Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Sang kien giao duc ky nang song cho tre mam non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.85 KB, 27 trang )

Mẫu 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM
NON”

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ
và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình:
“Trẻ em hơm nay, Thế giới ngày mai”. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi cịn nhỏ là vơ cùng
quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách tồn diện
cho trẻ sau này.Bác Hồ nói: “Khơng có giáo dục thì khơng nói gì đến kinh tế văn hóa”.
Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát
triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.
Như chúng ta đã biết, đất nước ta hiện nay nền kinh tế phát triển đang trên đường
hội nhập Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lơi kéo, kích động... Hiện nay, thế hệ trẻ thường
xun chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, ln được đặt vào
hồn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức,
những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu
cực, bạo lực, và lối sống ích kĩ lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.
Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hóa
của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ cần thiết
nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời đại hiện nay
để sớm đào tạo cho xã hội những con người tài đức vẹn toàn.
Là một giáo viên mầm non, sau nhiều năm thực tế trãi nghiệm tơi quyết định trình
bày sáng kiến Kinh Nghiệm: “Một vài biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm
non” một vấn đề đang được quan tâm trong giáo dục Mầm non hiện nay.
* Vấn đề được nghiên cứu:


Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tơn vinh các


giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển tồn diện, bền vững,
có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình
trong cuộc sống.
Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị cuộc sống để phát triến
nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ nhận thức đúng và có hành vi
ứng xử phù hợp ngay từ khi cịn nhỏ.
* Thực trạng vấn đề:
Lâu nay, chúng ta thường quan niệm: Rèn dạy kỹ năng sống chủ yếu chỉ dành cho
người lớn. Nhưng đối với trẻ ở lứa tuổi tập nói, dạy lễ giáo đạo đức ban đầu cho các cháu
ở trường mầm non là rất quan trọng trong việc hình thành thói quen và nhân cách của bé
sau này.
Thực tế từ các trường cho thấy, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thường được thực
hiện bằng cách cho trẻ xem tranh truyện, tổ chức hội thi: “Bé khỏe, bé ngoan” có giáo
viên, cha mẹ và trẻ cùng tham gia thi hoặc tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống
để khơi dậy lòng nhân ái trong trẻ, giúp trẻ có được những kỹ năng sống, kỹ năng giao
tiếp ứng xử. Tuy nhiên do tác động ngoại cảnh hay trẻ được nuông chiều và đáp ứng mọi
thứ theo yêu cầu nên có những biểu hiện khơng đúng trong lễ giáo với mọi người trong
gia đình và bạn bè, trẻ khơng có được kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng lãnh đạo…
Theo nhận định của nhiều giáo viên, do lớp có số lượng trẻ q đơng, số giáo viên
trong một lớp cũng chưa đủ theo qui định nên việc uốn nắn hành vi, cử chỉ cho từng trẻ
cũng là vấn đề khó khăn. Điều kiện cơ sở vật chất để dạy trẻ thực hành hành vi lễ giáo,
liên hệ thực tế cũng còn nhiều khuyết điểm nên việc giáo dục chỉ dừng lại ở cung cấp
kiến thức.
* Lí do chọn đề tài:
Câu nói: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do Giáo dục mà nên”.
Thật vậy: Nếu trẻ được sống trong một môi trường giáo dục tốt thì trẻ sẽ có những
đức tính tốt ngược lại trẻ sống trong một mơi trường thiếu Giáo dục thì nhân cách của trẻ
sẽ phát triển không tốt.



Với những thực trạng mà tôi vừa nêu ở phần trên kết hợp với nhận định của bản
thân kỳ vọng của tôi trong năm học này là đẩy mạnh giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ
mầm non để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Giáo dục hiện nay.
* Giới hạn nghiên cứu:
Hành trình giáo dục kỹ năng sống sẽ bắt đầu từ “động tác” cung cấp kiến thức và
hình thành những cảm xúc, những hành vi lễ giáo của trẻ. Ví như với bản thân, trẻ biết
tên mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà, biết cách đi, đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí
mến những người thân. Rồi biết thưa gửi, vâng dạ, khơng nói trống khơng, khơng nói leo,
biết xưng hơ thân mật, biết đảm nhận trách nhiệm và biết lãnh đạo... Trẻ phải được tiếp
cận những kỹ năng cơ bản của lứa tuổi như kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng học tập, kỹ
năng tự phục vụ. Giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm
và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc
sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Câu thành ngữ :“Tiên học lễ, hậu học văn” của cha ông ta từ ngàn xưa đã để lại
đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Lễ phép là nét đẹp văn hóa được
đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu
cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục
phải đào tạo ra những con người “phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ
của quá trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của cơng tác giáo dục trẻ.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Khi tìm hiểu thực trạng của trường, giáo viên và gia đình đã giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ, tôi nhận thấy yếu điểm xuất phát từ yếu tố kinh tế, xã hội, gia đình và nguyên
nhân chủ yếu là do các bậc cha mẹ thiếu kinh nghiệm trong quản lí gia đình, ít gần gũi
với con cái hoặc nuông chiều trẻ quá mức gây tác động đến kỹ năng ứng xử của trẻ như:
Trẻ không biết chào hỏi khi khách đến nhà hoặc đi về nhà khơng thưa người lớn trong gia
đình…



Năm học này, tôi được phân công đứng lớp Lớn 2 Tam Hịa hầu hết các cháu là
con nơng dân nên việc quan tâm đến con em còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó cịn có các
cháu gia đình ln nuông chiều thái quá. Một số phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng
của giáo dục kỹ năng sống cho con em ở lứa tuổi Mẫu giáo, nên thường khoán trắng cho
giáo viên.
Thời gian đầu trẻ đến lớp với thói quen tự do, ra vào lớp tự nhiên, hay nói leo, trả
lời khơng trọn câu hay một số cháu rất ít nói và rụt rè trong giao tiếp...
Mơi trường sống của trẻ ở gia đình và mơi trường sống, học tập vui chơi của trẻ ở
trường là hai nơi mà trẻ ln được tiếp cận.
Với tình hình như vậy, là Giáo viên Mầm non trăn trở với những thực trạng trên tơi
mạnh dạn đề xuất ra một số giải pháp thích hợp để từng trẻ lớp tơi có được những thói
quen và hành vi đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội, nhằm góp phần hình thành nhân
cách ban đầu cho trẻ, để trường học thực sự văn minh, thanh lịch.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học của ngành, tôi quyết tâm lấy mục tiêu giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ là nhiệm vụ hàng đầu trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ của năm
học này, để góp một phần nhỏ bé của mình vào quá trình hình thành nhân cách trẻ thơ
trong thời đại mới.
Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non khơng có giờ dạy đạo đức riêng, mà
thơng qua sử dụng hình thức tích hợp với nội dung bài dạy của các lĩnh vực để hướng trẻ
tới cảm xúc, tình cảm, hành vi lễ giáo.
1. Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học:
Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các mơn học nhằm hình thành cho trẻ
những thói quen, hành vi có văn hóa.
Ví dụ:
* Giờ học phát triển thể chất
Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khỏe
mạnh, trẻ biết trong khi tập không chen lấn xô đẩy nhau...
* Giờ học khám phá xã hội:

Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tơi


- Trẻ biết chia sẻ thơng tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, những
việc mà trẻ thường làm ở nhà.
Kỹ năng sống trẻ học được đó là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói và
chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
* Đối với giờ học tạo hình: “Vẽ ngơi nhà của bé”
Cơ giáo dục trẻ biết u q ngơi nhà mình ở, biết quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp
xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng...
* Đối với giờ học làm quen văn học: Qua câu chuyện “Người bạn tốt”
Cô đàm thoại cùng trẻ:
Linh và Trang là đôi bạn như thế nào?
Khi Linh gặp nạn thì Trang đã làm gì?
Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?
Cơ giáo dục trẻ tình đồn kết, thương u giúp đỡ bạn bè, biết nói những lời cảm
ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.
* Đối với giờ học làm quen chữ cái: dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp xếp
đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.
* Giờ học Giáo dục âm nhạc: Dạy bài hát “ Rửa mặt như mèo”
Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.
- Kỹ năng sống là phương pháp học mà chơi, chơi mà học.
Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh thần
đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, ngơn từ có vần
điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp
thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trị là người hỗ trợ giúp trẻ
phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tin
trong cuộc sống.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ khơng phải gị ép trong những tiết học chính thức mà
phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ:

2. Giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động vui chơi:


Trong hoạt động vui chơi trẻ được thực hành trãi nghiệm với nhiều vai chơi khác
nhau phản ảnh trong cuộc sống của người lớn, tôi tiến hành lồng kỹ năng sống vào vui
chơi. Qua đó trẻ được giao tiếp với nhau bằng những lời nói nhỏ nhẹ, ân cần, lễ phép,
những lời cảm ơn, xin lỗi, trao nhận bằng hai tay ...luôn được thể hiện .Tôi theo dõi lắng
nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực.Qua đó giúp trẻ hình thành
thói quen hành vi văn minh trong giao tiếp.
Ví dụ: Qua trị chơi Bán hàng:
Người bán hàng chào hỏi khách hàng: Cô, chú mua gì ạ?
Người đi mua hàng trật tự khi mua, nói tên hàng cần mua: Bán tôi một cân gạo,
bao nhiêu vậy cơ?
+ Trị chơi đóng vai Y tá – Bác sĩ:
Bác sĩ biết hỏi thăm bệnh nhân ân cần, “Cháu đau chỗ nào? Cháu có mệt lắm
khơng? ...”
Y tá phát thuốc dặn dò bệnh nhân uống thuốc.
Bệnh nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn với bác sĩ, y tá.
Qua hoạt động vui chơi trẻ dần dần được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử, chào hỏi
mạnh dạn hơn đối với mọi người.
Trong một thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi kỹ năng chào hỏi lễ phép, giao tiếp lịch
sự có phần chuyển biến rất tốt.
3. Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi:
Trong các hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường, trẻ dễ được tiếp cận những gì mà
cơ giáo, người lớn, bạn bè đã làm. Giờ đón trẻ và trả trẻ tơi ân cần và chuẩn mực trong
cách xưng hô với bố mẹ trẻ, tôi tập cho trẻ chào thưa lễ phép với cơ và bố mẹ trẻ.
Giờ hoạt động ngồi trời, dạo chơi tham quan...tôi đều quan tâm nhắc nhở trẻ ln
có những ý thức và hành động tốt như biết đồn kết vui chơi cùng bạn, khi làm việc gì
sai với bạn với cơ thì phải biết xin lỗi, ai cho gì thì nhận bằng hai tay và cảm ơn, biết giữ
vệ sinh môi trường, thân thể sạch sẽ...

Biện pháp này đạt kết quả rất cao, tôi tiếp tục áp dụng.
4. Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ:


Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ đóng vai trị quan trọng trong việc giáo dục trẻ mầm
non.
Thông qua các ngày hội, ngày lễ như: Giỗ Tổ Hùng Vương, ngày 20/11, Ngày Tết
Trung Thu, ... tôi tổ chức các hoạt động văn nghệ, các trò chơi dân gian, đồng thời ôn lại
truyền thống của dân tộc để giáo dục trẻ lòng tự hào dân tộc, biết nhớ ơn những người đã
hy sinh cho lợi ích dân tộc, lợi ích trồng người. Thơng qua đó trẻ có ý thức phấn đấu
trong học tập để sau này trở thành người có ích cho xã hội.
5. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình:
Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối kết hợp
với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để giáo dục trẻ. Gia
đình giáo dục tốt, trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt. Ngược lại, trẻ sẽ khơng có gì
khi khơng được gia đình quan tâm giáo dục. Như vậy, xuất phát điểm của trẻ là chưa
công bằng. Giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường sẽ xóa đi rào cản đó. Vì vậy, Giáo
viên và phụ huynh đều phải tiến hành giáo dục trẻ song song với nhau. Trong buổi họp
phụ huynh đầu năm tôi mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mầm non, để phụ huynh nhận thức rõ ý nghĩa vấn đề để cùng nhà
trường giáo dục trẻ.
Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về sự tiến
bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục rèn luyện cho trẻ
ở nhà. Đối với những trẻ mà giáo viên cần lưu ý hơn đó là trẻ có thể lực yếu, suy dinh
dưỡng, trẻ thụ động, trẻ hay nghịch thì tơi ln tranh thủ đến tận nhà để trực tiếp gặp gia
đình của cháu trao đổi về thực trạng của cháu và cùng với gia đình trẻ có biện pháp giúp
đỡ cho trẻ tốt hơn. Những cử chỉ và việc làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tơi
thường nêu ra và tuyên dương trẻ đó trước lớp trong giờ nêu gương để trẻ khác cùng học
tập.
Cuối tháng, thông qua sổ liên lạc của trẻ tôi đều ghi rất cụ thể những kỹ năng của

trẻ đã làm được để phụ huynh nắm bắt. Qua thời gian rèn luyện trẻ lớp tơi có nhiều tiến
bộ rõ rệt như mạnh dạn, lịch sự trong giao tiếp, xưng hô lễ phép thân thiện.
6. Cô giáo là tấm gương sáng:


Ở trường cô giáo là người mẹ thứ hai đối với trẻ. Trẻ rất thích được cơ u
thương, gần gũi. Mọi hành động cử chỉ của cô trẻ rất lưu tâm và bắt chước theo.
Vì vậy cơ phải ln ln chuẩn mực trong mọi lĩnh vực: như cách giao tiếp với
phụ huynh, với trẻ hay tác phong của cô, hành động cử chỉ của cô… Tôi luôn ân cần dịu
dàng thương yêu trẻ, luôn tạo mối thân thiện giữa cô và trẻ. Cô là tấm gương cho trẻ thực
hiện và noi theo.
Ví dụ: Khi chúng ta dạy trẻ nói lời cám ơn khi nhận được sự giúp đỡ của người
khác hoặc khi người khác làm một điều gì đó cho mình. Nhưng trong mối quan hệ giữa
các cơ giáo và giữa cơ với trẻ, người lớn khơng nói cám ơn thì trẻ sẽ khơng hình thành ý
thức của việc nên cám ơn người khác.
Khi thấy trên sân trường có lá cây, cô giáo đi qua và bảo trẻ: Con hãy nhặt bỏ vào
thùng rác đi. Khi ấy trẻ sẽ nhặt vì bị sai khiến.Cũng tình huống trên: Cơ nhặt lá cây bỏ
vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết tại sao cô bỏ lá cây vào thùng rác không? Giải thích
cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi. Lần
sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: nhặt rác làm sạch sân trường.
Thực hiện biện pháp trên hiệu quả đạt rất tốt: Khi cô giáo là mẹ hiền thì các cháu
sẽ là con ngoan.
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Sau những biện pháp tôi nghiên cứu và thực hiện chất lượng giáo dục về kỹ năng
sống cho trẻ được tăng lên rõ rệt. Trẻ ngoan hơn, lễ phép hơn, trẻ được hình thành những
thói quen vệ sinh văn minh, giao tiếp mạnh dạn với mọi người, biết chào hỏi khi có
khách đến, biết trao nhận bằng hai tay, biết quan tâm giúp đỡ bạn bè, cô giáo, ba mẹ…
Các bậc phụ huynh có những chuyển biến rõ rệt về phong cách, về lời ăn tiếng nói
và quan tâm đến con em mình ngày càng nhiều hơn.
Bản thân tơi được trau dồi kiến thức và có thêm những kinh nghiệm trong việc

giáo dục trẻ, được phụ huynh và các bạn đồng nghiệp thương yêu, quí mến hơn.
* Kết quả đạt trên trẻ:
- Kỹ năng giao tiếp:

90%

- Kỹ năng chăm sóc bản thân:

95%


- Kỹ năng quản lí cảm xúc:

90%

- Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm:

95%

- Kỹ năng lãnh đạo:

90%

VI. KẾT LUẬN:
Từ những biện pháp nêu trên tôi đã thực hiện với trẻ lớp tôi trong năm học này,
đến nay tôi nhận thấy kết quả rất khả quan điều đó chứng tỏ việc áp dụng các biện pháp
của đề tài đã có một hiệu quả nhất định.
Tuy kinh nghiệm còn khiêm tốn nhưng được rút ra từ thực tiễn giảng dạy cùng với
sự đóng góp một phần khơng nhỏ của Ban giám hiệu nhà trường và tập thể Hội đồng Sư
phạm.

* BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
1. Giáo viên nắm vững phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
2. Kỹ năng sống được lồng ghép thơng qua các hoạt động có trong nhà trường và ở
mọi lúc mọi nơi, các hoạt động chuyên môn, lễ hội…
3. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình, giữa giáo viên chủ nhiệm với
trẻ với phụ huynh thơng qua các giờ đón trả trẻ, các hoạt động giao lưu văn nghệ giữa
giáo viên và phụ huynh, các hoạt động lễ hội…
4. Cô giáo là trung tâm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, là một khuôn mẫu để trẻ
tiếp cận và học tập.
5. Trong quá trình áp dụng các biện pháp, cần chú ý kết hợp nhiều biện pháp với
nhau để đạt hiệu quả cao.
VII. ĐỀ NGHỊ:
Kính mong được đón nhận những góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học Giáo dục
để SKKN này phong phú và đạt hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người viết sáng kiến


Mẫu 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM
NON”

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay các nhà giáo dục trên thế giới đã cùng tìm cách giáo dục để tạo cho trẻ năng lực
tâm lý xã hội, nhằm ứng phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày
đó là kỹ năng sống. Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống của con người,
nhiều vấn đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực, cịn có những
tác động tiêu cực, gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu trẻ em khơng có

những kiến thức cần thiết để biết lựa chọn những giá trị sống tích cực, khơng có những
năng lực để ứng phó, để vượt qua những thách thức mà hành động theo cảm tính thì rất
dễ gặp trở ngại, rủi ro trong cuộc sống và sẽ bị lệch lạc sau này. Do đó, việc hình thành
kỹ năng sống cho trẻ ở lứa tuổi 5- 6 tuổi là một giai đoạn rất cần thiết nhằm giúp trẻ phát
triển toàn diện hơn.
Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng sự vận dụng những kỹ năng đó vào trong cuộc
sống hằng ngày như: tự tin trong giao tiếp, kỹ năng giải quyết các vấn đề, kỹ năng tự
phục vụ, kỹ năng hợp tác chia sẻ... Giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp trẻ phát triển hài
hoà, toàn diện về nhân cách, để cung cấp cho trẻ những kiến thức cần thiết về kỹ năng
sống để các em sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp các em biết được những điều
nên làm và không nên làm, biến những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành
hành động cụ thể trong quá trình hoạt động thực tiễn vớí bản thân, với người khác, với
xã hội, ứng phó với nhiều tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải
quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực.
Rèn kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi là rèn cho trẻ có được những hành vi lành mạnh, giúp
trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống và hình thành ở trẻ các giá trị văn hố con người
trong thời đại hiện nay, tạo cho trẻ nền tảng vững chắc khi chuyển qua một lối sống mới,
môi trường và quan hệ mới, đó là vào trường tiểu học.
Vì vậy, nhiệm vụ của giáo viên mầm non là phải rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non nói
chung trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng để tạo mọi tiềm năng tốt nhất giúp trẻ học tập tốt ở tiểu học


và bước vào cuộc sống tự tin hơn, thực hiện đúng các chuẩn mực văn hoá xã hội đạt hiệu
quả cao hơn. Nhất là đối với các trẻ em ở vùng cao như địa bàn tôi đang công tác hiện
nay. Cuộc sống của các cháu cịn gặp nhiều khó khăn, nhận thức của các bậc phụ huynh
còn nhiều hạn chế, để các em phát triển tồn diện hơn thì vấn đề rèn kỹ năng sống cho
các cháu là vô cùng cần thiết.
Trong những giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, trẻ em nào cũng cần hình thành được một
số kỹ năng, ky xảo, tri thức kinh nghiệm vững chắc và đầy đủ, cùng với một số thói quen
đạo đức theo chuẩn mực của xã hội, đủ cho trẻ có thể cư xử trong cuộc sống hằng ngày,

giao tiếp với mọi người và để người khác hiểu mình. Đặc biệt trẻ 5- 6 tuổi rất hiếu động,
hay bắt chước, làm theo, trẻ chưa hiểu rõ được hành động của mình đúng hay sai và như
thế nào. Cho nên tôi luôn đặt ra câu hỏi cần cung cấp cho trẻ những gì và rèn cho trẻ
những kỹ năng sống như thế nào để đạt được hiệu quả? Ở đề tài này, tôi đưa ra một số
biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi, đồng thời còn tư vấn cho phụ huynh một số
biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ như thế nào là tốt nhất để các bậc phụ huynh cùng
thực hiện.
Bản thân tôi là một giáo viên với nhiều năm kinh nghiệm trong công tác giảng dạy trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi, nắm được những đặc điểm tâm sinh lý của trẻ cũng như tâm lý của
phụ huynh, tôi thấy việc rèn kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi trong thời đại hiện nay là một
điều hết sức quan trọng. Chính vì thế mà tơi quyết định chọn đề tài: "Một số biện pháp
rèn kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi". Với đề tài này nhằm hướng đến mục tiêu phát triển,
nuôi dưỡng những giá trị sống, làm nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực
trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên 4 lĩnh vực nền tảng: thể trạng, tâm hồn, trí tuệ
và tinh thần và với mong muốn của bản thân là chia sẻ những kinh nghiệm của mình với
các bạn đồng nghiệp.
1.2.Phạm vi áp dụng đề tài:
Đề tài “Một số biện pháp ren ky năng sống cho tre 5-6 tuôi” đã được triển khai và áp
dụng tại lớp, để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục phát triển tồn diện cho
trẻ và có thể áp dụng rộng rãi tại một số trường mầm non trong toàn huyện.
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của vấn đề:
Bản thân là một giáo viên, năm học 20.... – 20.... được nhà trường phân công dạy lớp mẫu
giáo lớn ở khu vực lẽ với sô lượng là 10 cháu, lớp chỉ có 1 giáo viên.


Bước đầu thực hiện đề tài “Một số biện pháp ren ky năng sống cho tre 5- 6 tuôi” bản
thân tơi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm, hỗ trợ và chỉ đạo sâu sát của BGH nhà trường, cũng như sự đồng tình

giúp đỡ của chị em đồng nghiệp và các bậc phụ huynh.
Lớp học thống mát, đủ diện tích cho trẻ hoạt động và trang thiết bị, đồ dùng dạy học cho
trẻ 5 - 6 tuổi đầy đủ.
Đa số trẻ ngoan, lễ phép, biết vâng lời, đi học chuyên cần, thích tham gia vào các hoạt
động.
Bản thân là một giáo viên có kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy, có năng lực chuyên mơn
nghiệp vụ vững vàng, tâm huyết với nghề, nhiệt tình, năng động trong mọi cơng việc.
Thực hiện tốt chương trình chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ của Bộ giáo dục và đào
tạo.
Được sự ủng hộ nhiệt tình của Hội cha mẹ học sinh và tập thể hội đồng sư phạm nhà
trường.
Tuy nhiên cùng với thuận lợi, bản thân tôi cịn gặp một số khó khăn sau.
* Khó khăn:
- Trường tôi đang công tác thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cơ sở vật
chất cịn nhiều thiếu thốn. Khn viên cho trẻ vui chơi cịn chật hẹp.
- Các em đa số là con em của đồng bào Bru Vân Kiêù nên nhận thức và hiểu biết của họ
cịn rất là hạn chế.
- Về phía phụ huynh, khái niệm rèn kỹ năng sống cho trẻ có lẽ cịn xa lạ và mới mẻ nhất
là đối với trẻ em vùng cao. Họ chưa hiểu mục đích và tầm quan trọng của việc rèn kỹ
năng sống cho trẻ. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ.
- Một số phụ huynh thờ ơ và bỏ qua những hành động sai của trẻ nên vơ tình hình thành
thói quen ở trẻ, khiến cho giáo viên rất khó khăn trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.
- Khả năng nhận thức của trẻ trong lớp khơng đồng đều, mỗi trẻ có một tính cách, một
tâm lý khác nhau, địi hỏi giáo viên phải áp dụng mỗi trẻ một hướng giáo dục khác nhau
tuỳ theo tâm lý của từng đứa trẻ.
Một số trẻ cịn vụng về, lại có cá tính bướng bỉnh, chưa có thói quen nề nếp tốt; rụt rè,
thiếu mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến; khi phát biểu nói khơng rỏ ràng, trả lời cộc lốc, không
trọn câu; khi làm sai hoặc có lỗi với người khác ít nói lời xin lỗi, ai cho gì ít cảm ơn, ít



thể hiện các kỹ năng của mình; vì thiếu kinh nghiệm nên khi làm việc gì trẻ có ý nghĩ sợ
làm sai, sợ mình khơng làm được, vì thế trẻ không muốn làm cũng như tự tin thể hiện kỹ
năng của mình đã có được.
Với sự quyết tâm của bản thân, tơi đã khơng ngừng tìm kiếm, học hỏi để tìm ra “Một số
biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi".
* Khảo sát thực trạng:
Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát trẻ trên lớp để nắm bắt tình hình và có kế
hoạch rèn kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi, cụ thể kết quả khảo sát như sau:
Đạt
Nôi dung khảo sát Sô trẻ
1. Kỹ năng giao
tiếp
2. Kỹ năng thích
nghi

Khơng đạt
Ti lê % Sơ trẻ

Ti lê %

3

30

7

70

4


40

6

60

2

20

80

80

5

50

5

50

3

30

7

70


5

50

5

4

40

6

60

2

20

8

80

3. Kỹ năng khám
phá thế giới xung
quanh
4. Kỹ năng tự chăm
sóc bản thân
5. Kỹ năng tạo
niềm vui
6. Kỹ năng tự bảo

vệ
7. Kỹ năng làm
việc đội, nhóm
8. Kỹ năng giải
quyết các vấn đề

50

Từ kết quả khảo sát trên tôi thấy kết quả rất thấp. Vì vậy, tơi đã suy nghỉ làm thế nào để
trẻ 5-6 tuổi có kỹ năng sống nhằm đáp ứng với nhu cầu hiện nay, nên chúng tôi đã tập
trung vào một số biện pháp sau:


2.2. Một số biên pháp:
Biên pháp 1: Xây dựng môi trường gân gui, thân thiên vơi tre
Đối với bậc học mầm non thì "trường là nhà, cơ là mẹ". Vì vậy, tạo môi trường mẫu mực
xung quanh trẻ là rất cần thiết: phải có mơi trường sư phạm, mơi trường xanh- sạch- đẹpthân thiện (có sân vườn, khu thiên nhiên, vườn rau của bé, đồ chơi đẹp..). Giáo viên luôn
gương mẫu về mọi mặt, nhất là trước mặt trẻ như: ăn mặc, cử chỉ, lời nói, tác phong phải
nhẹ nhàng đúng mực để trẻ noi theo.
Ví dụ: Khi giáo viên nói chuyện với nhau dùng từ "con ni”, “thằng tê” trẻ nghe và sẽ bắt
chước theo. Ngược lại, giáo viên xưng hô đúng mực "gọi đúng tên của từng cháu", đó là
những lời nói đúng để cho trẻ học theo.
Ngồi ra, lớp học là nơi mà trẻ được tiếp xúc hàng ngày để có tác động tích cực kỹ năng
sống vào trẻ, nên tơi sắp xếp trang trí lớp sao cho phù hợp, đẹp mắt, hấp dẫn lôi cuốn trẻ,
làm những đồ dùng đồ chơi gần gũi, quen thuộc, sắp xếp gọn gàng trên giá, vừa tầm tay
trẻ, đồ chơi phù hợp với chủ đề và mục đích góc chơi, có khả năng kích thích các giác
quan của trẻ. Thơng qua việc sắp xếp tạo mơi trường trong lớp góp phần rèn cho trẻ kỹ
năng gọn gàng ngăn nắp.
Hơn nữa, để tạo sự thân thiện với trẻ, cơ vừa đóng vai người mẹ chăm sóc dạy dỗ trẻ vừa
đóng vai người bạn để cùng chơi với trẻ. Vào đầu năm học, để tạo sự gần gũi, vào những

buổi đón trẻ, tơi thường đón từng trẻ cùng trị chuyện với trẻ, đôi khi trẻ không hiêu
tiếng kinh tôi phải giao tiếp với trẻ tiếng bru để trẻ nhanh hiểu hơn, chơi một số trò chơi
tập thể, cho trẻ chơi tự do...Qua đó, nắm bắt tâm lý, đặc điểm tính cách của từng trẻ xem
trẻ mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay khơng thích... và
tiếp tục qua các tuần học sau, chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những
cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi hay góc chơi mà trẻ chọn, để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể thực hiện mọi lúc mọi nơi, bất cứ hoạt động
nào cũng có thể lồng ghép được.
Biên pháp 2 : Làm gương, làm mâu cho tre noi theo.
Trẻ mầm non thường học các hành vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm và qua luyện
tập sinh hoạt hằng ngày.
Trong lĩnh vực giáo dục kỹ năng sống, người lớn thường làm gương, làm mẫu cho trẻ noi
theo. Làm sao để phẩm chất, nhân cách và phương pháp giáo dục hoà quyện mà tác động
đến trẻ có hiệu quả nhất. Trẻ em rất dễ bắt chước những cử chỉ, điệu bộ, lời ăn tiếng nói


của người lớn. Một cử chỉ thể hiện lòng yêu thương, tôn trọng trẻ sẽ được trẻ ghi nhận và
cảm động khiến cho lời dạy bảo của giáo viên có hiệu quả. Trái lại một cử chỉ thể hiện sự
ghét bỏ, trẻ sẽ bị trẻ coi thường và căm ghét khiến cho tác động của giáo dục của giáo
viên không hiệu quả.
Ví dụ: Khi trẻ làm sai một việc gì đó, tơi cần tìm hiểu ngun nhân vì sao trẻ làm sai,
phân tích cho trẻ biết trẻ sai ở điểm nào và cần sửa chữa như thế nào, chứ không nên tức
gận và quát mắng. Tôi đến gần trẻ và nói: "Nếu con làm vậy thì cơ giáo rất buồn", và yêu
cầu trẻ xin lỗi cô. Như vậy lần sau khi bạn trẻ làm sai việc gì, hay bị bạn trêu chọc thì trẻ
sẽ biết kiềm chế cảm xúc của mình, khơng đánh bạn mà nhờ đến sự giúp đỡ của cơ. Qua
đó trẻ học được kỹ năng nhận trách nhiệm về hành động của trẻ, biết nhận lỗi mà mình
gây ra và biết kiềm chế những cảm xúc tiêu cực của bản thân.
Biên pháp 3: Ren kỹ năng sống qua tich hợp vào các hoạt động học và các hoạt động
vui chơi khác.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể tích hợp trong các mặt giáo dục, trong những

hoạt động hằng ngày của trẻ. Tuỳ vào những chủ đề theo tuần, tháng, học kỳ mà tôi lựa
chọn những kỹ năng sống phù hợp để hình thành cho trẻ. Cụ thể như sau:
*Kỹ năng giao tiếp và kỹ năng thích nghi là hai kỹ năng mà tơi lựa chọn để tích hợp vào
chủ đề "Trường mầm non".
* Kỹ năng giao tiếp:
Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ là rất cần thiết, địi hỏi cơ giáo mầm non phải luôn
gần gũi trẻ, hiểu trẻ, tạo mọi cơ hội để trẻ được nói thật thoải mái ở mọi nơi, vì chỉ khi
nào trẻ sử dụng ngơn ngữ mẹ đẻ lưu lốt thì trẻ mới có cơ hội phát triển toàn diện.
Để khắc phục những hạn chế về giao tiếp cũng như giúp trẻ giao tiếp được tốt, tôi thường
xuyên nói chuyện với từng trẻ để kích thích trẻ diễn đạt ý tưởng và cảm xúc. Muốn vậy,
tôi luôn chú ý tới những yếu tố sau:
- Tạo môi trường giao tiếp và giúp cho trẻ có cảm giác thoải mái, có nhu cầu giao tiếp
bằng lời. Trong tất cả mọi hoạt động của trẻ, tơi ln dùng nhiều trị chơi, câu đố để kích
thích trẻ tham gia, qua đó giúp trẻ giao tiếp được tự nhiên hơn.
Ví dụ: Trong lớp tơi có cháu Hậu rất ít nói, nhút nhát. Vì thế mà tơi thường cho cháu chơi
cùng một nhóm gồm những trẻ mạnh dạn hơn. Trong giờ chơi, tôi cho trẻ chơi trị chơi
"Đốn tên bạn". Tơi hỏi trẻ: "Cơ đang nghĩ về một bạn trai cao, to nhất lớp mình, Hậu
đốn xem cơ đang nghĩ về bạn nào? Tại sao con biết?" Trẻ sẽ nói ngay tên bạn đó và vì


sao trẻ lại đốn được. Hoặc là tơi cho trẻ tham gia đóng kịch cùng các bạn.
- Ngơn ngữ là cái riêng của mỗi người và nó phát triển rất tự nhiên, do đó mà khi giao
tiếp sẽ có lúc trẻ nói sai, chúng ta khơng nên la rầy qt mắng, vì như thế sẽ làm cho trẻ
khơng tự tin, sợ nói.
Muốn giúp trẻ sửa lỗi khi nói, tơi thường đóng vai để dạy trẻ như: Trị chơi bán hàng, trị
chơi bác sỹ và trị chơi gia đình...Qua đó sẽ giúp trẻ nói theo mẫu của cơ và của bạn.
- Để cho trẻ có cảm giác gần gũi và thân thiện, tơi khơng dùng từ ngữ mang tích chất ra
lệnh hay sai khiến sẽ làm cho trẻ có cảm giác bị bắt buột, miễn cưỡng phải làm việc đó;
mà tơi chỉ nói với trẻ nhẹ nhàng, vỗ về trẻ.
Ví dụ: Tơi nói: "Cơ muốn các con hay cất ghế đúng nơi quy định cho cô để ra sân tập thể

dục nào". Không nên dùng câu: "Cất hết ghế đi".
- Để trẻ có cảm xúc mạnh, có nhu cầu về giao tiếp thì việc dùng đến các con rối như các
con thỏ bơng, gấu bơng là rất cần thiết, vì trẻ ở lứa tuổi này rất thích được nói chuyện với
những con vật gần gũi với trẻ.
Ví dụ: Trong lớp có bạn Tồn ít nói, nhưng khi cơ đưa con búp bê ra để hỏi: "Xin chào
bạn Toàn, bạn đang làm gì vậy? Nhà bạn có mấy người vậy? Nói cho mình nghe đi!", thì
cháu Tồn sẽ hào hứng trả lời ngay.
Việc tạo ra một khơng khí thoải mái, đầm ấm và việc đưa các trị chơi, tạo các tình huống,
cũng như dùng các con rối hay các con vật trong việc giao tiếp với trẻ là cách giúp trẻ
giao tiếp tích cực nhất.
Một kỹ năng nhỏ trong giao tiếp mà lớp tôi đang chủ nhiệm trẻ thể hiện rất hạn chế, đó là
kỹ năng "văn hố chào hỏi". Thế nên, ngay từ đầu trẻ đến lớp tôi đã chủ ý nhắc nhở trẻ
chào mẹ, chào cơ, chào bạn. Ví dụ: Nếu trẻ quên hay hoặc không chủ động chào co để
vào lớp, hoặc chào cơ, thì tơi sẽ nói: "Cơ chào con, con chào tạm biệt mẹ đi nào!", nhằm
gây sự chú ý của trẻ đến việc chào hỏi lễ phép.
Để giúp trẻ thực hiện tốt kỹ năng này tôi thường làm theo các cách sau:
Cách 1: Dạy cho trẻ cách chào.
+ Chào ơng bà - cần làm những gì?
+ Chào bố mẹ - chào ra sao?
+ Chào bạn chào như thế nào?
Cách 2: Trò chuyện và đặt ra những câu hỏi về những người trẻ thường gặp hằng
ngày.(khi đi học về con gặp ai? Con gặp ở đâu? Con có chào Bác khơng? Con chào như


thế nào)
Cách 3: Cho trẻ xem các hình ảnh trên máy, xem tranh ảnh, cho trẻ thấy tác dụng của
việc chào hỏi (Làm quen, thể hiện sự kính trọng, người được chào vui vẻ và yêu quý trẻ,
trẻ được mọi người khen ngợi, được tặng quà...).
Cách 4: Cho trẻ tập chào nhau ở lớp.
Cho trẻ đóng vai người lớn, người già,... để các trẻ lần lượt vận dụng kỹ năng trên.

Từ đó tơi có thể uốn nắn những hành động chưa đúng, hoặc tổ chức khen ngợi những trẻ
thực hiện tốt các kỹ năng, khuyến khích để trẻ khác noi theo.
* Kỹ năng thích nghi:
Đây là một kỹ năng khá quan trọng mà tơi muốn hình thành cho trẻ ngay từ đầu năm học.
Để trẻ có thể hồ nhập được, hoặc phản ứng lại với mơi trường bên ngồi. Đó là "ky năng
thich nghi".
Tơi cịn dạy cho trẻ những hành vi văn hoá trong ăn uống: biết mời người lớn tuổi trước,
mời mọi người cùng ăn, trong khi ăn không nói chuyện, ăn chậm, nhai kỹ, việc này tơi
thường lồng ghép vào trong các giờ học, giờ sinh hoạt hằng ngày ở lớp.
Đầu tiên tơi hình thành kỹ năng "thich nghi mơi trương". Để giúp trẻ để thích nghi với
mơi trường khơng có hoạt động nào tốt hơn là hoạt động ngồi trời. Vì vậy tơi khơng bỏ
lỡ cơ hội cho trẻ hoạt động ngoài trời hàng ngày. Được ra ngồi trời khơng chỉ là để cho
trẻ khám phá mơi trường tự nhiên, mà trẻ cịn được hít thở khơng khí thiên nhiên, được
tắm nắng được thực hiện các vận động chạy, leo trèo, chơi một cách tự nhiên trong sân
trường. Trẻ có thể nghịch với cát, đất, điều đó giúp cho trẻ vừa thoả mãn được tính năng
động, vừa nâng cao sức đề kháng. Trong quá trình trẻ chơi tơi ln ln giám sát để can
thiệp khi có dấu hiệu của sự nguy hiểm, đối với sự vấp ngã nhẹ của trẻ tôi quan sát để
cho trẻ tự đứng lên, điều đó sẽ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn.
- Thói quen biết xếp hàng. Đây là thói quen tốt, có văn hố nơi cơng cộng.
Ví dụ: Ở lớp tôi rèn cho trẻ biết xếp hàng rửa tay trước khi ra về và rủa tay khi tay bẩn
và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh.
- Thói quen biết bỏ rác vào thùng rác: Thùng rác bố trí hợp lý để trẻ bỏ rác và tôi thường
xuyên quan sát, nhắc nhở trẻ bỏ đúng nơi quy định, qua đó hình thành cho trẻ thói quen
tốt.
- Thói quen biết xin lỗi và cảm ơn: Để trẻ thực hiện tốt thói quen này, tơi thường làm
gương cho trẻ noi theo, ở lớp bất cứ trường hợp nào và với bất cứ ai (trong đó có trẻ) nếu


cần nói lời xin lỗi hay cảm ơn tơi thường thể hiện cho trẻ thấy. Qua đó, trẻ bắt chước theo
và sẽ cảm nhận được một cách tự nhiên các cách ứng xử này.

* Chu đê "Ban thân", tôi lưa chon hinh thanh ky năng tư chăm sóc ban thân gôm: ttư
măc áo quân, tư chăm lo vệ sinh cá nhân va tư cât đô dung đung nơi quy đinh.
Việc học cách tự chăm sóc bản thân mình là một phần quan trọng trong quá trình phát
triển nhân cách cá nhân và nhận thức xã hội của trẻ. Vì vậy tôi luôn theo sát từng hoạt
động của trẻ để khuyến khích, uốn nắn và chỉ dạy cho trẻ. Khi yêu cầu trẻ làm một việc
gì, cho dù trẻ có làm được hay không tôi luôn động viên sự cố gắng của trẻ, khuyến khích
trẻ làm lại, khơng tạo áp lực cho trẻ bằng cách phê bình hoặc làm giúp cho trẻ, luôn kiên
nhẫn hướng dẫn trẻ thực hiện. Tôi kết hợp các bài học trước, trong và sau giờ ăn để trẻ
hình thành hành động và thói quen sinh hoạt.
Ví dụ: Vào giờ đón và trả trẻ, tơi khuyến khích trẻ tự cởi và mặc áo khoác, dép, mũ... đồ
dùng cá nhân và cất ngay ngắn.
Ngồi ra tơi cho trẻ đọc các bài thơ, câu chuyện như: Bài thơ "Cô dạy" "Bé nhớ rửa tay";
câu chuyện: "Gấu con bị sâu răng"... Tôi giới thiệu về nội dung câu chuyện, bài thơ nhiều
lần bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm giúp trẻ hiểu được tác dụng của việc rửa tay,
lau mặt, đánh răng... để trẻ thích thú và tự giác thực hiện.
* Trong chu đê "Gia đinh" tôi lông ghep ky năng tư bao vệ.
Khi mà xã hội ngày càng hiện đại thì chất lượng cuộc sống của con người ngày càng
được nâng cao, nhưng cũng kéo theo nhiều mặt trái. Do trẻ không cẩn thận và chưa được
cung cấp những kỹ năng sống nên có nhiều nguy cơ nguy hiểm thường xảy ra với trẻ xảy
ra như: bị bắt cóc, bị lạm dụng...Để trẻ tránh được những nguy cơ này, tơi mạnh dạn dạy
trẻ cách tự bảo vệ chính mình.
Trước đây, qua những bài thơ câu chuyện, bài hát có nội dung giáo dục trẻ về kỹ năng
sống khá nhiều và gần gũi. Thực tế hiện nay trong chương trình dạy trẻ 5- 6 tuổi không
nhiều bài hát, bài thơ, câu chuyện có nội dung đó. Vì vậy trong năm học này tơi nghiên
cứu và lựa chọn những tình huống thường xảy ra để dạy trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp
tình huống khó khăn, giúp trẻ biết thốt hiểm.
Ví dụ: Vào các buổi hoạt động và sinh hoạt chiều trị chuyện với trẻ: "Hơm qua con
được đi chơi khơng? Con đi với ai? Có vui khơng?" Sau đó tơi đưa ra tình huống: "Khi
con bị lạc mẹ ở giữa đám đơng, con sẽ làm gì?", "Nếu bị ai bắt nạt thì con kêu cứu như
thế nào?"



Tôi cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết riêng, tôi lắng nghe ý kiến của trẻ,
gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi: "Theo con làm như vậy có được khơng? Tại sao?" Sau
đó tơi dạy cho trẻ: Khi bị lạc mẹ ở đám đông, con phải bình tĩnh, khơng khóc và đừng
chạy lung tung mà hãy đứng yên tại chỗ chờ. Vì bố mẹ sẽ quay lại chỗ đó để đón con.
Hoặc đến chỗ cô bán hàng gần nhờ gọi điện thoại. Tuyệt đối khơng theo người lạ dù
người đó hứa sẽ đem về bố mẹ và cho nhiều q. Vì có thể kẻ xấu sẽ lợi dụng cơ hội đó
để bắt cóc hoặc làm hại con. Trong các giờ hoạt động học "Phân biệt một số đồ dùng
trong gia đình", ngồi việc giáo dục trẻ biết tránh những đồ dùng nguy hiểm như bàn là,
phích nước sơi, bếp đang đun, dao, rựa...Tơi cịn dạy cho trẻ biết nguy cơ của việc cháy
nổ là hiểm hoạ đối với tất cả mọi nhà, dạy trẻ biết các nguồn gây ra lửa: bếp ga, bật lửa,
cồn, nến, dầu, xăng...Tôi nghĩ rằng cần dạy cho trẻ 5- 6 tuổi một số kỹ năng ứng biến nếu
chẳng may có điều đó xảy ra. Tơi đưa ra tình huống: "Nếu con thấy có khói bốc lớn, hoặc
cháy đâu đó con phải như thế nào?". Qua tình huống này ngồi ý kiến của trẻ, tôi hướng
dẫn trẻ ty mỉ, chậm rãi giúp trẻ khắc sâu hơn: Nếu các con thấy có khói hoặc cháy ở đâu,
trước hết con phải chạy xa chỗ cháy. Hãy hét to để báo với mọi người. Nếu khơng có
người ở nhà thì chạy báo cho người hàng xóm. Ngồi ra tơi cịn cho trẻ đóng vai giả làm
chú lính cứu hoả, từ đó trẻ sẽ được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết cho mình.
Với nhiều tình huống mà trong cuộc sống thường xảy ra với trẻ, tôi đưa ra cho trẻ thảo
luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình đã có để tìm cách giải quyết
vấn đề. Thơng qua đó tơi giúp trẻ tìm ra phương án tối ưu nhất, đó cũng chính là kinh
nghiệm mà tơi cần dạy trẻ. Thơng qua hoạt động giúp trẻ có sự tư duy lôgic, biết cách
diễn đạt suy nghĩ của mình và giúo trẻ có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
Vơi chu đê "Thê giơi động vật", "Thê giơi thưc vật", "Các hiện tượng tư nhiên", tôi hinh
thanh cho tre ky năng khám phá thê giơi xung quanh.
Trong thực tế, khi tổ chức cho trẻ khám phá thế giới xung quanh, giáo viên chỉ chú trọng
việc cho trẻ tìm hiểu khám phá những kiến thức về thế giới xung quanh chứ chưa biết rèn
kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động này. Vì vậy kỹ năng sống của trẻ 5- 6 tuổi còn
nhiều hạn chế, trẻ chưa thể hiện sự tự tin, chưa có nề nếp thói quen tốt trong sinh hoạt

cũng như trong mọi hành vi.
Chính vì vậy để khơi dậy và khích thích khả năng tự khám phá, tính tịi mị, sự ham hiểu
biết của trẻ, tạo ra nhiều cơ hội để trẻ hoạt động, tôi yêu cầu trẻ quan sát các loại cây ở
trường, các con vật nuôi ở nhà, sưu tầm tranh ảnh về các loại thực vật, động vật mang


đến lớp. Khi tổ chức hoạt động học tôi cho trẻ nói về những gì mà trẻ quan sát, tìm hiểu
được, cho trẻ cùng nhau trao đổi, thảo luận về các bức tranh trẻ sưu tầm.Tôi đưa ra một
số câu hỏi:"Vì sao mọi người phải tưới nước cho cây ?"Hoặc "Vì sao các con vật đó
khơng sống được ?"... Sau đó tơi củng cố và khái qt lại.
Phát triển kỹ năng khám phá không gian: Tôi cùng trẻ sưu tầm tranh, ảnh trang trí lớp học
theo góc, theo chủ đề, luôn tạo không gian mới lạ, hấp dẫn để lôi cuốn trẻ
Ví dụ: Chủ đề "giao thơng", tơi làm mơ hình ngã tư đường phố, cột đèn tín hiệu giao
thơng, chú cảnh sát và lề đường ...như vậy đã xuất hiện yếu tố mới lạ, hấp dẫn. Qua đó
giáo dục trẻ tham gia giao thơng đúng luật hơn.
Ngồi ra kỹ năng khám phá sự vật, chất liệu tôi thường lồng ghép đan xen trong các hoạt
động.
Ví dụ: Buổi sáng hoạt động "Phân biệt các loại rau", buổi chiều tôi cho trẻ dùng đất sét có
những gam màu cơ bản cho trẻ tạo hình các loại rau, củ, quả, các con vật gần gũi với trẻ
trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó dần dần phát triển kỹ năng quan sát, ghi nhớ về các sự
vật, đồ vật và những gì trong cuộc sống xung quanh trẻ.
Khám phá thiên nhiên ở trẻ 5- 6 tuổi là một hoạt động bổ ích và có nhiều niềm vui, giúp
trẻ hồ mình vào cuộc sống thiên nhiên, qua đó nó tác động tích cực đến tâm lý, thần
kinh và tạo nên môi trường lành mạnh trong nhận thức của trẻ.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát " Cây phượng " lần 1 cách lần 2 một tháng, tôi đặt ra những câu
hỏi gợi mở, giúp trẻ phát hiện những điều mới lạ: "Cây phượng hôm nay có điều gì khác
lạ nào?", trẻ phát hiện ra lần trước quan sát lá phượng còn nhiều và đổi màu nâu, giờ cây
hết lá và có chồi non.
Tơi thường tổ chức cho trẻ thực hành ươm cây, bố trí cho trẻ khám phá hiện tượng thiên
nhiên như: mưa, nắng, sấm, sét...Trong những lần quan sát đó tơi đặt ra những câu hỏi để

dạy cho trẻ biết chăm sóc bảo vệ cây, biêt tránh nắng, mưa, và tránh khi gặp sấm sét xảy
ra.
Ví dụ: "Khi đi chơi với bạn thấy có mưa và có sấm sét thì con phải làm gì?" gợi ý cho trẻ
nêu lên ý của mình, sau đó tôi dạy trẻ phải biết cách tránh, con phải vào nhà hàng xóm
gần để trú nhờ, khơng trú dưới cây cao sẽ nguy hiểm.
Việc giúp trẻ khám phá thiên nhiên tôi luôn lồng ghép xây dựng cho trẻ "Y thức bảo vệ
mơi trường", bởi vì xây dựng và bảo vệ môi trường là hai yếu tố rất quan trọng. Trước
tiên tơi dạy cho trẻ có nhận thức ban đầu về khái niệm môi trường, đặt ra cho trẻ một số


câu hỏi đơn giản về môi trường xung quanh, trường, lớp
Ví dụ: "Con thích trường mình khơng? Vì sao? Trường lớp đã sạch đẹp chưa? Để trường,
lớp mình sạch đẹp mãi thì con phải làm gì?"
Hoặc khi dẫn trẻ đi chơi trong sân trường thấy có nhiều rác, cơ hỏi: "Con thấy sân trường
sạch chưa? Vì sao? Giờ con phải làm gì?" Như vậy trẻ biết rác nhiều là khơng sạch và
cùng nhau nhặt bỏ vào thùng rác.
Tiếp theo, tôi kể cho trẻ nghe những hành động, hành vi liên quan đến bảo vệ môi trường
mà độ tuổi lớp tôi có thể làm được như: khơng dẫm lên cỏ, khơng hái hoa, bẽ cành,
không vứt rác bừa bãi... Cho trẻ tham gia hoạt động thực hành chăm sóc vườn cây, tưới
nước cho cây, nhỏ cỏ.. ở vườn hoa của trường. Hoặc cho trẻ chơi đóng vai cây xanh, hoa,
vai bác bảo vệ, nhắc nhở các bạn khơng nên có các hành động sai, cùng nhau bảo vệ môi
trường.
Khám phá thế giới xung quanh là cơ hội để trẻ được tiếp xúc, quan sát, tìm hiểu mọi cảnh
vật gần gũi xung quanh trẻ như sân trường, vườn nhà.. giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong
giao tiếp.
Chu đê "Nghê nghiệp", tôi băt đâu đi sâu vao phát triên ky năng lam việc đội nhóm.
Làm việc theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của
người học, dạy học hướng về người học. Giáo dục dựa trên phương pháp làm việc theo
nhóm là một phương pháp sư phạm hữu hiệu. Trong lớp học, trẻ được chia thành nhiều
nhóm, mỗi nhóm được phân cơng giải quyết một cơng việc cụ thể hướng tới một nội

dung công việc chung lớn hơn, kết quả của từng nhóm sẽ được trình bày để thảo luận
chung trước khi giáo viên đi đến kết luận cuối cùng.
Ví dụ: Tổ chức hoạt động góc
- Trước khi cho trẻ về góc chơi tơi đặt một số câu hỏi:
+ Sáng nay các con đã chọn góc chơi cho mình chưa?
+ Lớp mình đang thực hiện chủ đề gì?
+ Các con cho cơ và các bạn biết ý tưởng chơi của nhóm mình nào? (Qua đó cơ đặt
những câu hỏi để định hướng quá trình làm việc của nhóm).
+ Q trình chơi, cơ theo dõi, nhắc nhở và hỗ trợ cho các nhóm khi cần thiết.
+ Kết thúc, cô và trẻ cùng nhận xét kết quả làm việc của nhóm tại góc đó hoặc các nhóm
đến góc chơi sáng tạo để nhận xét kết quả của nhóm chơi đó
Ví dụ : Tổ chức vệ sinh, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi cuối tuần.


Tôi chia lớp thành 2 tổ và phân công cụ thể: Tổ 1: Vệ sinh sắp xếp đồ dùng đồ chơi ở góc
xây dựng. Tổ 2: Vệ sinh sắp xếp ở góc phân vai và sắp xếp ở góc chơi học tập.
Đặt ra một số câu hỏi định hướng thực hiện nhiệm vụ:
+ Để làm được công việc này cần có những dụng cụ gì?
+ Các con sẽ làm như thế nào? (Tôi gợi ý cho trẻ: Theo cô để cơng việc được nhanh và
hiệu quả thì bạn tổ trưởng và các thành viên hãy thảo luận và phân công nhiệm vụ cho
từng bạn).
Q trình trẻ thực hiện tơi theo dõi, nhắc nhở và hỗ trợ các nhóm khi cần thiết.
+ Kết thúc cho các nhóm nhận xét kết quả cơng việc.
Ví dụ : Khi tổ chức cho trẻ phân loại công việc, đồ dùng, sản phẩm của các nghề, chia trẻ
thành 3 nhóm, trong một thời gian nhóm nào phân loại đúng, nhiều tranh, là thắng cuộc.
Thông qua kỹ năng làm việc theo đội, nhóm, trẻ biết hợp tác giúp đỡ nhau, có những cơ
hội để phát triển trí tưởng tượng trong trẻ. Vì vậy để phương pháp này có hiệu quả tơi
chú ý chuẩn bị đầy đủ các loại đồ dùng, dụng cụ, đồ chơi cho các nhóm và đưa ra yêu cầu
phù hợp để trẻ thực hiện.
Biên pháp 4: Khen ngợi, động viên tre kip thời:

Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cần biết khen, chê đúng lúc, đúng mức.
Khi trẻ thể hiện một việc làm đúng cần phải khen ngay bằng những lời khen hay, những
biểu dương tích cực, những món q nhỏ mang ý nghĩa tinh thần nhằm khuyến khích và
củng cố những kỹ năng đó.
Ví dụ: cho trẻ đi tham quan, xem phim sẽ xảy ra các tình huống, trẻ biết chào hỏi người
lớn, biết nhường chỗ, nhường đường cho cụ già, em nhỏ, biết cảm ơn khi người khác cho
mình, biết trật tự và biết lắng nghe khi người khác nói...Khi về lớp, tơi kể cho trẻ nghe về
các câu chuyện có liên quan đến nội dung trong thời gian hoạt động đó và hỏi trẻ: "Các
con cho cơ biết những hành động đó được khen hay bị chê trách? Theo cô những hành
động như vậy rất tốt? Các con học tập bạn đó ở điểm nào?" Sau đó tơi nêu gương bạn tốt
trong lớp cho trẻ biết và tổ chức khen ngợi và tặng quà cho trẻ, nhằm khuyến khích và
củng cố nhân rộng kỹ năng đó.
Biên pháp5: Ren kỹ năng sống cho trẻ o mọi lúc mọi nơi.
Trẻ 5- 6 tuổi là lứa tuổi bắt đầu hình thành ý thức mạnh mẽ, những tác động xung quanh
trẻ ở mọi lúc mọi nơi đều có mặt tích cực. Vì vậy tôi luôn chú ý quan tâm để rèn cho trẻ
có hành vi, thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động đúng.


Ví dụ: Giờ trả trẻ, tơi ln niềm nở ân cần với trẻ, để tạo ra khơng khí vui tươi phấn khởi,
nhắc trẻ lấy đúng đồ của mình và ra về phải biết chào cơ.
Bên cạnh đó, trong các hoạt động học, tơi khuyến khích trẻ tự lấy và cất đồ dùng, đồ chơi;
qua đó hình thành ở trẻ có kỹ năng tự phục vụ.
Ngồi ra, tơi ln tạo mọi điều kiện cho trẻ xây dựng các mối quan hệ tích cực với bạn bè
và người lớn, thể hiện sự hợp tác với bạn bè và tôn trọng mọi người xung quanh.
Ví dụ: Giờ hoạt động ngồi trời, tơi tổ chức cho trẻ giúp bác bảo vệ nhặt lá, quét sân, nhổ
cỏ, bắt sâu cho cây; tổ chức cho trẻ tham quan các di tích lịch sử ở địa phương.. Những
hoạt động đó góp phần tạo các mối quan hệ thân thiện và mở ra sự hợp tác giữa trẻ với
mọi người xung quanh, qua đó hình thành ở trẻ kỹ năng hợp tác.
Trong giờ hoạt động góc khi trẻ về các góc chơi, trẻ thể hiện các vai chơi, đồng thời bắt
đầu thể hiện các hành động chơi. Đây là lúc giáo viên cần quan sát để điều chỉnh các

hành động chơi của trẻ đúng theo chuẩn mực đạo đức quy định.
Ví dụ: Vai bán hàng phải niềm nở cở mở chào khách xem họ cần mua những thứ gì và
với giá tiền bao nhiều, tiền thừa phải trả lại cho khách.
Có thể nói rằng các hoạt động, hành động của trẻ ở mọi lúc mọi nơi có được nề nếp, thói
quen tốt, biết thể hiện đúng các hành vi theo chuẩn mực, có tác động và ảnh hướng rất
lớn đến mỗi cá nhân trẻ, góp phần hình thành nhân cách của trẻ và sẽ giúp trẻ 5- 6 tuổi có
kỹ năng sống tốt sau này.
Biên pháp 6: Phối hợp vơi phụ huynh trong viêc hình thành kỹ năng sống cho tre.
Phụ huynh là cầu nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Làm tốt cơng tác phối kết hợp
với phụ huynh là một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5- 6
tuổi.
Hiện nay một số phụ huynh chưa nhận thấy sự cần thiết của việc hình thành kỹ năng
sống cho trẻ, chỉ lo cho con ăn ngon, mặc đẹp là đủ, nhiều khi thể hiện thái độ cử chỉ,
hành vi không phù hợp trước mặt trẻ, điều này không chỉ vô tình làm cho trẻ tổn thương,
mà cịn làm lệch lạc đi các hành vi chuẩn mực, đạo đức xã hội của con trẻ.
Nên việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong thời đại ngày nay là hết sức quan trọng, vì
vậy khơng thể thiếu sự phối kết hợp của phụ huynh, nhà trường và xã hội. Với nhận thức
như vậy, tôi thường xuyên phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
Vào những buổi họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh dạn đánh giá tình hình của lớp, trong


đó tơi ln chú trọng đến các kỹ năng sống của trẻ 5- 6 tuổi: sự mạnh dạn trong các hoạt
động, tự tin khi thực hiện nhiệm vụ, thái độ, cử chỉ, lời nói .. để phổ biến cho các bậc phụ
huynh được biết và để thực hiện có tính thuyết phục cao. Hàng ngày, vào giờ đón, trả trẻ,
tơi trao đổi với về các kỹ năng tôi đang rèn cho trẻ tại lớp để giữa giáo viên và phụ huynh
có sự giáo dục hồ hợp, khơng chồng chéo.
Ngồi ra, những hoạt động trong lớp tôi lập danh sách, hoặc chụp ảnh của bé có các hành
vi tốt dán vào góc: "Những điều phụ huynh cần biết".
Ví dụ: những cháu Diệp- Khuyết- Rộn - Hương đang giúp cô nhổ cỏ, dọn rác... tơi quay

clip rồi chiếu lên màn hình cho trẻ xem, đồng thời làm nhiều bức ảnh dán ở góc tuyên
truyền. Hoặc các buổi họp phụ huynh tổ chức cho phụ huynh xem một số hoạt động của
trẻ và nhân cơ hội đó tơi giải thích rõ với phụ huynh về các vấn đề mà gia đình, xã hội
cần quan tâm, đó là cần làm gương cho trẻ noi theo, thể hiện thái độ hành vi đúng đắn
trước mặt con trẻ, không nên xem nhẹ trẻ mà luôn quan sát, chú ý để hình thành và xây
dựng cho trẻ có những kỹ năng sống tốt.
Với quan điểm của tơi, để trẻ 5- 6 tuổi có kỹ năng sống tốt, tôi thường xuyên liên hệ với
phụ huynh để kịp thời nắm bắt tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung
và biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ tại nhà và bàn bạc cách giải quyết mọi khó khăn.
Ví dụ: Trong lớp có trẻ chưa gọn gàng khi cất đồ dùng như dép, mũ, áo khoác treo lên
giá, hay nói tục... chiều trả trẻ tơi trực tiếp trao đổi với phụ huynh về những hành vi mà
trẻ thường mắc phải, qua trao đổi tôi biết được các hành vi, thói quen của trẻ lúc ở nhà.
Khơng những thế, tơi ln vận động phụ huynh tham gia tình nguyện và các hoạt động
giáo dục trong lớp.
Ví dụ: Tham gia dự vào các hoạt động ngoại khố...Qua đó phụ huynh thấy được việc
ngoài dạy cho trẻ kiến thức giáo viên rất chú trọng tới kỹ năng sống của trẻ, từ đó tạo
thêm mối quan hệ chặt chẽ và hợp lý hơn.
Hơn nữa trong thời đại ngày nay công nghệ thông tin phát triển nhanh kèm theo những
mặt trái của xã hội, nếu chúng ta lơ là hoặc bỏ qua những gì ảnh hưởng khơng tốt tới đứa
trẻ thì trẻ sau này khơng có kỹ năng sống tốt như chúng ta mong đợi.
Vì vậy tơi ln đề cao nội dung này trong các cuộc họp phụ huynh, nhằm nhắc nhở phụ
huynh luôn quan tâm đến trẻ, không cho trẻ xem những bộ phim, những tranh ảnh... có
hành động, hành sai trái, hoặc kịp thời giải thích cho trẻ rõ về những gì trẻ vừa thấy
khơng đúng với chuẩn mực xã hội.


Tóm lại, để rèn kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi, đặc biệt là trẻ thuộc đối tượng dân tộc
thiếu số Bru-Vân kiều việc giúp trẻ phát triển toàn diện thì giáo viên cần phải biết phối
hợp chặt chẽ với phụ huynh, cùng với phụ huynh tạo được nền tảng vững chắc, kịp thời
sửa chữa những gì trẻ bị va chạm, lệch lạc trong cuộc sống, để sau này trẻ là người con

ngoan, học trị tốt, người cơng dân có ích cho xã hội. Với những việc làm trên, tôi thấy đa
số phụ huynh hưởng ứng, ủng hộ và tin tưởng vào những gì mà tơi đã rèn cho trẻ 5- 6
tuổi những kỹ năng sống thích hợp.
*Hiêu quả cua sáng kiến:
1. Trước hết giáo viên được nắm chắc nội dung, phương pháp, giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ, nhận thức được tầm quan trọng của rèn kỹ năng sống cho trẻ.
2. Tính độc lập, mạnh dạn, hợp tác, chia sẻ và biết kiên trì hồn thành các cơng việc được
giao của trẻ có hiệu quả hơn.
3. Các hành vi, hành động, ngơn ngữ có văn hố theo chuẩn mực đạo đức xã hội của trẻ
tiến bộ hơn.
4. Tính tị mị, trí tưởng tượng, năng động, thói quen lao động, tự phục vụ, kỹ năng tự lập
của trẻ tốt hơn.
5. Trẻ tự tin trong giao tiếp, có kỹ năng giải quyết các vấn đề, biết tự phục vụ và hợp tác
với bạn bè, mọi người xung quanh. tâm lý thoải mái, thích đi học, thích đến trường, thích
hoạt động, thích giao tiếp.
- Phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ 5- 6
tuổi.
- Phụ huynh ngày càng tin tưởng giáo viên, luôn quan tâm chăm lo đến việc học tập, các
hoạt động, lời nói, hành vi của con em trên lớp cũng như lúc ở nhà. Một số phụ huynh đã
mạnh dạn trao đổi những vấn đề cần thiết nhờ giáo viên quan tâm giúp đỡ. Nhờ vậy mà
mối quan hệ giữa cô, trẻ và phụ huynh ngày càng gần gũi hơn.
Đặc biệt kết quả khảo sát cuối năm
Đạt

Không đạt



Ti




Ti

trẻ

lê %

trẻ

lê %

1. Kỹ năng giao tiếp

7

70

3

30

2. Kỹ năng thích nghi

6

60

4


Nơi dung khảo sát

40


×