Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Truyền thuyết và lễ hội về tứ vị thánh nương ở đền lộ hà nội qua đối sánh với truyền thuyết và lễ hội vè dương thái hậu ở điện mẫu tân hội trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.36 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LONG BẰNG

TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ TỨ VỊ
THÁNH NƢƠNG Ở ĐỀN LỘ (HÀ NỘI) QUA ĐỐI SÁNH VỚI
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ
DƢƠNG THÁI HẬU Ở ĐIỆN MẪU (TÂN HỘI, TRUNG QUỐC)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Hữu Thức

Hà Nội-2012

0


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện luận văn, tơi ln nhận đƣợc sự quan tâm,
giúp đỡ nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp.
Nay luận văn đã hồn thành, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới:
TS. Nguyễn Hữu Thức – ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tơi thực hiện
đề tài luận văn trong suốt quá trình nghiên cứu, GS. TS. Lê Chí Quế – ngƣời
đã ln động viên và tạo điều kiện cho tơi có thể thực hiện tốt đề tài này và
các thầy cô trong khoa Ngữ Văn trong và ngoài trƣờng Đại học KHXH &
NV, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.


Tác giả

Long Bằng

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 4
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................ 12
CHƢƠNG 1. TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ VỊ THÁNH NƢƠNG Ở ĐỀN LỘ (HÀ NỘI)
QUA ĐỐI SÁNH VỚI TRUYỀN THUYẾT VỀ DƢƠNG THÁI HẬU Ở ĐIỆN MẪU
(TÂN HỘI, TRUNG QUỐC) ............................................................................................ 12
1.1.Khái niệm truyền thuyết ........................................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm truyền thuyết theo học giả Việt Nam.............................................................12
1.1.2. Khái niệm truyền thuyết theo học giả Trung Quốc.........................................................15
1.1.3. Nhận xét. ............................................................................................................................18
1.2. Truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc) ................ 19
1.2.1. Dƣơng Thái hậu qua các nguồn thƣ tịch..........................................................................19
1.2.2. Truyền thuyết về Dƣơng Thái hậu qua điền dã thực địa. ...............................................21
1.2.3. Nhân xét. ............................................................................................................................25
1.3. Truyền thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội). .................................... 26
1.3.1. Một số truyền thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng từ các bản ghi chép ở Việt Nam ..........26
1.3.2. Truyền thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội)............................................29
1.3.3. Nhận xét. ............................................................................................................................32
1.4. Một số tƣơng đồng và khác biệt giữa truyền thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền
Lộ (Hà Hội) với truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc). 33
1.4.1. Một số tƣơng đồng giữa truyền thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội) với
truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc). ................................33
1.4.2. Một số khác biệt giữa truyền thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội) với

truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc). ................................34
1.4.3. Nhận xét. ............................................................................................................................37

1


CHƢƠNG 2. LỄ HỘI VỀ TỨ VỊ THÁNH NƢƠNG Ở ĐỀN LỘ (HÀ NỘI) QUA ĐỐI
SÁNH VỚI LỄ HỘI VỀ DƢƠNG THÁI HẬU Ở ĐIỆN MẪU (TÂN HỘI TRUNG
QUỐC) ............................................................................................................................... 39
2.1. Khái niệm lễ hội. ...................................................................................................... 39
2.1.1. Khái niệm lễ hội theo học giả Việt Nam. ........................................................................39
2.1.2. Khái niệm lễ hội theo học giả Trung Quốc. ....................................................................42
2.1.3. Nhận xét. ............................................................................................................................44
2.2. Lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc)............................. 45
2.2.1. Thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội....................................................................................45
2.2.2. Tiến trình tổ chức lễ hội. ...................................................................................................48
2.3. Lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội). ................................................. 51
2.3.1. Thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội....................................................................................51
2.3.2. Tiến trình tổ chức lễ hội. ...................................................................................................55
2.4. Một số tƣơng đồng và khác biệt giữa lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà
Hội) với lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc). ....................... 58
2.4.1. Một số tƣơng đồng giữa lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội) với lễ hội
về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc). .......................................................58
2.4.2. Một số khác biệt giữa lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội) với lễ hội về
Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc). ............................................................59
2.4.3. Nhận xét. ............................................................................................................................61
CHƢƠNG 3. GIÁ TRỊ CỦA TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ TỨ VỊ THÁNH
NƢƠNG Ở ĐỀN LỘ (HÀ NỘI) QUA ĐỐI SÁNH VỚI GIÁ TRỊ CỦA TRUYỀN
THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ DƢƠNG THÁI HẬU Ở ĐIỆN MẪU (TÂN HỘI, TRUNG
QUỐC) ............................................................................................................................... 64

3.1.Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội)
và mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội,
Trung Quốc). ..................................................................................................................... 64
3.1.1. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội. .......................................................................64

2


3.1.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội,
Trung Quốc)….... ........................................................................................................................66
3.1.3. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà
Nội)……. .....................................................................................................................................68
3.2.Giá trị của truyền thuyết và lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung
Quốc) ................................................................................................................................ 70
3.2.1. Giá trị lịch sử......................................................................................................................70
3.2.2. Giá trị tâm linh...................................................................................................................71
3.2.3. Giá trị văn hóa. ..................................................................................................................72
3.2.4. Giá trị kinh tế. ....................................................................................................................74
3.3.Giá trị của truyền thuyết và lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội) qua
đối sánh với giá trị của truyền thuyết và lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội,
Trung Quốc) ...................................................................................................................... 75
3.3.1. Giá trị lịch sử......................................................................................................................75
3.3.2. Giá trị tâm linh...................................................................................................................78
3.3.3. Giá trị văn hóa. ..................................................................................................................80
3.3.4. Giá trị kinh tế. ....................................................................................................................81
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 88
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 94

3



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thơng qua các nguồn tài liệu và các truyền thuyết về các vị thần đƣợc
thờ cúng ở Việt Nam, chúng tôi đƣợc biết rất nhiều nơi ở miền Trung Việt
Nam có đền thờ Tứ Vị Thánh Nƣơng

. Tứ Vị Thánh Nƣơng, nhƣ

tên gọi, là để chỉ 4 vị thánh nữ. Quá trình điền dã tại một số địa phƣơng của
Việt Nam, chúng tôi nhận thấy: cả bốn vị thần này đều là những vị thần có
nguồn gốc, lai lịch từ Trung Quốc. Theo một truyền thuyết phổ biến ở Việt
Nam, vị nữ thần đóng vai trị chủ đạo trong số bốn vị nữ thần này chính là
Dƣơng Thái Hậu – mẹ của Tống Đế Bính

, vị vua cuối cùng của nhà

Tống. Sau khi quân Nguyên đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, nhà Nam Tống
thất thủ, hoàng tộc nhà Tống nhảy xuống biển tự vẫn. Dƣơng Thái Hậu là
một trong số những ngƣời đã tự vẫn theo vua Tống Đế Bính. Tƣơng truyền
thi thể Dƣơng Thái Hậu bị sóng đánh dạt vào cửa biển Việt Nam. Ngƣời dân
Việt Nam thấy vậy liền lập miếu thờ cúng bà nhƣ là một vị thần biển thiêng
liêng.
Đề tài này khơi gợi cho chúng tôi rất nhiều hứng thú. Tại sao một vị
Hoàng hậu Trung Quốc lại đƣợc ngƣời Việt Nam thờ cúng trên một phạm vi
địa lí rộng nhƣ vậy? Tại sao một vị Hồng hậu Trung Quốc lại dễ dàng xâm
nhập vào tín ngƣỡng của ngƣời Việt để trở thành một phần của văn hóa dân
gian của ngƣời Việt nhƣ vậy? Việc làm rõ vấn đề này, theo chúng tôi, sẽ làm
sáng tỏ nhiều vấn đề về giao lƣu văn hóa Việt Nam – Trung Quốc trong lịch

sử, là một bƣớc đi quan trọng tạo tiền đề cho những nghiên cứu trong tƣơng
lai về tín ngƣỡng thờ cúng thần linh của hai nƣớc.
Một điều lý thú nữa, trong quá trình đi khảo sát để lựa chọn đề tài nghiên
cứu, chúng tơi tình cờ phát hiện ra đền Lộ, thuộc thôn Đại Lộ, xã Ninh Sở,

4


huyện Thƣờng Tín, thành phố Hà Nội, một trong những tụ điểm tín ngƣỡng
lớn thu hút dân chúng ở khu vực đồng bằng sơng Hồng, cũng chính là một
địa điểm thờ Tứ Vị Thánh Nƣơng. Tại sao một điểm nằm sâu trong vùng
châu thổ Bắc Bộ lại xuất hiện nơi thờ Tứ Vị Thánh Nƣơng, vị thần bảo trợ
cho những ngƣời đi biển? Vậy Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ còn đƣợc thờ
nhƣ là vị thần biển nữa hay không hay đã mang thêm những nội dung, chức
năng khác? Đấy là điều chúng tôi đặc biệt quan tâm. Thông qua nguồn
truyền thuyết dân gian và các sinh hoạt lễ hội liên quan tới Tứ Vị Thánh
Nƣơng ở đền Lộ, chúng tôi hi vọng đƣa ra một hƣớng tiếp cận để góp phần
trả lời câu hỏi này. Chúng tơi cịn hi vọng làm rõ dấu vết của một nền văn
hóa mang dấu ấn địa phƣơng đƣợc thể hiện một cách rõ nét thông qua truyền
thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng cùng với những hoạt động lễ hội diễn ra trong
đền thờ của các làng đồng bằng sông Hồng. Truyền thuyết và lễ hội đều
thuộc di sản văn học, văn hóa dân gian, là một thành tố góp phần vào việc
định hình bản sắc dân tộc. Để làm rõ đƣợc bản chất sự ra đời và lƣu truyền
của chúng, chúng tôi cho rằng không thể tách rời hai bộ phận truyền thuyết
và lễ hội mà sẽ tiến hành nghiên cứu chúng nhƣ một tổng thể không thể chia
tách.
Thứ nữa, để hiểu sâu hơn về Tứ Vị Thánh Nƣơng và sự hiện diện của tín
ngƣỡng này trong đời sống tâm linh của ngƣời Việt Nam, chúng tôi cho rằng
phải đặt vị thần này trong tƣơng quan đối sánh với vị thần nguyên gốc, đó là
Dƣơng Thái Hậu đƣợc thờ ở điện Mẫu Tân Hội, Quảng Đông, Trung Quốc.

Việc so sánh này sẽ giúp chúng tôi làm rõ đƣợc những biến đổi của một vị
thần từ nguyên gốc đến một vùng khác với nhiều nội dung phát sinh và
những ý nghĩa mới.
Một lý do nữa khiến chúng tôi chọn đề tài liên quan đến Tứ Vị Thánh
Nƣơng đó là do những thuận lợi của chúng tôi khi tiếp cận tƣ liệu nghiên

5


cứu của Trung Quốc cũng nhƣ Việt Nam. Là ngƣời mang quốc tịch Trung
Quốc, lại đƣợc đào tào rất bài bản ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy nghiên
cứu so sánh là một ƣu thế. Chúng tôi rất bất ngờ và cảm thấy hứng thú khi
biết có một Hồng hậu ngƣời Trung Quốc là Dƣơng Thái Hậu lại đƣợc thờ ở
nhiều nơi Việt Nam. Những học giả tiền bối, những ngƣời nghiên cứu về Tứ
Vị Thánh Nƣơng ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc chƣa có điều kiện nghiên
cứu trong thế đối sánh một cách toàn diện những nguồn tƣ liệu. Chúng tơi có
điều kiện khai thác đƣợc nguồn tƣ liệu của cả hai nƣớc, vì vậy chúng tơi
nhận thấy cần phải tập trung nghiên cứu so sánh này nhằm đƣa ra những
hiểu biết tồn diện nhất có thể về đối tƣợng.
Vì những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài Truyền thuyết và lễ hội về Tứ
Vị Thánh Nương ở đền Lộ (Hà Nội) qua đối sánh với truyền thuyết và lễ hội
về Dương Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc). Q trình nghiên
cứu, chúng tơi sẽ làm sáng tỏ sự giao thoa, ảnh hƣởng qua lại giữa văn hóa
hai nƣớc Trung - Việt và xu hƣớng địa phƣơng hóa tín ngƣỡng thờ Dƣơng
Thái Hậu ở Trung Quốc và Tứ Vị Thánh Nƣơng ở Việt Nam. Từ góc nhìn
của lí thuyết nghiên cứu ảnh hƣởng và nghiên cứu so sánh, chúng tơi nhận
thấy việc tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ
(Hà Nội) trong tƣơng quan với truyền thuyết và lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở
điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc) sẽ có đóng góp nhất định, tạo tiền đề cho
những giao lƣu, trao đổi học thuật Trung Quốc và Việt Nam xung quanh vấn

đề này trong tƣơng lai. Đây là một nhu cầu cần thiết đặt ra với những nhà
nghiên cứu văn học dân gian hai nƣớc.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy tƣ liệu sớm nhất
có ghi chép về Tứ Vị Thánh Nƣơng là Đại Việt sử kí tồn thư của Ngơ Sĩ
Liên thế kỷ XV. Cuốn sử sách này đã viết về sự kiện Tống phi hiện về báo

6


mộng cho vua Trần Anh Tông: “…đêm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói
với vua: Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng
gió, trôi giạt đến đây. Thƣợng đế phong thiếp làm thần biển đã lâu. Nay bệ
hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập cơng” [23, tr. 44]. Sau đó là cuốn Tục
biên Việt điện u linh của Nguyễn Văn Chất (1422-?) viết: “phu nhân họ
Triệu là công chúa nƣớc Nam Tống, tất cả có ba mẹ con, phu nhân là con gái
út… Phàm những thuyền đi bể, gặp khi sóng gió nguy hiểm, kêu cầu đều
đƣợc thốt nạn. Sau các nơi cửa bể đều lập đền thờ, đền nào cũng có tiếng
thiêng” [51, tr. 117].
Ngồi ra, nguồn tƣ liệu thần tích quý báu hiện đang đƣợc lƣu giữ ở đền
Lộ nhƣ ngọc phả, bi ký, sắc phong, hoành phi câu đối… cũng đóng vai trị
quan trọng trong nghiên cứu của chúng tơi. Trên cơ sở đó, đền Lộ đã nhờ
các nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Hán nôm căn cứ vào thần phả
chữ Hán để dịch thuật. Vào tháng 2 năm Bính Tý (năm 1996), Đại Lộ tối
linh từ đƣợc biên soạn, Phó giáo sƣ Nguyễn Tá Nhí hồn thành việc dịch
thuật, trong đó có bản dịch nghĩa của “Ngọc Phả Bốn Vị Thánh Nƣơng Nam
Hải Đại Càn Quốc Gia (thờ phụng ở xã Đại Lộ)”, kê ra thời gian cụ thể của
16 sắc phong Tứ Vị Thánh Nƣơng đƣợc các vị vua của các triều đại phong
kiến ban, cịn có bài hỏi đáp về những vấn đề liên quan đến sự tích Tứ Vị
Thánh Nƣơng và bài nói chuyện của Phó giáo sƣ Trần Lâm Biền với nhân

dân thôn Đại Lộ vào ngày 30 tháng 7 năm 1993.
Hiện nay các cơng trình nghiên cứu về Tứ Vị Thánh Nƣơng chủ yếu tập
trung vào những vấn đề liên quan đến đền Cờn (Nghệ An) và về văn hóa
biển ở Việt Nam. Trong cuốn Tục thờ thần và thần tích Nghệ An (năm 2010),
Phó giáo sƣ Ninh Viết Giao đã dành một số trang nhất định để giới thiệu Tứ
Vị Thánh Nƣơng, truy nguyên việc thờ cúng Tứ Vị Thánh Nƣơng là xuất
phát từ việc thờ thần nƣớc, thần biển. Năm 2009, Phó giáo sƣ, tiến sĩ Trần

7


Thị An có bài viết “Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ Vị Thánh
nƣơng (qua các nguồn thƣ tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng)”
đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học. Trong bài viết này, tác giả Trần Thị
An đặt vấn đề “Tại sao các vị thần Trung Quốc đƣợc thờ rộng rãi đến thế ở
Việt Nam” và bà đã giải mã câu hỏi trên từ các bình diện nhƣ văn hóa, lịch
sử, niềm tin và nhu cầu của nhân dân: “Sự hình thành của một truyền thuyết,
sự phát sinh, tồn tại và phát triển của một tục thờ không đơn giản chỉ xuất
phát từ niềm tin và nhu cầu của ngƣời dân mà còn chịu sự tác động đa chiều
trong mối quan hệ chồng chéo trong lịch sử” [4, tr. 73].
Cũng năm 2009, bài viết của Trần Thị An là “Về ngôi đền thờ Tống Phi
ở Phố Hiến, Hƣng Yên” đƣợc đăng trên Thông báo văn hoá. Bài viết này đã
so sánh đền Mẫu Phố Hiến và đền Cờn, Quỳnh Lƣu, đồng thời đƣa ra quan
điểm đền Mẫu và đền Cờn là sự kết nối truyền thuyết trên nền tín ngƣỡng
thờ thần biển: “Chính từ cái nền tín ngƣỡng dân gian thờ thuỷ thần này mà
truyền thuyết của hai vùng đã xích lại gần nhau” [5, tr. 206].
Đáng chú ý là ngày 15-16 tháng 6 năm 2009, Hội thảo khoa học Lễ hội
đền Cờn, tục thờ Tứ Vị Thánh Nương với văn hóa biển ở Việt Nam đã đƣợc
tổ chức tại xã Quỳnh Phƣơng huyện Quỳnh lƣu tỉnh Nghệ An. Trong hội
thảo, các nhà khoa học nổi tiếng từ Trung ƣơng và địa phƣơng về tham dự

với nhiều báo cáo khoa học có chất lƣợng đƣợc trình bày. Kết quả là Kỷ yếu
hội thảo khoa học Lễ hội đền Cờn, tục thờ Tứ Vị Thánh Nương với văn hóa
biển ở Việt Nam đƣợc xuất bản vào năm 2010. Kỷ yếu dầy 370 trang, tập
hợp 23 bài viết của các nhà nghiên cứu nhƣ Ninh Viết Giao, Trần Thị An,
Nguyễn Xuân Đức…. trong đó phần lớn tác phẩm tập trung vào nơi thờ Tứ
Vị Thánh Nƣơng khá tiêu biểu ở Việt Nam là đền Cờn, Nghệ An. Trong kỉ
yếu này, có những nghiên cứu tập trung và chứng minh quá trình biến thiên
của truyền thuyết Tứ Vị Thánh Nƣơng, có những nghiên cứu khác lại tiến

8


hành miêu tả khá sâu về lễ hội đền Cờn và tiến hành bóc tách lớp văn hố
biển đền Cờn. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng đền Cờn (Nghệ An)
– một đền nằm ở một ngôi làng ven biển là nơi phát tích và cũng là một
trung tâm thờ cúng Tứ Vị Thánh Nƣơng. Những nghiên cứu này cịn cho
biết Tứ Vị Thánh Nƣơng đã nhanh chóng hóa thân thành những vị thần biển
của Việt Nam và trở thành một trong số những vị thần đƣợc thờ cúng phổ
biến ở nhiều làng quê ngƣời Việt. Những địa điểm thờ cúng Tứ Vị Thánh
Nƣơng khác ở các địa phƣơng thuộc Bắc bộ, Trung bộ nhƣ Hà Nội, Nam
Định, Hải Phòng, Đà Nẵng… cũng đã đƣợc những nhà nghiên cứu trong hội
thảo quan tâm đề cập đến. Bài “Đền Lộ ở Hà Nội với tín ngƣỡng thờ Tứ Vị
Thánh Nƣơng” của thạc sĩ Võ Hoàng Lan bƣớc đầu tiến hành phân tích hiện
tƣợng tín ngƣỡng thờ Tứ Vị Thánh Nƣơng ở Đền Lộ. Trong bài viết này, Võ
Hồng Lan có miêu tả truyền thuyết và lễ hội ở đền Lộ, nhƣng chƣa cụ thể
và thực sự chi tiết. Những ý kiến đã nêu và bài viết của các nhà khoa học
nghiên cứu về Tứ Vị Thánh Nƣơng là tiền đề thuận lợi giúp chúng tôi giải
quyết vấn đề nghiên cứu mà luận văn này đặt ra.
3. Đối tƣợng và phạm vi
Đối tượng của đề tài: Truyền thuyết và lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng ở

đền Lộ (Hà Nội) và truyền thuyết và lễ hội về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu
(Tân Hội, Trung Quốc).
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Địa bản khảo sát và nghiên cứu chính là
đền Lộ (Hà Nội), có mở rộng phạm vi nghiên cứu là điện Mẫu (Tân Hội,
Trung Quốc). Ngồi ra, chúng tơi tiến hành tìm kiếm, khảo sát nhằm chứng
minh nguồn gốc truyền thuyết và lễ hội Tứ Vị Thánh Nƣơng thông qua hệ
thống thƣ tịch Trung Quốc và Việt Nam hiện cịn đƣợc lƣu giữ. Ngồi hoạt
động chính là điều tra, điền dã tại đền Lộ (Hà Nội) và điện Mẫu (Tân Hội,
Trung Quốc), chúng tơi cịn quan tâm theo dõi một số nơi thờ Tứ Vị Thánh

9


Nƣơng khác ở Việt Nam, đặc biệt là ở đền Cờn (Nghệ An), nơi đƣợc coi là
điểm chính thờ Tứ Vị Thánh Nƣơng ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn này bao gồm:
- Phƣơng pháp tra cứu tài liệu
- Phƣơng pháp điền dã thực địa
- Phƣơng pháp so sánh loại hình
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp.
5. Mục tiêu của luận văn
Mục tiêu của luận văn bao gồm:
- Căn cứ vào các tƣ liệu điền dã, dựng lại truyền thuyết và lễ hội về Tứ
Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội).
- Qua việc so sánh truyền thuyết và lễ hội ở đền Lộ (Hà Nội) với
truyền thuyết và lễ hội ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc) làm rõ những nét
tƣơng đồng và khác biệt của chúng.
- Làm rõ mối quan hệ giữa truyền thuyết, lễ hội về Tứ Vị Thánh

Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội) và mối quan hệ giữa truyền thuyết, lễ hội về
Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc).
- Đƣa ra một số giá trị của truyền thuyết và lễ hội về Tứ Vị Thánh
Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội) qua đối sánh với truyền thuyết và lễ hội về Dƣơng
Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc).
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp chính yếu sau:
- Luận văn cung cấp nguồn tƣ liệu thực địa phong phú là kết quả của
quá trình điền dã ở những di tích lịch sử nhà Tống. Tiến hành tìm kiếm, sƣu

10


tầm, tập hợp, nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống những sự tích liên
quan đến truyền thuyết Tứ Vị Thánh Nƣơng.
- Luận văn thông qua việc so sánh truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu ở
điện Mẫu (Tân Hội, Trung Quốc) với truyền thuyết về Tứ Vị Thánh Nƣơng
ở đền Lộ (Hà Nội) để tìm ra những đặc điểm mang tính địa phƣơng trong
truyền thuyết Tứ Vị Thánh Nƣơng ở đền Lộ (Hà Nội).
- Luận văn thông qua việc đối sánh với lễ hội điện Mẫu (Tân Hội,
Trung Quốc), giới thiệu, miêu tả và phân tích lễ hội đền Lộ (Hà Nội) một
cách cụ thể và toàn diện.
- Luận văn hƣớng đến giải quyết câu hỏi: Tại sao đền Lộ (Hà Nội)
thuộc vùng châu thổ Bắc Bộ lại thờ thần biển mặc dù xung quanh đó khơng
hề có biển?
- Luận văn hƣớng đến chứng minh quá trình lƣu truyền truyền thuyết và
tổ chức lễ hội về Tứ Vị Thánh Nƣơng là một q trình có động cơ và đầy
tính sáng tạo.
- Q trình triển khai đề tài, chúng tơi chứng minh sự đúng đắn của
phƣơng pháp nghiên cứu văn học dân gian hiện nay là gắn việc nghiên cứu

văn bản (nghệ thuật ngôn từ) với môi trƣờng diễn xƣớng của tác phẩm.

11


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ VỊ THÁNH NƢƠNG Ở ĐỀN
LỘ (HÀ NỘI) QUA ĐỐI SÁNH VỚI TRUYỀN THUYẾT VỀ DƢƠNG
THÁI HẬU Ở ĐIỆN MẪU (TÂN HỘI, TRUNG QUỐC)
1.1. Khái niệm truyền thuyết
1.1.1. Khái niệm truyền thuyết theo học giả Việt Nam
Truyền thuyết ở Việt Nam có từ khá sớm, hình thành vào cuối thời kỳ
cơng xã ngun thủy. Tuy nhiên thuật ngữ truyền thuyết và việc giới thiệu
nó ra đời lại khá muộn, vào khoảng giữa thế kỉ XX.
Ngƣời đầu tiên đề cập đến truyền thuyết là Đào Duy Anh. Khi ông viết
về vấn đề “Những truyền thuyết đời thƣợng cổ nƣớc ta” trên tạp chí Tri Tân,
ông đã đề cập đến từ truyền thuyết: “Sách xƣa của ngƣời Trung Quốc không
chép việc Triệu Đà đánh An Dƣơng Vƣơng để chiếm Tƣợng Quận, nhƣng
cứ truyền thuyết ấy, nếu ta bỏ đi những yếu tố hoang đƣờng thì cũng còn lại
kỷ niệm của một cuộc chiến tranh hẳn có” [7, tr. 126].
Đến những năm 50 của thế kỷ XX, thuật ngữ “truyền thuyết” đã đƣợc sử
dụng nhiều hơn. Định nghĩa đầu tiên về “truyền thuyết” có lẽ xuất hiện trong
cơng trình Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam. Khi xác định gianh giới giữa
thần thoại với truyền thuyết, các tác giả Nhóm Lê Qúy Đơn đã bƣớc đầu
định nghĩa truyền thuyết nhƣ sau: “Truyền thuyết là tất cả những chuyện lƣu
hành trong dân gian có thật xảy ra hay khơng thì khơng có gì bảo đảm” [26,
tr. 60].
Năm 1961, trong bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của trƣờng
Đại học Sƣ phạm Hà Nội, tác giả Đỗ Bình Trị thừa nhận truyền thuyết là
một thể loại và đã đƣa ra định nghĩa về nó: “Truyền thuyết là những truyện

có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kì diệu – là lịch sử hoang đƣờng – hoặc

12


là những truyện tƣởng tƣợng ít nhiều gắn với sự thực lịch sử” [43, tr. 176].
Cịn trong giáo trình của Đại học tổng hợp đƣợc viết và xuất bản từ năm
1962, Giáo sƣ Đinh Gia Khánh khơng thừa nhận có thể loại truyền thuyết
mà chỉ coi đó là cổ tích lịch sử.
Báo Nhân dân số 549 ngày 29 tháng 4 năm 1969 đăng bài “Nhân ngày
Giỗ Tổ vua Hùng” của cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng. Bài báo đã nêu ra vấn
đề mẫu chốt của truyền thuyết là mối quan hệ giữa lịch sử và truyền thuyết:
“Những truyền thuyết dân gian thƣờng có một cái lõi là sự thực lịch sử mà
nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tƣởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha
của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tƣởng tƣợng và nghệ
thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con cháu cịn ƣa
thích” [29, tr. 48-49].
Viết một cách khá công phu về truyền thuyết phải kể đến chuyên khảo
Truyền thống anh hùng trong thời kỳ phong kiến của tác giả Kiều Thu Hoạch
đƣợc công bố vào năm 1969, đây là một chuyên khảo khoa học đƣợc dƣ luận
đồng tình và coi nhƣ một cái mốc đầu tiên trong việc nghiên cứu truyền
thuyết nhƣ một thể loại của văn học dân gian. Ông đã đƣa ra khái niệm
tƣơng đối hoàn chỉnh về truyền thuyết: “Truyền thuyết là một thể loại truyện
kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của
nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các
phong vật địa phƣơng theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật
phổ biến của nó là khoa trƣơng, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng
những yếu tố hƣ ảo, thần kì nhƣ cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ
khơng nhằm phản ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận cá nhân,
mà thƣờng phản ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc gia, dân tộc rộng lớn,

nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã hội trên cơ sở sự thật lịch
sử cụ thể chứ khơng phải hồn tồn trong trí tƣởng tƣợng và bằng trí tƣởng

13


tƣợng” [14, tr. 18-19]. Trong cuốn sách Văn học dân gian người Việt – Góc
nhìn thể loại, Giáo sƣ Kiều Khu Hoạch công bố bài viết “Thể loại truyền
thuyết dƣới mắt các nhà nghiên cứu FOLKLORE Nhật Bản và Trung Quốc”,
giới thiệu quan điểm của học giả Trung Quốc, ông cho rằng muốn hiểu rõ
loại truyền thuyết đích thực của Trung Quốc cần phải nắm vững 3 vấn đề là
tính cố định, đặc trƣng và mục đích. Vấn đề tính cố định chỉ thời đại cố định,
địa điểm cố định, nhân vật cố định, sự kiện cố định. Vấn đề đặc trƣng là tính
đáng tin, tính cụ thể, tính khơng cố định của hình thức kể chuyện. Cịn mục
đích của thể loại truyền thuyết là giáo huấn và giải thích.
Năm 1971, trong cơng trình Truyền thuyết anh hùng trong loại hình tự
sự dân gian, tác giả Phan Trần có bài “Tinh thần dân tộc qua các truyền
thuyết lịch sử” đã nêu định nghĩa về truyền thuyết: “Truyền thuyết là những
truyện truyền tụng trong dân gian về những sự việc và nhân vật có liên quan
đến lịch sử. Những nhân vật, sự việc đó đƣợc phản ánh qua trí tƣởng tƣợng
của con ngƣời, qua sự hƣ cấu của nhân dân” [32, tr. 14].
Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, Giáo sƣ, tiến sĩ Lê Chí Quế, trong
giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, phân loại và phân tích từ các dẫn
chứng cụ thể giúp ngƣời đọc hiểu đầy đủ hơn về thể loại truyền thuyết:
“Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những
sự kiện, nhân vật lịch sử hay di tích, cảnh vật địa phƣơng thông qua sự hƣ
cấu nghệ thuật thần kì” [31, tr. 49]. Đặc biệt, đối với giáo trình Văn học dân
gian của Trƣờng Đại học Tổng hợp mà nói, thì đây là một sự thay đổi lớn
trong quan điểm biên soạn phần truyền thuyết. Nếu nhƣ trƣớc đây mấy chục
năm, Giáo sƣ Đinh Gia Khánh không thừa nhận có thể loại truyền thuyết mà

chỉ coi đó là cổ tích lịch sử, thì từ nay, trong bộ giáo trình này, tác giả Lê
Chí Quế đã thừa nhận sự tồn tại độc lập của truyền thuyết nhƣ một thể loại
trong kho tàng tự sự dân gian.

14


1.1.2. Khái niệm truyền thuyết theo học giả Trung Quốc
Trong các bộ sách cổ Trung Quốc nhƣ Ngũ Kinh, Hán Thư v.v chúng ta
đã gặp từ “truyền thuyết” với hàm nghĩa hết sức phong phú. Lúc đầu nó chỉ
những dị bản khác của một tác phẩm, sau đó nó đƣợc sử dụng để chỉ sự
khác biệt giữa cổ văn kinh học và kim văn kinh học, hoặc là chỉ hoạt động
giải thích kinh điển. Ngồi ra, khái niệm truyền thuyết cịn đƣợc sử dụng để
chỉ những ngơn luận bao gồm câu chuyện, tin tức, ca dao đƣợc lƣu truyền
trong dân gian v.v… Hiển nhiên, khái niệm truyền thuyết truyền thống
khác với khái niệm truyền thuyết hiện đại mà chúng ta đang sử dụng.
Tuy nhiên, ở thời cổ đại Trung Quốc, chúng ta vẫn có thể tìm thấy
những danh từ tƣơng đƣơng với khái niệm truyền thuyết hiện đại đó là
“truyền văn”, “truyền ngoa” v.v… Gọi là “truyền văn”, tức là chỉ những sự
việc mà khơng phải chính tai mình nghe thấy, chính mắt mình trơng thấy.
Gọi là “truyền ngoa” tức là chỉ vào những sự việc, những mẩu chuyện
hoang đƣờng kì quái đƣợc lƣu truyền trong dân gian. Những mẩu chuyện
truyền văn, truyền ngoa ở một mức độ nào đó cũng có thể coi là truyền
thuyết.
Cho đến phong trào Ngũ Tứ của giai cấp cơng nhân và trí thức Trung
Quốc bùng nổ ngày 4/5/1919, dƣới sự ảnh hƣởng của văn hóa, tƣ tƣởng
phƣơng Tây, hầu hết các trí thức đều học tập theo phƣơng Tây, họ nỗ lực
thúc đẩy sự phát triển của văn hóa học thuật bản địa Trung Quốc hịa nhập
quỹ đạo văn hóa quốc tế. Khái niệm truyền thuyết và nhiều văn bản truyền
thuyết phƣơng Tây đƣợc dịch và giới thiệu giúp học giả Trung Quốc dần

dần ý thức đến tính độc đáo của truyền thuyết, bƣớc đầu coi truyền thuyết
nhƣ thể loại văn học dân gian, còn việc dịch những từ nhƣ Sage trong tiếng
Đức và Legend trong tiếng Anh ra tiếng Trung là chỗ dựa quan trọng của
khái niệm truyền thuyết ra đời.

15


Từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã xuất hiện mấy định nghĩa khác nhau
về truyền thuyết dân gian. Theo sự phát triển của thời đại, sự hiểu biết về
khái niệm truyền thuyết cũng khơng ngừng phát triển. Nói chung, khi xác
định khái niệm truyền thuyết, học giả Trung Quốc chủ yếu quan tâm đến đặc
trƣng của thể loại là tính lịch sử, tính địa phƣơng và tính văn học.
Một số học giả coi trọng đặc trƣng tính lịch sử và tính địa phƣơng khi
định nghĩa khái niệm truyền thuyết. Trƣơng Tử Thần trong Tri thức cơ bản
văn học dân gian cho rằng: “Truyền thuyết dân gian, tức là những truyện
truyền miệng do nhân dân lao động sáng tác, gắn bó chặt chẽ với nhân vật
lịch sử, sự kiện lịch sử cũng nhƣ cổ tích, phong tục địa phƣơng v.v... Truyền
thuyết thƣờng bắt đầu từ những nhân vật, sự kiện lịch sử nhất định và danh
lam thắng cảnh của các địa phƣơng… từ đó xây dựng những tình tiết sinh
động, có sự giải thích bằng trí tƣởng tƣợng về các sự vật hữu quan có tính
lịch sử và tính khả tin” [75, tr. 24]. Chung Kính Văn cũng cho rằng “Truyền
thuyết dân gian là những truyện do nhân dân lao động sáng tác có liên quan
tới nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, cổ tích địa phƣơng, phong vật tự nhiên,
tập tục xã hội nhất định” [77, tr. 183]. Ông đặc biệt nhấn mạnh sự liên hệ
chặt chẽ giữa truyền thuyết và lịch sử, coi truyền thuyết là “lịch sử truyền
miệng”. Việc định nghĩa truyền thuyết liên quan chặt chẽ tới lịch sử và cổ
tích, phong tục địa phƣơng cho thấy quan điểm của các học giả rất coi trọng
chức năng giải thích của truyền thuyết. Quan điểm này thực ra nhấn mạnh
vào nội dung lớp ngoài của truyền thuyết, vì vậy có thể nói, nó vẫn chỉ là

một quan điểm có tính chất sơ bộ.
Một số học giả ngoài việc coi trọng mối liên hệ giữa truyền thuyết và
lịch sử, cổ tích, phong vật địa phƣơng ra, cịn nhấn mạnh đặc trƣng tính văn
học của truyền thuyết. Lƣu Thủ Hoa trong Văn học dân gian khái luận thập
giảng vừa nhấn mạnh truyền thuyết nhƣ là “một loại truyện có tính lịch sử

16


khá rõ ràng”, vừa nhấn mạnh nó là câu chuyện “có tính văn học nhất định”:
“Truyền thuyết dân gian liên quan tới nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử nhất
định cũng nhƣ cổ tích địa phƣơng, phong vật tự nhiên, phong tục, tập qn
của địa phƣơng đó v.v… vì vậy nó là một loại truyện có tính lịch sử khá rõ
ràng. Từ “truyền thuyết” có mấy hàm nghĩa khác nhau, truyền thuyết có thể
là một trong những loại hình văn học truyền miệng dân gian, tức là chỉ
những truyện truyền miệng có tính văn học nhất định, mà truyện kể truyền
miệng thô sơ không nằm trong lĩnh vực truyền thuyết dân gian” [65, tr. 68].
Định nghĩa về truyền thuyết trong Thử tìm hiểu truyền thuyết và phong tục
dân gian cũng có quan điểm nhƣ thế này. Cơng trình này quan niệm truyền
thuyết là “những truyện đƣợc hình thành thơng qua hoạt động sáng tác của
nhân dân các dân tộc, lƣu truyền trong một thời gian dài, đặc biệt là thơng
qua q trình điển hình hóa, các thủ pháp nghệ thuật hóa tƣơng đối phức tạp
nhƣ khoa trƣơng, ảo hóa, đúc kết v.v để làm sáng tỏ bản chất sinh hoạt xã
hội lồi ngƣời” [52, tr. 3].
Có nhiều học giả tỏ thái độ đồng thời coi trọng cả ba đặc trƣng của
truyền thuyết là tính lịch sử, tính địa phƣơng và tính văn học khi xác định
khái niệm truyền thuyết. Nơng Học Quan cho rằng: “Nói một cách khái qt,
truyền thuyết dân gian là những câu chuyện đƣợc nhân dân các dân tộc sáng
tác trên cơ sở vận dụng những thủ pháp biểu hiện của văn học và phƣơng
thức diễn đạt lịch sử, phản ánh những nhân vật, sự kiện lịch sử tại những

thời kỳ khác nhau, hoặc danh lam thắng cảnh, phong vật tự nhiên, tập tục xã
hội ở các địa phƣơng khác nhau” [52, tr. 3]. Hoàng Đào trong Khái luận văn
học dân gian Trung Quốc cho biết: “Truyền thuyết là những truyện truyền
kỳ do dân chúng sáng tác, truyền bá bằng miệng để miêu tả những nhân vật
lịch sử hoặc sự kiện lịch sử, giải thích phong vật hoặc tập tục địa phƣơng”
[61, tr. 143]. Vạn Kiến Trung cũng cho rằng: “Truyền thuyết, tức là loại hình

17


tự sự truyền kỳ bằng miệng, miêu tả những nhân vật lịch sử hoặc sự kiện
lịch sử, giải thích phong vật hoặc tập tục địa phƣơng” [52, tr. 3].
Giáo sƣ, tiến sĩ Kiều Thu Hoạch, một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian
nổi tiếng của Việt Nam, trên cơ sở tham khảo cơng trình nghiên cứu của các
học giả Trung Quốc, đã công bố bài viết với nhan đề “Thể loại truyền thuyết
dƣới mắt các nhà nghiên cứu FOLKLORE Nhật Bản và Trung Quốc”. Theo
quan điểm của giáo sƣ Kiều Thu Hoạch, các học giả Trung Quốc khi tiếp
cận về truyền thuyết đã đƣa ra lý thuyết về truyền thuyết nhƣ sau: “Khái
niệm truyền thuyết theo nghĩa hẹp ở đây đƣợc hiểu là những truyện truyền
miệng lấy nhân vật hoặc sự kiện lịch sử làm nội dung và hệ thống các tình
tiết xoay quanh câu chuyện đều lấy sự kiện lịch sử làm cơ sở. Cũng gọi là
truyền thuyết theo nghĩa hẹp những câu chuyện dựa theo lịch sử để giải thích,
thuyết minh các vật tự nhiên (núi, sơng, động, thực vật…) hoặc các vật nhân
tạo (đền miếu, chùa chiền, thành quách…). Muốn hiểu rõ loại truyền thuyết
theo nghĩa hẹp, tức là truyền thuyết đích thực của Trung Quốc cần phải nắm
vững 3 vấn đề sau: Một là vấn đề tính cố định – Hai là vấn đề đặc chƣng –
Ba là vấn đề mục đích của truyền thuyết” [52, tr. 3].
1.1.3. Nhận xét
Thông qua so sánh khái niệm truyền thuyết theo học giả hai nƣớc Việt
Nam và Trung Quốc, chúng ta có thể thấy cách nhìn nhận về thể loại truyền

thuyết của học giả hai nƣớc cơ bản là tƣơng đồng. Mặc dù phƣơng thức diễn
đạt của các học giả Việt Nam và Trung Quốc có khác biệt, nhƣng họ đều
nhất trí coi truyền thuyết bám sát với lịch sử, truyền thuyết có yếu tố hƣ ảo,
thần kì. Điểm khác biệt rất nhỏ giữa học giả Trung Quốc và Việt Nam là có
nhiều học giả Trung Quốc nhấn mạnh đến tính địa phƣơng của truyền thuyết
khi xác định khái niệm truyền thuyết.

18


1.2. Truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu ở điện Mẫu (Tân Hội, Trung
Quốc)
1.2.1. Dƣơng Thái Hậu qua các nguồn thƣ tịch
Sử liệu sớm nhất có ghi chép về Dƣơng Thái Hậu là Tống Sử
“Thừa tƣớng Lục Tú Phu

:

… ngậm ngùi nƣớc mắt cõng vị hoàng đế

nhỏ mới 8 tuổi nhảy xuống biển tự tử. Dƣơng Thái Hậu biết tin con trai đã
chết, bèn khóc than rằng: “Ta từ ngàn dặm xa xơi đến đây, cũng là vì cốt
nhục của nhà Triệu, hơm nay chết rồi, ta cịn sống đƣợc nữa ƣ?” Nói rồi
cũng nhảy xuống biển tử tự theo con trai” [70, tr. 243].
Cuốn Thành phố nổi tiếng văn hoá lịch sử Tân Hội đã ghi: “Dƣơng Thái
Hậu, tức Dƣơng Thục phi, là phi tử của Nam Tống Độ Tông. Cuối thời Nam
Tống, quân Nguyên tấn công Lâm An, Dƣơng Thục phi đƣa Triệu Thị
Triệu Bính

,


chạy về phía nam theo đƣờng biển. Quần thần tôn Triệu

Thị (Đoan Tông) làm đế, Dƣơng Thục phi làm Thái Hậu. Tại trận Nhai Môn
giữa quân Tống và quân Nguyên, Dƣơng Thái Hậu nhảy xuống biển tự vẫn”
[72, tr. 32].
Sử liệu các đời cho phép chúng ta tái hiện lại bối cảnh lịch sử thời kỳ
Dƣơng Thái Hậu: Năm 1276, kinh đô Lâm An của nhà Nam Tống rơi vào
tay quân đội Mông Cổ, vua nhà Tống là Tống Cung Tông bị bắt làm tù binh.
Dƣơng Thục phi (phi tử của Tống Độ Tông) đƣa hai hồng tử bé là Triệu
Thị, Triệu Bính chạy về phía nam qua đƣờng biển, cùng những văn thần, võ
tƣớng tiếp tục bất khuất chống Ngun. Lực lƣợng cịn sót lại kéo đến Phúc
Châu đã đƣa Triệu Thị (tức Tống Đoan Tông), lúc này mới chỉ là một đứa
trẻ 8 tuổi, lên ngôi báu, quân thần tôn Dƣơng Thục phi là Thái Hậu, có
quyền nhiếp chính. Lúc bấy giờ, qn Ngun tiếp tục đánh đuổi Tống Đoan
Tơng, buộc triều đình nhà Tống phải tiếp tục lênh đênh trên biển. Chuyến đi
cực nhọc này đã khiến Tống Đoan Tơng mới có 9 tuổi đổ bệnh và qua đời

19


vào ngày 8 tháng 5 năm 1278 tại trấn Mai Oa trên đảo Lạn Đầu. Để duy trì
nhà Tống, Dƣơng Thái Hậu cùng các đại thần lại ủng hộ Triệu Bính (7 tuổi)
làm vua, đây là Tống Đế Bính, vị vua cuối cùng của nhà Tống. Cuối cùng
nhà Tống thiên đô đến Nhai Sơn, Tân Hội, Giang Môn, Quảng Đông, vốn là
một hải đảo bỏ hoang tƣơng đối lớn ven biển, đây cũng là vùng có địa thế
hết sức hiểm yếu, phía Đơng là Nhai sơn

, phía Tây là Thang Bình sơn


khiến việc phịng thủ trở nên dễ dàng. Tại đây, triều đình nhà Tống xây dựng
hành cung 30 gian, trong đó chính điện hành cung là điện Từ Ngun
, là cung điện dành cho Dƣơng Thái Hậu và Tống Đế Bính vào triều nghị
chính. Bên ngồi cung điện có hơn 3000 gian nhà ở dành cho văn võ bách
quan và quân đội, tất cả tổng cộng có khoảng 200 nghìn quân dân. Triều
đình nhà Tống tập hợp lực lƣợng, đóng chiến thuyền, rèn võ khí, tập luyện
thủy qn, triệu tập quân dân các địa phƣơng, chiêu binh cần vƣơng. Một hải
đảo hoang vắng đã xuất hiện cảnh tƣợng phồn vinh trong một thời gian ngắn.
Nhai Sơn trở thành căn cứ địa cuối cùng của nhà Nam Tống, là nơi nhà Nam
Tống đóng qn lâu nhất trong q trình lƣu vong (trong vòng 9 tháng). Vào
ngày 25 tháng 2 năm 1279, lực lƣợng truy đuổi của nhà Nguyên tiến đánh
quân Đế Bính, một trận quyết chiến lớn giữa hai bên đã diễn ra trên vùng
biển ngồi khơi Nhai Mơn. Cuối cùng, thủy quân Nam Tống bị thua. Ngày
19 tháng 3 năm 1279, ở vào thế đƣờng cùng, Thừa tƣớng Lục Tú Phu ơm
Tống Đế Bính mới có 8 tuổi nhảy xuống biển tự vẫn chứ không chịu rơi vào
tay quân Nguyên, quần thần đều nhảy xuống theo. Dƣơng Thái Hậu biết tin
Đế Bính đã chết, cũng nhảy xuống biển tự tử. Hơm sau trên biển nổi lên hơn
100 nghìn thi thể. Nhà Nam Tống bị diệt vong.
Bài viết “Từ N guyên tiểu khảo” của Lâm Phúc Kiệt đƣợc đăng trên Nhật
báo Giang Môn vào ngày 6 tháng 7 năm 2007 đã miêu tả về sự hi sinh cao
cả của Quốc Mẫu Dƣơng Thái Hậu nhƣ sau: “Dƣơng Thái hậu tên họ là

20


Dƣơng Cự Lƣơng (1244 – 1279), sinh ngày 27 tháng 4 âm lịch năm 1244, là
quý phi của Tống Độ Tông, là mẹ ruột của Tống Đoan Tông, tức Triệu Thị,
khi Thị lên ngơi bà đƣợc tơn là Hồng Thái Hậu. “Từ Nguyên” là tên riêng
dùng để chỉ Dƣơng Thái Hậu. “Bia miếu Từ Nguyên”
nho Trần Hiến Chƣơng


của nhà

đã gọi Dƣơng Thái Hậu là “Từ Nguyên

Hậu”. Dƣơng Thái Hậu rất yêu thƣơng ngƣời con ruột của mình là Triệu Thị,
giúp đỡ Triệu Thị xử lý quốc gia đại sự sau khi Triệu Thị lên ngôi tại Phúc
Châu vào năm 1276, sau Triệu Thị mắc bệnh qua đời, bà lại là ngƣời đã ủng
hộ Triệu Bính khơng phải con ruột mình lên ngôi, vẫn coi nhƣ con ruột, tận
tâm dạy dỗ Đế Bính học văn và phụ trợ xử lý chính sự. Nay tại miếu Từ
Nguyên có bày tƣợng từ mẫu dạy dỗ con trai của Dƣơng Thái hậu. Tên gọi
Từ Nguyên ở đây có nghĩa là “Thiên hạ đệ nhất từ mẫu” [63].
1.2.2. Truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu qua điền dã thực địa
Mặc dù trong 5000 năm lịch sử Trung Quốc, Dƣơng Thái Hậu không
phải là một nhân vật lịch sử nổi tiếng, sử sách cũng chỉ đề cập qua về Dƣơng
Thái Hậu. Nhƣng vùng Tân Hội, Giang Môn, Quảng Đơng, nhất là ở các
làng hồng tộc, những câu chuyện lịch sử về Dƣơng Thái Hậu đƣợc nhân
dân truyền tụng từ đời này sang đời khác. Ngày 30 tháng 5 năm 2011, chúng
tôi đã khảo sát tại ba làng hoàng tộc là làng Quan Xung, làng Hà Lộ và làng
Từ Khê nằm xung quanh điện Mẫu, dân trong vùng cịn gọi là điện Quốc
Mẫu, chúng tơi phát hiện truyền thuyết Dƣơng Thái Hậu đƣợc ngƣời dân kể
đi kể lại chủ yếu gắn bó chặt chẽ với trận hải chiến Nhai Môn giữa quân
Tống và quân Nguyên

. Theo điều tra điền dã của chúng tôi,

truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu kể về cuộc đời của Dƣơng Thái Hậu từ
khi bà đƣa hai hồng tử bé chạy nạn sang Quảng Đơng đến khi bà tự vẫn để
không phải rơi vào tay qn Mơng Cổ, cốt truyện gần giống nhƣ chính sử.


21


Tuy nhiên, truyện kể trong dân gian tràn đầy tình cảm kính mến, nhớ
thƣơng của nhân dân đối với Dƣơng Thái Hậu. Theo nhƣ lời kể của dân
chúng, Dƣơng Thái Hậu là ngƣời tài sắc, đức độ, và hiền hậu. Bà ngày đêm
vì nƣớc, vì dân, và là một ngƣời mẹ rất mực yêu thƣơng con cái. Những dị
bản liên quan đến truyền thuyết về Dƣơng Thái Hậu ngoài những truyện kể
bám sát nội dung chính sử, đƣợc lƣu truyền phố biến trong vùng Tân Hội,
Giang Môn, Quảng Đông ra, còn một số truyền thuyết liên quan đến phong
tục và cảnh vật địa phƣơng.
Trong dân gian, việc xây dựng điện Mẫu đƣợc cho là bắt đầu từ một
truyền thuyết về việc Dƣơng Thái Hậu hiển mộng. Tƣơng truyền Trần Bạch
Sa là một nhà Nho lớn nổi tiếng rất chú trọng việc ngợi ca và phát dƣơng
cơng tích đến những vị cơng thần liệt sĩ trong lịch sử. Năm Hàm Hóa, ông
kiến nghị tri huyện Đào Lỗ cho xây dựng đền Đại Trung tại Nhai Sơn để kỷ
niệm Thừa tƣớng nhà Tống là Văn Thiên Tƣờng, Lục Tú Phu và Thái phó
Trƣơng Thế Kiệt. Sau đó, Trần Bạch Sa nằm mơ thấy một ngƣời đàn bà mặc
quần áo trắng, đứng trƣớc đền Đại Trung Nhai Sơn, cử chỉ trang nghiêm,
than khóc mà nói: “Ta từ ngàn dặm xa xơi đến đây, cũng là vì giữ đƣợc nhà
Tống, nay ta phiêu bạt khơng chỗ dựa, ơng có thể giúp đỡ khơng.” Trần
Bạch Sa nghe xong biết là Dƣơng Thái Hậu, liền quì gối, chƣa kịp bẩm báo,
ngƣời dân bà ấy đã tiêu tan trƣớc mắt. Việc Dƣơng Thái Hậu báo mộng
khiến Trần Bạch Sa mãi không thể nào quên.
Năm Hồng Trị, quan Chính sử hữu bố là Lƣu Đại Hà đến Tân Hội, mời
Trần Bạch Sa cùng đi Nhai Sơn thăm viếng chiến trƣờng thời Nam Tống
xƣa. Hai ngƣời đi thuyền đến Nhai Môn, khi đến chiến trƣờng xƣa, Trần
Bạch Sa không khỏi cảm thán bi thƣơng. Lƣu Đại Hà biết Trần Bạch Sa là
ngƣời mang tinh thần dân tộc và là một quân tử trung nghĩa tiết liệt. Để Trần
Bạch Sa không phải quá sầu buồn, ông kiến nghị dừng thuyền đi lên di tích


22


hành cung cổ Nhai Sơn thăm viếng. Đứng trƣớc cung điện nhà vua Nam
Tống xƣa, giờ đây chỉ sót lại tƣờng long vách lở, một vùng vắng lặng, Trần
Bạch Sa xúc động đọc mấy câu thơ:
Hoang sơn dã thủy vô nhân đáo,
Lạc nhật trƣờng phong tiễn khách bi.
Thiên địa cơ hội nhân biến quỷ,
Phong ba vạn lý mẫu tƣớng nhi.
(

Dịch nghĩa:
Núi sơng hoang dã khơng ngƣời đến,
Chiều muộn, gió lạnh khiến lòng khách bi thƣơng.
Giữa đất trời bỗng nhiên ngƣời hóa thành quỷ,
Phong ba nghìn dặm mẹ làm tƣớng cho con.)
Những câu thơ của Trần Bạch Sa đọc lên nghe vừa thê lƣơng vừa sầu
thảm. Lƣu Đại Hà mới an ủi ông rằng: “Tiên sinh đừng quá đau buồn, nơi
đây đã không hoang vu nhƣ xƣa, đền Đại Trung do ông kiến nghị xây dựng
15 năm trƣớc, nay chẳng phải đang đứng nguy nga trên Nhai Sơn hay sao?
Nghe Lƣu Đại Hà nói vậy, Trần Bạch Sa nhớ đến việc Dƣơng Thái Hậu hiện
mộng, liền trình bày tỉ mỉ cho Lƣu Đại Hà nghe. Lƣu Đại Hà cũng tán thành
xây dựng lại điện Từ Nguyên. Một ngƣời đứng ra nhận việc cổ vũ, việc xây
dựng này ở cấp tỉnh, một ngƣời đứng ra hô hào nhân dân trong huyện. Bằng
sự nỗ lực của Trần Bạch Sa và Lƣu Đại Hà và sự đóng góp tiền bạc của
ngƣời dân làng Tam Giang là Triệu Tƣ Nhân, hậu duệ của hoàng tộc, cuối
cùng điện Từ Nguyên đã đƣợc xây dựng lại, hoàn thành đƣợc ƣớc vọng của


23


×