thuyết chính trị khơng bị gị bó trong một
nguồn tư tưởng mà chúng được tạo nên từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Khơng có
tri thức hoặc phương pháp phân tích nào được cho là dành riêng cho triết học
chính trị…” [30; 6].
Trên thực tế, đối với các cơng trình bàn về một số chủ đề của triết học
chính trị thì vấn đề định nghĩa triết học chính trị là khơng cần thiết. Bởi vì vấn
đề nghiên cứu của triết học chính trị được thể hiện khá rõ trong lịch sử tư

16


tưởng chính trị từ cổ đại đến bây giờ. Nhưng mặt khác, đối với các nghiên
cứu tổng quan về triết học chính trị thì các tác giả buộc phải đưa ra cách định
nghĩa triết học chính trị với tư cách là định nghĩa công cụ. Tuy nhiên, với sự
phát triển của khoa học xã hội hiện nay, đặc biệt là triết học chính trị, thì khó
có thể đưa ra một định nghĩa hồn tồn thuần nhất về nó. Trong luận văn này,
chúng tơi bước đầu đồng tình với quan niệm của David Miller - giáo sư chính
trị học, Đại học Bath (Anh) rằng khái niệm “triết học chính trị” có thể được
định nghĩa như là sự suy ngẫm triết học về cách thức tốt nhất để sắp xếp cuộc
sống chung của chúng ta – các thể chế chính trị xã hội và các thực tiễn xã hội.
Các nhà triết học chính trị thường thiết lập những nguyên tắc cơ bản nhằm
biện minh cho một mơ hình nhà nước cụ thể, chứng minh cá nhân có những
quyền khơng thể chuyển nhượng được, đề xuất các cách thức mà nguồn lực
xã hội có thể được phân chia cho các thành viên cộng đồng...v.v. Để làm
những việc này, các nhà triết học chính trị thường phân tích và làm sáng tỏ
những tư tưởng, khái niệm về tự do, bình đẳng, dân chủ… và áp dụng chúng
theo phương thức phê phán vào các thể chế chính trị xã hội hiện đang tồn tại
[xem 82].
1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của triết học chính trị
Các tác giả trong đề tài nghiên cứu cấp bộ “Triết học chính trị” [4] đã

cho rằng triết học chính trị có chức năng vừa mang tính phổ qt như chức
năng của triết học nói chung vừa mang tính cá biệt thể hiện đặc thù của đời
sống chính trị nói riêng. Theo đó, triết học chính trị có 5 chức năng, đó là
chức năng thế giới quan, chức năng phương pháp luận, chức năng dự báo,
chức năng phê phán, chức năng giá trị và cuối cùng là chức năng nhân văn.
Trong triết học chính trị phương Tây hiện nay, chức năng của triết học chính
trị thường được nói đến với những tên gọi khác như: chức năng hòa giải
(reconcillibation), chức năng hướng đạo (orientation), chức năng định hướng
lý tưởng thực tế (realisitic utopia), chức năng phê phán… Nhưng theo chúng
tôi, dù được gán cho các tên gọi khác nhau, thì những chức năng như hòa giải,
17


hướng đạo,… về thực chất cũng chính là những chức năng được tập thể tác
giả trong đề tài nghiên cứu nói trên nêu ra.
Trong lịch sử triết học, chức năng của triết học chính trị có sự vận
động, biến đổi và có sự khác biệt nhất định trong các trường phái triết học
khác nhau, trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau. Dù vậy, sự khác biệt này
luôn xoay quanh hai nhiệm vụ cơ bản của triết học chính trị là làm sáng tỏ
khái niệm và đánh giá mang tính phê bình đối với đức tin.
Thuật ngữ triết học chính trị được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ XX.
Nhưng trước đó, triết học chính trị đã được manh nha trong các tác phẩm của
những nhà triết học Hy Lạp cổ đại, điển hình là Plato (427 – 347 TCN) và
Aristotle (384 – 322 TCN). Theo quan niệm của các nhà triết học này, triết
học chính trị được xem như môn học về cách cai trị và sống tốt trong nhà
nước tự trị thời đó. Mặc dù hiện nay triết học chính trị được định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau và có nhiều vấn đề, nội dung nghiên cứu của triết học
chính trị đã vượt ra ngồi tư tưởng của Plato và Aristotle, nhưng quan niệm
của các ông vẫn được bảo tồn ít nhiều trong các triết thuyết chính trị hiện
đại. Triết học chính trị được phân biệt với các khoa học khác bởi tính chuẩn

tắc. Cụ thể, các khoa học khác thường quan tâm tới các sự kiện thực tế, trong
khi đó, triết học chính trị thường là một lý thuyết, hệ tư tưởng hoặc ý thức hệ
đưa ra các quy tắc, tiêu chuẩn cho xã hội và chính quyền, đưa ra lời khuyên
cho con người trong các trường hợp cụ thể. Trong cơng trình “Problems of
political philosophy” (Một số vấn đề của triết học chính trị) [65],
D.P.Raphael cho rằng nhiều nhà nghiên cứu triết học đã căn cứ vào điều này
để đưa ra định nghĩa về triết học chính trị. Và họ thường viện dẫn quan niệm
của Plato trong tác phẩm “Nền cộng hịa” làm ví dụ. Trong tác phẩm này,
Plato đã miêu tả về xã hội lý tưởng. D.P.Raphael đồng tình với quan niệm cho
rằng triết học khác khoa học ở tính chuẩn tắc của nó. Tuy nhiên, tính chuẩn
tắc phải được hiểu theo nghĩa khác. Tính chuẩn tắc được nói đến ở trên theo
ơng là rất “đáng ngờ” và chỉ đúng với một số nhà triết học chính trị truyền
18


thống, những nhà triết học đưa ra lý thuyết bàn về các hình thức tổ chức xã
hội lý tưởng. Hơn nữa, ơng cịn khẳng định, ngay cả đối với các nhà triết học
truyền thống này, khái niệm triết học chính trị chưa hẳn được hiểu theo nghĩa
chuẩn tắc này. Ông cho rằng, Plato miêu tả xã hội lý tưởng nhằm phê phán xã
hội hiện tại và thúc đẩy việc nhận thức những khái niệm mang tính xã hội như
cơng bằng… Từ đây, ơng đã khái qt hai mục đích cơ bản của triết học chính
trị đó là làm sáng tỏ các khái niệm và đánh giá mang tính phê phán đối với
đức tin (biện minh về giá trị).
Theo ông, trong triết học chính trị truyền thống, mục đích thứ nhất
thường mang tính thứ yếu và chỉ được duy trì như là sự bổ trợ cần thiết cho
mục đích thứ hai. Nhưng hiện nay, mục đích thứ nhất (làm sáng tỏ khái niệm)
lại mang tính tối cao và tồn tại do lợi ích của chính nó [xem 65; 8].
Rõ ràng, triết học chính trị là lĩnh vực đan xen giữa triết học và chính
trị học. Mà thế giới chính trị có đặc tính là ln vận động với tốc độ cao,
trong đó nhiều q trình, sự kiện diễn ra q nhanh khiến các nhà nghiên cứu

không kịp nắm bắt hết, do vậy không thể tách rời được các sự kiện mà chỉ có
thể tìm hiểu về những mối liên hệ nhân quả của q trình tiến triển mà thơi…
Vì vậy, triết học chính trị có nhiệm vụ làm sáng tỏ những ngun tắc cịn ẩn
giấu của thế giới chính trị trong các hiện tượng của nó bằng cách tập trung
vào khía cạnh bản chất của các hiện tượng chính trị đặc biệt. Và nhiệm vụ này
chỉ có thể được làm sáng tỏ thông qua bộ máy khái niệm [xem 23; 508]. Hơn
thế, bản thân các khái niệm của triết học chính trị thường là khái niệm tập hợp
với nội hàm phong phú và phức tạp. Do đó, xác minh khái niệm là nhiệm vụ
tự thân của chính triết học chính trị. Ví dụ, khái niệm “dân chủ” thường được
hiểu là quyền phổ thông đầu phiếu để chọn ra những người cầm quyền của
một đất nước, nhưng sau đó “dân chủ” lại được hiểu với nghĩa khác khi đối
chiếu với cách hiểu “dân chủ” tại các nước chuyên chế. Và theo D.P.Raphael,
để đạt được mục đích này, triết học chính trị có 3 nhiệm vụ liên quan mật

19


thiết với nhau đó là: phân tích, tổng hợp và cải tiến khái niệm; và trên thực tế,
ba nhiệm vụ này là một thể thống nhất [xem 65; 16].
Trong lịch sử triết học, nhiệm vụ xác minh khái niệm của triết học
chính trị đóng vai trị chủ đạo hay thứ yếu khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh
lịch sử cụ thể. Nhưng không ai phủ nhận hay phê phán nhiệm vụ này của triết
học chính trị. Những phê phán trong lịch sử triết học chính trị xảy ra chỉ khi
các nhà nghiên cứu quá đề cao chức năng này và xem triết học chính trị chỉ là
bộ mơn xác minh khái niệm cho khoa học chính trị.
Số phận của nhiệm vụ thứ hai và thường được xem là nhiệm vụ chủ
đạo của triết học chính trị - biện minh giá trị - lại không được bằng phẳng như
nhiệm vụ thứ nhất. Vấn đề nằm ở chỗ, trong lịch sử triết học, hai hoạt động
của triết học chính trị thường có sự pha trộn lẫn nhau, đó là hoạt động giải
thích chức năng quản lý, chức năng của chính phủ, đặt ra mục đích mà chính

quyền hướng tới cũng như cách thức để chính quyền đó đạt được mục đích đã
định trước và hoạt động đánh giá hay biện minh cho các giá trị mà hoạt động
vừa nói trên của triết học chính trị theo đuổi. Chính vì sự đánh đồng hai hoạt
động trên mà có thời kỳ vai trị của triết học chính trị đã bị hạ thấp. Nhiều
người cho rằng triết học chính trị khơng những khơng mang lại tri thức mới
mà còn chặn đường dẫn tới chân lý [xem 64; 20].
Trên thực tế, nhiệm vụ biện minh giá trị của triết học chính trị khơng
đơn thuần mang tính chủ quan bởi vì đánh giá của các học thuyết chính trị đối
với chính sách, thể chế một phần dựa trên nền tảng giá trị luận. Tuy nhiên, sự
phân biệt tính chủ quan và khách quan của giá trị luận nên được hiểu khác với
chủ nghĩa hoài nghi trong triết học chính trị. Trong “An introduction to
political philosophy” (Giới thiệu về triết học chính trị) [34], Colin Bird cho
rằng, sự phân biệt tính khách quan và chủ quan đơn giản của chủ nghĩa hồi
nghi trong triết học chính trị khiến triết học chính trị được xem là lĩnh vực đầy
rẫy sự thiên vị mang tính duy lý và phản ứng đầy cảm tính, cũng tựa như khi
bạn thưởng thức nhiều loại kem với khẩu vị khác nhau từ người này sang
20


×