Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ HÀO HƯNG YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.63 KB, 30 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ HÀO HƯNG YÊN
2.1. Một số đặc điểm kinh tế xã hội ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho
người lao động ở huyện Mỹ Hào – Hưng Yên
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Hưng Yên là một tỉnh mới được tái lập từ 01/01/1997, được tách ra từ tỉnh
Hải Hưng (bao gồm tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương). Mặc dù mới được
thành lập gặp nhiều khó khăn nhưng trong những năm qua thì tỉnh Hưng Yên đã
đạt những thành tích đáng kể trong việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Một
trong những huyện đi đầu trong việc phát triển kinh tế của tỉnh là huyện Mỹ
Hào.
Huyện Mỹ hào là huyện nằm trọn ở châu thổ đồng bằng sông hồng, là cái
nôi của nền văn minh lúa nước. Với vị trí dọc theo quốc lộ 5 (Hà Nội – Hải
Phòng), phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía đông giáp Hải Dương, phía nam giáp
huyện Mỹ Hào. Toàn huyện có 13 xã, thị trấn với diện tích tự nhiên là 79,1 km
2
diện tích đất canh tác là 9859 ha với dân số là 84655 người. Do vị thế nằm ở vị
trí trung tâm kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng - Quảng Ninh)
cho nên hiện nay có rất nhiều công ty được thành lập dọc theo quốc lộ 5 làm
cho ngành công nghiệp của huyện phát triển mạnh thu hút nhiều lao động làm
việc trong lĩnh vực này. Đồng thời vị trí thuận lợi nên dễ dàng giao lưu buôn
bán với các tỉnh khác.
Ngoài ra huyện còn nằm ở đồng bằng Châu thổ sông Hồng hàng năm
được lượng phù sa bồi đắp cho nên rất thích hợp cho việc sản xuất nông nghiệp
– cũng là một trong những thế mạnh của huyện. Vì có vị trí thuận lợi như vậy
cho nên ngành nông nghiệp của huyện có nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế
cao, thu hút được một lượng lao động lớn không có trình độ chuyên môn tham
gia vào sản xuất, giải quyết được tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn.
Mỹ Hào nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên khí hậu chia làm bốn
mùa rõ rệt, độ ẩm trung bình là 85% với lượng mưa trung bình
1500mm/năm.Với điều kiện khí hậu thuận lợi như vậy đã tạo điều kiện cho việc


phát triển nông nghiệp với những loại cây ngắn ngày có giá ttị kinh tế cao, đã
thu hút một lực lượng lao động lớn vào làm việc, giảm bớt số lao động nhàn dỗi
trong ngành nông nghiệp.
Ngoài ra huyện Mỹ Hào còn có hệ thống sông Hồng chảy qua nên rất dồi
dào về nguồn nước, huyện đã xây dựng các công trình thuỷ lợi, trạm tưới tiêu
nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống mạch nước ngầm với trữ
lượng rất phong phú đã đáp ứng được đầy đủ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh
và sinh hoạt của người dân.
Hệ thống giao thông có thể nói là một lợi thế lớn nhất của huyện Mỹ Hào.
Nằm trên trục quốc lộ 5 do đó được Nhà nước cũng như những nhà đầu tư quan
tâm rất nhiều. Hiện nay các công ty đã mọc rất nhiều ở hai bên đường 5 và đã
tạo thêm rất nhiều việc làm cho lượng lao động trong huyện và các huyện khác.
Ngoài ra hệ thống giao thông rất thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán với các
tỉnh khác như Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội…Hệ thông đường giao thông
trong toàn huyện đều được giải nhựa và mở thành hai làn đường cho xe chạy
nên hàng hoá được luân chuyển trong toàn huyện rất dễ dàng.
Tóm lại thì phần lớn điều kiện tự nhiên đều rất thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế của huyện do vậy mà việc tạo việc làm cho người lao động sẽ trở
nên dễ dàng hơn.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế
Tỉnh Hưng Yên còn gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế vì
tỉnh mới được tái lập theo đơn vị hành chính. Nhưng trong những năm gần đây
thì nền kinh tế của tỉnh đều có những bước phát triển. Một trong những huyện đi
đầu về phát triển kinh tế là huyện Mỹ Hào.
Trong các năm vừa qua thì tốc độ phát triển kinh tế của năm sau cao hơn
năm trước. Riêng năm 2005 là năm hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị – kinh
tế – xã hội, phát triển toàn diện, an ninh quốc phòng ổn định giữ vững, tốc độ
tăng trưởng kinh tế là 27,4% tăng 2,4% so với kế hoạch. Cơ cấu kinh tế năm
2005 là 22% - 56%- 22%, giá trị bình quân đầu người đạt 797 USD/năm, tổng
thu ngân sách đạt khá, các chỉ tiêu kinh tế đều tăng so với năm 2004. Cụ thể là:

2.1.2.1.Về sản xuất nông nghiệp
Trong năm 2005 huyện đã tập trung cao trong việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn. Tổng giá trị xản xuất nông nghiệp đạt 241 tỷ tăng 5% so với năm 2004.
Tổng diện tích gieo trồng cả năm là 9549 ha giảm 3,5% so với năm
2004, hệ số quay vòng đất 2,2 lần. Diện tích trồng lúa đạt 8623 ha giảm 3,4% so
với năm 2004. Cây vụ đông đạt 480 ha đạt 73,8% so với kế hoạch. Công tác
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục được quan tâm, các mô hình
chuyển đổi diện tích từ lúa kém hiệu quả sang đào ao nuôi trồng thuỷ sản kết
hợp với chăn nuôi, trồng cây có giá trị kinh tế cao đi vào hoạt động ổn định và
có bước phát triển tốt. Đến nay toàn huyện có 136 mô hình kinh tế trang trại
trong đó có 24 mô hình đạt tiêu chí theo quy định tại Quyết định số 46/2005/QĐ
- UB của UBND tỉnh Hưng Yên. Đàn lợn tiếp tục tăng, tổng số đàn lợn 47.210
con tăng 6,8% so với năm 2004 (đàn lợn nạc 30.660 con chiếm 65% so với tổng
số đàn lợn); đàn bò, bê 1.639 con bằng 132,8%so với năm 2004 (trong đó bò lai
Sind, bò sữa là 1.310 con chiếm 80% tổng đàn bò); đàn gia cầm 517.000 con
bằng 101,9%so với năm 2004. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản được duy trì và ổn
định, sản lượng cá thịt đạt 900 tấn bằng 138,4% năm 2004, sản lượng cá giống
đạt 25 triệu con.
Như vậy thì nền sản xuất nông nghiệp của huyện Mỹ Hào tuy diện tích
gieo trồng có giảm 3,5% nhưng tổng giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn tăng 5%.
Sở dĩ có sự tăng này là do chăn nuôi trong huyện phát triển và thay đổi cơ cấu
chăn nuôi, mặt khác ngành trồng trọt đã đi sâu vào việc khai thác chiều sâu của
đất đai, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Mặc dù như vậy thì
diện tích đất trồng trọt giảm khiến người lao động trong nông nghiệp đã thiếu
việc làm lại càng thiếu hơn. UBND huyện đã khuyến khích cho người lao động
vay vốn để mở trang trại để tạo việc làm cho bản thân và gia đình nhưng lượng
lao động nhàn dỗi trong khu vực này vẫn còn rất nhiêu. Chúng ta cần phải có
chính sách tạo việc làm cho lượng lao động trong lĩnh vực này.
2.1.2.2. Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản

Sản lượng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng cao dần trong
những năm gần đây và đóng một tỷ lệ rất cao vào tổng giá trị sản lượng của toàn
kinh tế. Năm 2004 giá trị sản lượng ngành sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp tăng 19,7% so với năm 2003 nhưng năm 2005 tăng 28,3% so với
năm 2004. Giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 2005 đạt
603,1 tỷ đồng, trong đó khu vực hợp tác xã công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
436 triệu đồng; công ty cổ phần, công ty TNHH 539 tỷ 604 triệu đồng; doanh
nghiệp tư nhân 13 tỷ 160 triệu đồng, khu vực hộ gia đình cá thể là 49 tỷ 900
triệu đồng. Như vậy thì giá trị sản xuất của công ty cổ phần và công ty TNHH
đóng góp lớn nhất trong tổng giá trị sản suất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp (89,47%). Giá trị hàng xuất khẩu 5,5 triệu USD tăng 22,2% so với năm
2004 tập trung ở hàng may mặc và thiết bị điện. Các loại hình doanh nghiệp này
đã tạo việc làm cho rất nhiều lao động trong huyện.
Về xây dựng cơ bản, năm 2005 đã hoàn thành đường 210; đường điện
chiếu sáng đường 196 công trình chào mừng đại hội đảng bộ huyện Mỹ Hào lần
thứ 23; đường cụm công nghiệp Dị Sử; đấu giá khu tái định cư đường 5A đảm
bảo thu ngân sách tỉnh giao. Công tác xây dựng cơ bản là công việc giúp đỡ rất
nhiều cho việc phát triển kinh tế và cũng thu hút được nhiều lao động vào làm
việc trong lĩnh vực này.
Về tiếp nhận dự án đầu tư vào địa bàn huyện năm 2005 có 10 dự án đầu
tư, tính đến nay toàn huyện có 128 dự án, trong đó 52 dự án đi vào sản xuất thu
hút trên 12.000 lao động vào làm việc, trong đó số lao động trong huyện chiếm
trên 50%. Giá trị dịch vụ, thương mại đạt 239 tỷ đồng tăng 39,8% so với năm
2004, tăng 19,8% so với kế hoạch đề ra. Các loại hình dịch vụ có bước phát
triển đáng kể, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân và khu
vực.
Hiện nay đất nước ta đang quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước, ngành công nghiệp dịch vụ phát triển mạnh. Ngành sản xuất công nghiệp
của huyện Mỹ Hào đang ngày càng phát triển và đã tạo việc làm cho hàng nghìn
lao động trên địa bàn. Vì chúng ta có một vị trí rất thuận lợi nên cần phải khai

thác thế mạnh này để thu hút các nhà đầu tư để tạo thêm việc làm cho người dân
và tăng thu nhập để xoá đói giảm nghèo. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu
trong công tác tạo việc làm cho người lao động.
2.1.3. Đặc điểm xã hội
Đến năm 2005, dân số huyện Mỹ Hào là 84655 người, chiếm 7,83% dân
số của cả tỉnh, mật độ dân số là 1070 người/km
2
. Trong đó số người trong độ
tuổi lao động chiếm 43,8% dân số. Điều này cho thấy huyện Mỹ Hào có một
nguồn lao động dồi dào và do đó cần phải có một chương trình tạo việc làm cho
lượng lao động này.
Bảng 2.1 : Tình hình dân số huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005
ĐVT: người.
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng dân số 81.343 82.156 82.997 83.827 84.655
Tốc độ tăng dân số tự
nhiên(%)
0,99 1,02 1,00 0,98 0,97
(Báo cáo tình hình dân số huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005)
Như vậy biến động tự nhiên dân số của huyện không đều qua các năm và
có xu hướng giảm nhưng không đáng kể: năm 2003 so với năm 2002 tăng nhiều
hơn so với năm 2002 so với năm 2001 và giảm đều ở những năm 2004 và 2005.
Điều này chứng tỏ nhận thức của người dân đã có chuyển biến tốt, do đó đời
sống của người dân đã bớt khó khăn hơn và họ có thời gian để đi làm để nâng
cao đời sống của mình. Đây là một yếu tố tích cực cho công tác tạo việc làm
cho người lao động.
*Đặc điểm về văn hoá, giáo dục, y tế:
Phong trào văn hoá, văn nghệ trong huyện luôn được sự quan tâm của các
cấp uỷ đảng, của quần chúng nhân dân. Đặc biệt trong những ngày lễ lớn của
dân tộc thì nhân dân trong huyện tham gia các phong trào văn hoá văn nghệ

quần chúng rất sôi nổi, hưởng ứng và tuyên truyền đường lối chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước. Các hoạt động thể dục thể thao được duy trì
thường xuyên, 100% các trường tổ chức hội khoẻ phù đổng và được các học
sinh tham gia hưởng ứng tích cực.
Năm 2005 toàn huyện có 09 làng được công nhận là làng văn hoá, đưa
tổng số làng được công nhận làng văn hoá lên 53/77 đạt 68,8%; 57/77 thôn có
nhà văn hoá; 15.366 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá đạt 75%; 50 cơ quan,
đơn vị được thẩm định và đề nghị công nhận cơ quan, đơn vị văn hoá. Qua
những số liệu trên cho thấy sự nhận thức và tuân thủ đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước của nhân dân trong huyện là cao, do đó vấn đề ra chính sách
tạo việc làm cho người lao động trong huyện cũng được nhân dân ủng hộ.
Về giáo dục: Trên địa bàn huyện có 41 trường từ cấp tiểu học đến THPT
thu hút trên 29.455 học sinh. Chất lượng giáo dục được nâng cao. 100% các
cháu đến tuổi đi học được đến trường và huyện đã hoàn thành được mục tiêu
phổ cập tiểu học.
Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong các cấp học, ngành học được đẩy
mạnh, trong năm học 2004 - 2005 có 01 trường được Chính phủ tặng bằng
khen, 02 trường được Bộ giáo dục và đào tạo tặng bằng khen, đạt 02 giải ba và
01 giải khuyến khích quốc gia toán trên máy tính, UBND huyện công nhận 34
tập thể và cá nhân tiên tiến xuất sắc; 7 tập thể tiên tiến, 74 chiến sỹ thi đua cấp
cơ sở; 04 giáo viên giỏi cấp tỉnh, 06 học sinh giải cấp tỉnh. Thi tốt nghiệp các
cấp: THCS đạt 99,3%, THPT Mỹ Hào đạt 99,3%, THPT Nguyễn Thiện Thuật
và Trung tâm giáo dục thường xuyên đạt 88%. Học sinh thi đỗ vào các trường
đại học, cao đẳng tăng: đại học 205 em, cao đẳng 72 em. Công tác xã hội hoá
giáo dục, khuyến học, khuyến tài tiếp tục phát triển đều khắp trong huyện.
Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia : 02 trường THCS và 01 trường mầm
non. Như vậy thì sự nghiệp giáo dục ở huyện Mỹ Hào ngày được chú trọng hơn
và đạt được nhiều thành tích khích lệ. Điều này hứa hẹn chúng ta sẽ có một lực
lượng lao động có trình độ cho sau này.
Về y tế : Được xây dựng và duy trì hoạt động từ huyện đến xã, sức khoẻ

của nhân dân luôn được quan tâm và chữa trị kịp thời. Thường xuyên chăm lo,
quan tâm đến việc phòng, khám chữa bệnh và chăm lo sức khoẻ cho nhân dân,
không để dịch lớn xảy ra trên địa bàn. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng
lên, tinh thần phục vụ người bệnh tốt hơn. Năm 2005 thực hiện khám chữa bệnh
cho 30.994 lượt người, điều trị nội trú cho 4.950 bệnh nhân; thực hiện 314 ca
phẫu thuật, mổ đục thuỷ tinh thể cho 105 người, tiêm chủng vacxin cho 1078
cháu, 1097 cháu được tiêm viêm gan B ba mũi, 5525 cháu được uống Vitamin A
và 7482 cháu được tiêm vacxin viêm não Nhật Bản. Bước đầu thực hiện việc
khám, điều trị miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi có hiệu quả. Mang lưới y tế cơ sở
được quan tâm phát triển, đã có 3 xã, thị trấn được công nhận xã chuẩn quốc gia
về y tế. Công tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được quan
tâm, trên địa bàn huyện không có dịch bệnh lớn xảy ra.
Chú trọng bảo vệ, chăm sóc trẻ em; công tác tuyên truyền tư vấn kiến
thức dân số kể hoạch hoá gia đình được đẩy mạnh, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của đội ngũ cộng tác viên dân số được nâng cao. Tiến hành cấp trên 8.000
thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Năm 2005 tổng số sinh là
1.341. Vì sức khoẻ của nhân dân được quan tâm chu đáo do đó lực lượng lao
động của huyện Mỹ Hào có sức khoẻ tốt, điều này cũng góp phần làm cho công
tác tạo việc làm cho người lao động được thuận lợi hơn.
Tóm lại tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng trong những năm gần đây thì
công tác giáo dục, y tế, văn hoá xã hội trong huyện luôn được chú trọng và
không ngừng phát triển. Do đó người lao động trong huyện sẽ thoải mái hơn để
làm việc. Đây cũng là một yếu tố tích cực trong công tác tạo việc làm cho người
lao động ở huyện Mỹ Hào.
2.1.4. Đặc điểm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của huyện Mỹ hào tương đối dồi dào. Nguồn lao động
không ngừng tăng qua các năm: năm 2001 là 34664 người chiếm 42,6% so với
tổng dân số và đến năm 2002 là 35245 người chiếm 42,9%, năm 2003 là 35855
người chiếm 43,2%; năm 2004 là 36464 người chiếm 43,5%; năm 2005 là
37079 người chiếm 43,8%. Tình hình tăng nguồn nhân lực của huyện Mỹ Hào

đều qua các năm và chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng dân số. Điều này chứng
tỏ nguồn nhân lực của huyện Mỹ Hào là rất dồi dào đòi hỏi phải tạo nhiều việc
làm cho nguồn nhân lực này.
Trong đó lao động có khả năng lao động chiếm tỷ lệ rất lớn (trên 95%) và
tăng qua các năm nhưng lao động không có khả năng lao động vẫn còn rất nhiều
mặc dù đang có xu hướng giảm. Lao động ngoài độ tuổi lao động nhưng có
tham gia lao động còn nhiều và vẫn tăng qua các năm. Những lao động ngoài độ
tuổi lao động là lao động dưới và trên độ tuổi lao động. Điều này chứng tỏ đời
sống của nhân dân huyện Mỹ Hào vẫn còn gặp nhiều khó khăn và trẻ em, người
già vẫn phải tham gia vào lao động để tăng thêm thu nhập cho gia đình, đây
cũng là một khó khăn của huyện Mỹ Hào. Một đặc điểm đáng chú ý là lao động
của huyện Mỹ Hào tăng dần qua các năm: năm 2003 là 3986 người, năm 2004
là 4501 người và đến năm 2005 con số này là 5170 người. Điều này chứng tỏ
huyện Mỹ Hào luôn chú trọng việc đào tạo nghề cho người lao động và lực
lượng lao động của huyện ngày càng có chất lượng cao.
Bảng 2.2: Tình hình lao động của huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005
ĐVT: người
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng dân số 81.343 82.156 82.997 83.827 84.655
Lao động trong độ tuổi 34.664 35.245 35.855 36.464 37.079
% so với dân số 42,6 42,9 43,2 43,5 43,8
Trong đó:+ Lao động có
khả năng lao động
33.749 34.434 35.138 35.844 36.522
% so với lao động trong 97,4 97,7 98,0 98,3 98,5
độ tuổi
+Lao động không có khả
năng lao động
915 811 717 620 557
Ngoài tuổi lao động

nhưng có tham gia lao
động
5.465 5.500 5.595 5.610 5.637
Lao động qua đào tạo 3.291 3.525 3.986 4.501 5.170
Tổng nguồn lao động có
khả năng lao động
39.214 40.745 41.450 42.074 43.652
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005)
Qua các số liệu trên cho thấy tổng nguồn có khả năng lao động của huyện
Mỹ Hào là rất lớn và tăng dần qua các năm. Do đó nhu cầu được làm việc của
lượng lao động này là rất cao và phải cần có một chương trình tạo việc làm phù
hợp.
*Về chất lượng lao động của huyện Mỹ Hào:
Mặc dù lực lượng lao động của huyện Mỹ Hào đã được nâng cao về chất
lượng qua các năm nhưng vẫn còn thấp.
Về trình độ văn hoá : Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 thì
trong huyện Mỹ Hào không có lao động chưa biết chữ. Số lượng lao động có
trình độ tiểu học có xu hướng giảm trong 5 năm, từ 5026 người (năm 2001)
xuống thành 3819 người (năm 2005). Các đối tượng lao động có trình độ tiểu
học chủ yếu là những lao động có độ tuổi cao và những lao động trên độ tuổi
lao động. Đối tượng này do điều kiện học tập trước đây không được chú trọng
và cũng do điều kiện kinh tế khó khăn.
Bảng 2.3: Trình độ văn hoá của người lao động ở huyện Mỹ Hào giai
đoạn 2001 - 2005
Chỉ tiêu
Năm
Số lao
động
trong
độ tuổi

Trình độ tiểu học Trình độ THCS Trình độ THPT
Số
lượng
(đv:
người)
% so với
lao động
trong độ
tuổi
Số lượng
(đv:
người)
% so với
lao động
trong độ
tuổi
Số
lượng
(đv:
người)
% so với
lao động
trong độ
tuổi
2001 34.664 5.026 14,5% 17.679 51% 11.959 34,5%
2002 35.245 4.758 13,5% 18.151 51,5% 12.336 35%
2003 35.855 4.374 12,2% 18.752 52,3% 12.729 35,5%
2004 36.464 4.011 11% 19.277 52,7% 13.236 36,3%
2005 37.079 3.819 10,3% 19.652 53% 13.608 36,7%
(Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005)

Số lao động có trình độ THCS vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số lao động
trong độ tuổi (trên 50%) và tăng dần qua các năm. Lao động tốt nghiệp THPT
tăng nhanh và ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong số lao động trong độ tuổi :
năm 2001 là 11959 người và đến năm 2005 là 13608 người. Điều này chứng tỏ
trình độ văn hoá của người lao động của người lao động ở huyện Mỹ Hào ngày
càng được nâng cao, đó là điều kiện đầu tiên để nâng cao trình độ chuyên môn
của người lao động.
Về trình độ chuyên môn : Tổng số lao động có trình độ chuyên môn
của huyện Mỹ Hào không ngừng tăng qua các năm, cụ thể qua bảng số liệu
sau :
Bảng 2.4 : Trình độ chuyên môn của người lao động ở huyện Mỹ Hào giai
đoạn 2001 - 2005
Chỉ tiêu
Số lao động có
chuyên môn
Trên
ĐH
Đại học CĐ + TH
CNKT,
NVNV có
chứng chỉ
SL (đv:
người)
% so với
LĐ trong
độ tuổi
SL (đv:
người)
SL (đv:
người)

% so
với LĐ
trong
độ tuổi
SL (đv:
người)
% so
với LĐ
trong
độ tuổi
SL (đv:
người)
% so
với LĐ
trong
độ tuổi
2002 2.890 8,2% 06 458 1,3% 1.269 3,6% 1.163 3,3%
2003 3.048 8,5% 07 484 1,35% 1.309 3,65% 1.219 3,4%
2004 3.172 8,7% 07 518 1,42% 1.349 3,7% 1.287 3,53%
2005 4.311 9,2% 08 537 1,45% 1.390 3,75% 1.335 3,6%
(Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005)
Năm 2002 là 2890 người chiếm 8,2% so với lao động trong độ tuổi;
năm 2003 là 3048 người chiếm 8,5%; năm 2004 là 3172 người chiếm 8,7%;
đặc biệt đến năm 2005 thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao
tăng nhanh, số lượng lao động có trình độ chuyên môn là 3411 người chiếm
9,2% so với số lao động trong độ tuổi. Điều này chứng tỏ lực lượng lao động
của huyện Mỹ Hào có chất lượng ngày càng cao
Qua bảng số liệu trên cho thấy số lao động có chuyên môn của huyện
Mỹ Hào tăng từ năm 2002 đến năm 2005. Trong đó số lao động có trình độ
cao đẳng và trung học vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất: năm 2002 chiếm 3,6%; năm

2003 chiếm 3,65%; năm 2004 chiếm 3,7%; năm 2005 chiếm 3,75%. Số lao
động có trình độ đại học đều tăng qua các năm, đặc biệt năm 2004 tăng 34
người so với năm 2003. Hiện nay người lao động có xu hướng nâng cao trình
độ chuyên môn của mình vì một mặt sau khi học xong thì họ có cơ hội làm
việc nhàn hơn, mức tiền công cao hơn, mặt khác do hiện nay điều kiện của
sản xuất đòi hỏi người lao động phải nâng cao trình độ bản thân mình. Khi
khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì bắt buộc người lao động phải
không ngừng trao dồi kiến thức để theo kịp tiến trình sản xuất. Nhưng do
điều kiện kinh tế của huyện Mỹ Hào còn khó khăn do đó người lao động ít có
khả năng đi học cao mà chỉ dừng lại ở tốt nghiệp THPT. Trong huyện hàng
năm cũng có một số sinh viên tốt nghiệp ở một số trường đại học, cao đẳng
nhưng có một tỷ lệ rất ít về quê làm việc mà họ kiếm việc ở những thành phố
lớn như Hà Nội, Hải Phòng… Do đó chúng ta phải có một chương trình việc
làm thích hợp để thu hút số lao động này để nâng cao chất lượng cho nguồn
lao động ở huyện Mỹ Hào.
Như vậy thì so với các địa phương khác thì lực lượng lao động có trình
độ chuyên môn của huyện Mỹ hào còn thấp và mất cân đối. Tâm lý người
dân không muốn đi học nghề mà chỉ muốn đi học tại các trường đại học, cao
đẳng. Số lao động học nghề chủ yếu tại các địa phương khác chuyển đến và
cùng với số lao động mà họ không có khả năng thi đỗ vào các trường đại học,
cao đẳng. Tóm lại thì nếu người lao động mà không có trình độ chuyên môn
thì sẽ gây cản trở rất lớn cho việc tạo việc làm cho người lao động hiện nay.
Vì vậy chúng ta cần phải quan tâm đến việc đào tạo nghề cho người lao động
trong giai đoạn hiện nay.
Bảng 2.5: Lao động phân theo khu vực nông thôn, xã, thị trấn ở huyện
Mỹ Hào từ năm 2002 đến năm 2005
(ĐVT : người)
Khu vực 2002 2003 2004 2005
Nông
thôn

29.662 29.670 20.650 20.550
Thị trấn 5.583 6.185 15.814 16.529
Cộng 35.245 35.855 36.464 37.079
(Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005)
Qua số liệu trên cho thấy: lao động trong khu vực nông thôn năm 2003
tăng 8 người so với năm 2002 nhưng cho đến năm 2004 thì lượng lao động
này đã giảm chỉ còn 20650 người và đến năm 2005 giảm 100 người còn
20550 người làm việc ở khu vực nông thôn. Lao động ở thị trấn qua những
năm qua đều tăng mạnh, đặc biệt là năm 2004 lượng lao động làm việc tại
khu vực thị trấn tăng rất nhanh (tăng 9629 người so với năm 2003). Người
lao động đang có xu hướng chuyển từ nông thôn ra thị trấn. Số người lao
động làm việc ở nông thôn chủ yếu là làm nông nghiệp. Sở dĩ có hiện tượng

×