Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ĐẶC TRƯNG TRUYỆN NGẮN LÝ THUYẾT VÀ ĐỀ LUYỆN T ẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.78 KB, 21 trang )

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI

ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN

1


A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Giúp HS:
- Nắm vững những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn: khái niệm,
đặc trưng về nội dung, về nghệ thuật.
- Vận dụng những đặc trưng đã học soi chiếu vào các truyện ngắn được
học trong chương trình.
- Luyện đề bài liên quan đến đặc trưng thể loại.
B. NỘI DUNG BÀI HỌC
I. Khái niệm: truyện ngắn
- Khái niệm: truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ với một dung lượng hiện
thực, số lượng nhân vật, sự kiện, thời gian, không gian…tương đối hạn chế.
- Thời gian xuất hiện: Truyện ngắn đích thực (phân biệt truyện ngắn hiện đại với
truyện ngắn thời trung đại, truyện kể dân gian) xuất hiện tương đối muộn trong
lịch sử văn học, ra đời khoảng cận hiện đại, gắn liền với sự ra đời và phát triển
của báo chí và chủ yếu phát triển trong 150 năm gần đây.
- Đây là thể loại gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là hình thức tự sự tái hiện cuộc
sống đương thời.
II. Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn
1. Truyện ngắn là 1 giới hạn về thế giới nghệ thuật (“ngắn”).
Một trong những đặc trưng nổi bật của truyện ngắn là: Truyện ngắn phải
ngắn. Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến nó tự phân biệt một cách dứt
khốt và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết. Đặc trưng này được biểu
hiện qua một số phương diện cụ thể như sau:
- Ngơn ngữ, dung lượng: ngơn ngữ ít, số trang ngắn và bị giới hạn


(thường dưới 10 trang), đặc biệt có những truyện rất ngắn (chỉ một vài câu).
- Về mặt đề tài, chủ đề: dung lượng hay phạm vi đời sống được phản ánh
là có hạn. Truyện ngắn không đặt ra nhiều vấn đề đời sống khác nhau trong tác
phẩm mà thưởng chỉ xoay quanh một vấn đề.
- Thời gian trong truyện ngắn: truyện ngắn không phản ánh một quá trình
mà chỉ tập trung phản ánh 1 thời điểm tiêu biểu, một lát cắt, 1 “moment” của đời
sống.
2


Ví dụ: “Chí Phèo” (Nam Cao) tập trung kể lại khoảng thời gian 6 ngày
cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) xoay quanh
tình huống gặp gỡ của Huấn Cao và quản ngục ở nhà tù trong mấy ngày cuối đời
của Huấn Cao trước khi ra pháp trường để chịu án tử hình.
- Khơng gian được miêu tả trong truyện ngắn là không gian hẹp với 1 địa
điểm cụ thể.
Ví dụ: Làng Vũ Đại trong "Chí Phèo", làng Xơ Man trong "Rừng xà nu",
- Cốt truyện: Sự kiện: Truyện ngắn thường ít sự kiện. Trong tác phẩm
thường tập trung kể về một sự kiện chính nên cốt truyện tương đối đơn giản.
- Nhân vật: số lượng nhân vật thường ít, tính cách khơng q phức tạp.
Nếu trong tiểu thuyết, số lượng nhân vật có thể lên đến hàng trăm thì nhân vật
trong truyện ngắn rất ít. “Chữ người tử tù” xoay quanh 3 nhân vật: Huấn Cao,
quản ngục, thơ lại.
2. Truyện ngắn vẫn khắc phục những giới hạn này để vươn tới sức khái
quát hiện thực, tạo ra sự hấp dẫn riêng.
Chính đặc trưng: Truyện ngắn phải ngắn địi hỏi truyện ngắn phải cơ đọng
đến mức cao nhất. Ngắn ở truyện ngắn đồng nghĩa với cơ đọng, tinh chất – nhìn
vào đó có thể thấy cuộc sống hiện ra với đủ sắc màu của nó. Theo tơi hiểu tồn
bộ truyện ngắn là một tấm thảm lớn lao về cả thời đại. Với những mảnh tưởng
như rất nhỏ bé, nó góp phần tạo nên cả tấm chân dung hồn chỉnh. Sêkhơp – bậc

thầy truyện ngắn cũng quan niệm rằng: truyện ngắn là biết nói ngắn những
truyện dài, lời chật mà ý rộng. Cụ thể như sau:
- Đề tài nhỏ nhưng chủ đề lớn, có ý nghĩa hiện thực, nhân sinh và có tính
triết lí cao.
+ “Số phận con người” của Sôlôkhốp với chủ đề: con người đứng dậy sau
những mất mát, đớn đau bằng tình thương.
+ “Chí Phèo” của Nam Cao với chủ đề: tình người làm hồi sinh tính
người.
- Khơng gian, thời gian dù bị hạn chế nhưng:

3


+ Không gian được lựa chọn ở những thời khắc và những điểm khơng
gian có ý nghĩa, có khả năng dồn nén sức nặng hiện thực và có khả năng nhận
thức đối với nhân vật.
Truyện ngắn "Chữ người tử tù" chỉ tập trung khắc họa nhân vật Huấn Cao
trong mấy ngày cuối cùng của cuộc đời - khoảng thời gian vô cùng ngặt nghèo
và quý báu, trong nhà lao - nơi tồn tại cái xấu, cái ác, sự nhơ bẩn. Từ đó góp
phần làm nổi bật khí phách anh hùng, thiên lương trong sáng, chất nghệ sĩ tài
hoa, cao hơn là sự chiến thắng của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn.
+ Khơng gian, thời gian cịn được mở rộng bằng sự hồi tưởng, tưởng
tượng, hình dung
- Nhân vật trong truyện ngắn tuy ít nhưng:
+ Nhân vật được miêu tả ở những khía cạnh nổi bật nhất: ngoại hình, nội
tâm, hành động…
+ Nhân vật cịn được đặt trong tình huống để bộc lộ nhận thức và hành
động. Tình huống là kết quả của nhiều sự kiện. Nó buộc nhân vật phải hành
động, trong tình huống ấy nhân vật bộc lộ mình rõ nhất.
Ví dụ: Chí Phèo đã thức tỉnh bản tính lương thiện, khao khát và hi

vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn nhưng cuối cùng lại bị từ chối. Con đường
hồn lương đóng sầm trước mắt, bản tính lương thiện trở về khiến hắn khơng thể
tiếp tục lựa chọn con đường làm quỷ dữ. Vì thế, Chí phèo phải giết kẻ đã gây ra
bi kịch này cho mình (giết Bá Kiến) và tự sát để bảo toàn nhân cách.
- Đặc biệt: Về cốt truyện: Sức hấp dẫn, sinh động của truyện ngắn còn
được tạo ra từ những chi tiết đắt. Truyện ngắn rất đề cao chi tiết. Đó là những
chi tiết có sức cơ đọng, khái qt, gợi mở, tạo được khơng khí cho truyện, có
những chi tiết thể hiện con người, tạo vấn đề, thể hiện ý nghĩa, giá trị tư tưởng
của tác phẩm…
+ Ví dụ trong “Chí Phèo” cần nói đến các chi tiết: mùi hương cháo hành,
cái lò gạch, cái mặt sẹo của chí, giọt nước mắt của Chí…
- Kết cấu của truyện ngắn luôn tạo những bất ngờ và đột biến. Đây là một
yếu tố được đề cao trong truyện ngắn. Vì thế truyện ngắn thường tập trung tô
đậm cái mở đầu và cái kết thúc. Mở đầu thường tạo ấn tượng và sự hấp dẫn đặc
4


biệt. Kết thúc luôn tạo được những bất ngờ, thú vị, khơng theo phán đốn của
người đọc (tưởng thế này mà hoá ra thế khác) và thường để lại nhiều dư âm.
- Truyện ngắn cũng mang khả năng tổng hợp cao: ghép vào đó chất triết lí
của ngụ ngơn, chất trữ tình, chất thơ của thơ ca, chất kịch…
+ Ví dụ: Truyện ngắn mang tính chất trữ tình của Thạch Lam, Hồ Zếnh,
Thanh Tịnh.
+ Truyện ngắn mang chất kịch của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan.
+ Truyện ngắn smang chất tiểu thuyết,s chất triết lí của Nam Cao.
* Tóm lại: Đặc trưng cơ bản của truyện ngắn là phải ngắn, nhưng lại có sức khái
qt, sự cơ đọng, tinh chất.
III. Một số đề bài luyện tập.
Đề 1: Bàn về truyện ngắn, nhà văn Trung Quốc Trương Hiền Lương cho rằng:
“Truyện ngắn giống như nước hoa quả cơ đặc”, cịn nhà văn Mĩ Truman

Capote khẳng định: “Đó là một tác phẩm nghệ thuật có bề sâu nhưng lại khơng
được dài”.
Anh chị hiểu như thế nào về những ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ thông
qua một vài truyện ngắn đã học trong chương trình Ngữ văn 11 Nâng cao.
1. Giải thích ý kiến của hai nhà văn
Ý kiến của Trương Hiền Lương và Truman Capote tuy có cách diễn đạt
khác nhau

nhưng đều nêu lên đặc điểm và phẩm chất của thể loại truyện

ngắn:
- Về đặc điểm thể loại, truyện ngắn cần sự “cô đặc” (Trương Hiền
Lương), “không được dài” (Truman Capote): ngắn
+ Sự giới hạn về dung lượng, ngôn ngữ - truyện ngắn có ngơn ngữ ít,
dung lượng nhỏ.
+ Đề tài: Truyện ngắn thường chỉ hướng tới khắc họa một hiện tượng đời
sống, tái hiện một khoảnh khắc nhân sinh, một lát cắt hiện thực
+ Có ít nhân vật, ít sự kiện.
+ Kết cấu thường không phức tạp, cốt truyện diễn ra trong một thời gian,
không gian hạn chế, thường chỉ xoay quanh một tình huống có tính chất chủ
đạo.
5


+ Chứa những chi tiết cô đúc, lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác
phẩm những chiều sâu chưa nói hết.
- Tuy ngắn gọn, cơ đọng nhưng thể loại truyện ngắn có những phẩm chất
thẩm mĩ đặc trưng:
+ Ngắn gọn nhưng lại tinh túy như “nước hoa quả cô đặc” (Trương Hiền
Lương): tập trung vào khoảnh khắc mà ý nghĩa cuộc sống đậm đặc nhất; ngắn

gọn, hàm súc mà có khả năng khái quát cao về hiện thực.
+ Phản ánh được những “bề sâu” (Truman Capote): Bề sâu của đời sống,
bề sâu tư tưởng và tấm lòng của nhà văn (tư tưởng về hiện thực, tấm lòng nhân
đạo); bề sâu về tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ (tài năng xây dựng tình
huống truyện, tài năng kể chuyện, xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí nhân vật,
tạo dựng chi tiết nghệ thuật, sử dụng ngôn ngữ…). Thể loại này địi hỏi nhiều
cơng phu sáng tạo của người cầm bút
- Cả hai ý kiến đều là những định nghĩa sâu sắc, độc đáo về truyện ngắn
2. Chứng minh:
- Thí sinh cần lấy được dẫn chứng và phân tích một cách thuyết phục để làm
sáng tỏ những điều đã giải thích ở trên. (Chữ người tử tù, Chí Phèo...). Chứng
minh có thể tác 2 luận điểm hoặc kết hợp song song.
3. Bàn luận mở rộng:
- Để mỗi truyện ngắn thực sự là một cốc “nước hoa quả cô đặc” tinh túy,“có bề
sâu” cả về nội dung và nghệ thuật, người cầm bút phải không ngừng mài giũa tài
năng, khổ luyện trong lao động chữ nghĩa, gắn bó sâu sắc với cuộc đời và con
người.
- Độc giả để có thể tiếp nhận, khám phá được những bề sâu đó thì phải sống hết
mình với tác phẩm, tích cực đồng sáng tạo với nhà văn.
Đề 2: Quan niệm về truyện ngắn, Sách ngữ văn 11Ncao (tập 1) có viết: "...truyện
ngắn thường có dung lượng nhỏ ("ngắn"). Nhà văn chỉ cắt lấy một lát, "cưa một
khúc", chọn lấy một khoảnh khắc đời sống để xây dựng nên tác phẩm của
mình".
Qua truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân, hãy trình bày ý
kiến của anh/ chị về nhận định trên? (t44, 2014).
6


Đề 3: Bàn về cách viết truyện ngắn, nhà văn Sêkhốp có phát biểu:
“Theo tơi, viết truyện ngắn, cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết

luận.”
(Theo “Sêkhốp bàn về văn học” )
Anh (chị) hãy giải thích ý kiến trên, phân tích cách mở đầu, kết thúc
truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
để thấy ý nghĩa của nó trong việc nâng cao giá trị tác phẩm.
1. Giải thích.
- “Cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết luận”: Nhà văn phải dụng
công để tạo nên một cách mở đầu và kết thúc tác phẩm thật độc đáo, ấn tượng,
gây chú ý cho người đọc.
- Phải tô đậm cái mở đầu và kết luận vì: Đối với tác phẩm văn học nói
chung và nhất là truyện ngắn, mở đầu và kết thúc bao giờ cũng có vai trị rất
quan trọng trong việc nâng cao giá trị tác phẩm.
* Lưu ý: Học sinh cần vận dụng những kiến thức lý luËn về truyện ngắn
để giải thích rõ nhận định ( Mở đầu, kết luận là gì; vai trị của mở đầu, kết luận
trong truyện ngắn; có thể lấy một số ví dụ tiêu biểu để minh họa.)
2. Phân tích ý nghĩa của mở đầu và kết luận truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam
Cao và “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
2.1) Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.
a) Mở đầu:
* Cách mở đầu:
- Truyện được mở đầu bằng đoạn văn miêu tả, nhận xét tiếng chửi của
nhân vật chính - một kẻ đang say rượu. Đây là cách giới thiệu trực tiếp nhân vật
và cách mở đầu khơng theo trình tự thời gian mà đi thẳng vào giữa truyện.
* Ý nghĩa:
- Đoạn mở đầu có ý nghĩa lớn trong việc tạo tính hấp dẫn, gợi hứng thú,
lơi cuốn người đọc vào diễn biến tiếp theo của câu chuyện.
+ Cách vào truyện bằng hình ảnh rất sống động của một kẻ say đang vừa
đi vừa chửi.
7



+ Cách chửi của nhân vật khá độc đáo: Thoạt đầu vu vơ, sau đó thu hẹp
dần và cuối cùng bất ngờ chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn...”
+ Cách sử dụng ngôn ngữ vô cùng linh hoạt (đan xen nhiều điểm nhìn,
ngơn ngữ, giọng điệu) làm đoạn văn có ấn tượng riêng khó quên.
- Ngay từ đoạn mở đầu, số phận, tích cách nhân vật đã được khái quát,
khắc sâu giá trị tư tưởng tác phẩm.
+ Khái quát một tính cách hết sức đặc biệt: tính cách một kẻ khùng, thằng
say đang ở trong trạng thái lưỡng phân: nửa say - nửa tỉnh.
+ Khái quát một số phận vô cùng bi đát: số phận của con người đang bị
đồng loại chối từ.
=> Một thân phận đáng sợ - đáng thương.
* Lưu ý: Khái quát gọn phần diễn biến truyện để thấy tính cách, số phận
đó được tác giả triển khai tiếp, tạo nên sự nhất quán trong toàn bộ tác phẩm.
b) Kết thúc:
* Cách kết thúc:
- Cái chết thảm khốc của nhân vật Chí Phèo
- Nhà văn đã lặp lại hình ảnh “cái lị gạch bỏ hoang” ở phần đầu tác phẩm
- nơi Chí Phèo bị bỏ rơi - để kết thúc truyện.
* Ý nghĩa:
- Với việc để Chí Phèo tự vẫn vì khơng thể trở về với cuộc đời lương
thiện như thế, tác giả khắc sâu bi kịch số phận nhân vật và tố cáo sâu sắc xã hội.
- Hình ảnh “cái lị gạch bỏ hoang” được lặp lại tạo thành một kết cầu vòng
tròn, một kết thúc để ngỏ, có giá trị biểu hiện sâu sắc, buộc người đọc phải suy
ngẫm liên tưởng thêm những tầng nghĩa mới có thể có mà tác giả gửi gắm
( phản ánh, tố cáo hiện thực; dự báo, thức tỉnh,…)
2.2) Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
a) Mở đầu:
* Cách mở đầu:
- Truyện mở đầu bằng cuộc trò chuyện giữa quản ngục và thơ lại: quản

ngục “nghe đồn” Huấn Cao có tài viết chữ đẹp và có tài bẻ khoá vượt ngục; thơ
lại cho rằng phải chém những người như thế thấy mà tiêng tiếc.
8


* Ý nghĩa:
- Tạo ấn tượng ban đầu về nhân vật chính, phụ.
+ Huấn Cao: Con người của tài hoa, khí phách, bản lĩnh ngang tàng.
+ Quản ngục, thơ lại: biết quý cái Đẹp cái Tài, biết trọng nhân cách bản
lĩnh.
- Cách vào truyện theo trật tự thời gian, nghệ thuật giới thiệu nhân vật
uyên thâm, cổ điển (gián tiếp, theo lối “vẽ mây nẩy trăng”) tạo ấn tượng sâu đậm
trong lòng người đọc về Huấn Cao - con người của huyền thoại, của danh tiếng
lẫy lừng trong thiên hạ, đến phe đối lập cũng phải nể vì, trọng thị.
* Lưu ý: Khái quát gọn phần diễn biến truyện để thấy tính thống nhất
trong tính cách, phẩm chất nhân vật, tạo nên tính chỉnh thể của văn bản.
b) Kết thúc.
* Cách kết thúc:. Truyện kết thúc bằng “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
- Khung cảnh cho chữ chưa từng có: Trong đêm cuối cùng của người tử
tù, nơi ngục thất lại diễn ra cảnh cho chữ.
- Người cho chữ - xin chữ chưa từng có: Người cho chữ, ban phát cái
Đẹp, khuyên răn điều Thiện là tử tù; người xin chữ, thoả được sở nguyện về cái
Đẹp và tìm ra con đường chính đạo của cuộc đời lại là viên quan coi ngục.
* Ý nghĩa:
- Tạo kết cấu đầu cuối tương ứng: Mở đầu bằng lời đồn - kết thúc bằng
hành động chứng thực. Mở đầu bằng huyền thoại - kết thúc bằng cảnh “xưa nay
chưa từng có”.
- Tô đậm chân dung nhân vật:
+ Huấn Cao “ngôi sao hơm chính vị” toả sáng ánh sáng của Tài - Chí Tâm.
+ Quản ngục, đốm sáng đặc biệt, con người của nhân cách và sở nguyện

cao đẹp, bậc “liên tài tri kỷ” xưa nay hiếm đối với người nghệ sĩ.
+ Đây là cuộc gặp gỡ kì diệu giữa những “tấm lịng trong thiên hạ”: một
Huấn Cao nghĩa khí tài hoa và một quản ngục, thơ lại thành tâm trọng nghĩa,
trọng tài.
9


- Thể hiện nổi bật cảm hứng lãng mạn và bút pháp lý tưởng hoá của
Nguyễn Tuân: hướng tới cái Đẹp và sự phi thường.
- Bộc lộ tập trung chủ đề tác phẩm:
+ Ca ngợi một thú chơi tao nhã của một thời vang bóng.
+ Ca ngợi một bậc anh hùng hiên ngang bất tử.
+ Tôn vinh sự chiến thắng của cái Đẹp, cái Thiện với sức mạnh cảm hoá
lớn lao, vĩ đại.
+Thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về con người và nghệ thuật chân
chính.
3. Bình luận.
- Lời bàn xác đáng, đúng đắn về một phương diện quan trọng trong nghệ
thuật viết truyện ngắn, được đúc kết nên từ trải nghiệm một đời văn của Sêkhốp
- bậc thầy truyện ngn trong nền văn học Nga và th gii.
- õy là công phu sáng tạo in đậm dấu ấn tài năng và phong cách tác giả:
Mở đầu - kết thúc “Chữ người tử tù” khẳng định Nguyễn Tuân, nhà văn lãng
mạn, nhà văn của cái Đẹp hoàn mĩ phi thường, nhà văn của lối viết vừa cổ kính
trang trọng, vừa mới mẻ hiện đại. Mở đầu và kết thúc truyện ngắn “Chí Phèo”
chứng tỏ Nam Cao là cây bút hiện thực nghiêm nhặt, tỉnh táo, nhà văn của chủ
nghĩa nhân đạo lớn khơng chỉ với tình thương mà cịn ở lòng tin vào con người.
- Yêu cầu đặt ra cho công phu sáng tạo mở đầu và kết luận không chỉ
đúng với truyện ngắn mà còn với tất cả các thể loại văn học khác (ký, kịch, thơ,
tiểu thuyết), đòi hỏi trách nhiệm của người nghệ sĩ trong quá trình lao động nghệ
thuật.

* "Cực kì quan trọng là làm sao bắt đầu cho tốt " (polevoi).
Mác nói đại ý: Điều quan trọng với một tác phẩm là cách kết thúc.
- Chu lai nhận xét: "Vào đầu nhanh, dẫn giải mạnh, kết thúc khéo - ba yếu tố đó
kết hợp với ý tứ dồi dào, ý tưởng sâu sa sẽ tạo nên cái hay của truyện".
- "Chức năng mã hóa trong văn bản kể chuyện vẫn thuộc về nhân tố mở đầu,
cịn chức năng huyền thoại hóa của cốt truyện thuộc về nhân tố kết thúc."
Đề 4:
10


Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Sứ mệnh của thể loại truyện
ngắn đặt lên vai các chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn là
những người tí hon mang nhiệm vụ khổng lồ”.
Anh chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên qua một vài truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Gợi ý
1.Giải thích.
- Chi tiết nghệ thuật: “các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc
và tư tưởng” (Theo Từ điển thuật ngữ văn học).
- Truyện ngắn: Thể loại tự sự cỡ nhỏ, “thường hướng tới việc khắc họa một hiện
tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn
của con người” (Từ điển thuật ngữ văn học). Truyện ngắn được coi như “lát cắt
của đời sống”.
- Sứ mệnh của thể loại truyện ngắn: Qua việc tái hiện những khoảnh khắc đời
sống, những hiện tượng nhân sinh, những cảnh huống trong quan hệ giữa người
với người, truyện ngắn khái quát lên các vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về con người
và xã hội; qua một lát cắt đời sống mà người đọc thấy cả cái cây đời, qua cái
khoảnh khắc mà nói được cái mn thuở của cõi người.
- Những người tí hon mang nhiệm vụ khổng lồ: Chi tiết nghệ thuật là đơn vị nhỏ
nhất cấu thành tác phẩm nhưng nó mang trọng trách lớn lao: làm nổi bật tính

cách, phẩm chất của nhân vật; chủ đề của tác phẩm; quan niệm thẩm mĩ, tư
tưởng nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của nhà văn; tạo nên chiều sâu và sức
hấp dẫn cho tác phẩm…
Ý kiến trên đã khẳng định vai trị then chốt, tầm quan trọng khơng thể
thiếu của chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn.
2. Bình luận
Đây là ý kiến đúng đắn, “bắt mạch” được một phương diện cơ bản trong
đặc trưng của truyện ngắn. Sở dĩ chi tiết nghệ thuật có vai trị đặc biệt quan
trọng trong truyện ngắn là vì:
+ Truyện ngắn có dung lượng nhỏ; số lượng nhân vật, sự kiện không
nhiều; cốt truyện diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, thường chỉ
11


xoay quanh một tình huống có tính chất chủ đạo. Nhưng điều quan trọng là
những gì phản ánh phải có sức khái qt, có chiều sâu, vượt ra ngồi khn khổ
của câu chữ. Truyện ngắn là “tác phẩm có bề sâu nhưng lại không được dài”.
+ Để giải quyết mâu thuẫn trên, cần phải có những chi tiết nghệ thuật đắt
giá trong tác phẩm. Đó là những điểm sáng hội tụ chiều sâu nội dung và vẻ đẹp
nghệ thuật của tác phẩm, cơ đúc những điều nhà văn muốn nói trong một dung
lượng câu chữ khiêm tốn, tạo nên những trang văn hàm súc, nói ít gợi nhiều. Chi
tiết nghệ thuật trong truyện ngắn phải gánh vác nhiệm vụ nặng nề, có ý nghĩa
then chốt trong việc thực hiện sứ mệnh của thể loại. Dù chỉ là tiểu tiết của tác
phẩm nhưng những gì nó làm được thì thật lớn lao.
3. Chứng minh:
- Thí sinh chọn và phân tích một vài chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong các truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945 để làm sáng tỏ vấn đề đang bàn luận.
4. Mở rộng:
- Đề cao vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn nhưng không có nghĩa
là đẩy vai trị ấy lên địa vị độc tôn. Bên cạnh chi tiết nghệ thuật, những yếu tố

khác cũng có ý nghĩa khơng nhỏ trong truyện ngắn: tình huống truyện, nhân vật,
ngôn ngữ…
- Chi tiết nghệ thuật không chỉ quan trọng đối với thể loại truyện ngắn mà đối
với tất cả các thể loại văn học, sức nặng nghệ thuật của tác phẩm sẽ tăng lên rất
nhiều khi chủ thể sáng tạo sản sinh được những chi tiết “có tầm”.
5. Bài học cho người sáng tác và người tiếp nhận.
- Những người đã gắn đời văn của mình với nghiệp viết truyện ngắn cần nhận
thức được sâu sắc vai trò của các chi tiết nghệ thuật ở thể loại này, không ngừng
khổ luyện để nâng cao nội lực, mài sắc tài năng, từ đó cho ra đời những chi tiết
đặc sắc, độc đáo, có khả năng “đóng đinh” vào lòng người đọc.
- Người đọc khi đến với truyện ngắn cần phải sống hết mình với tác phẩm, cần
sự cảm thụ tinh tế để có thể phát hiện, giải mã các chi tiết đặc sắc – những
“huyệt đạo” làm bừng sáng nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Đề 5
12


Nhà văn Phạm Thị Hoài cho rằng: “Những truyện ngắn hay - theo cảm nhận
của tôi- thường gắn với thơ (…). Truyện ngắn dường như là đứa con tất yếu của
người mẹ thơ và người cha văn xi. Nó là thơ viết bằng văn xi, bề ngồi
mang tính cha mà bên trong mang tính mẹ”.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ ý kiến trên qua một
truyện ngắn tự chọn thuộc chương trình Ngữ văn lớp 11.
1, GT:
- Truyện ngắn: Là một thể loại thuộc phương thức tự sự, phản ánh đời sống
thông qua các chi tiết, sự kiện, nhân vật, tình huống nào đó, được kể lại bởi một
người kể chuyện nhất định, qua đó bộc lộ tư tưởng, quan điểm của tác giả về đời
sống nhân sinh.
- Truyện ngắn hay: là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, có sự kết hợp hài hịa giữa
“một khám phá về mặt hình thức và một sáng tạo về mặt nội dung”.

- Thơ: là một thể loại thuộc phương thức trữ tình, lấy việc bộc lộ thế giới
tình cảm, cảm xúc của con người làm nội dung chủ đạo. Thơ phản ánh “cái nhụy
của đời sống” thông qua trí tưởng tượng phong phú và một ngơn ngữ đẹp đẽ,
giàu sức biểu cảm.
- “Truyện ngắn dường như là đứa con tất yếu của người mẹ thơ và người
cha văn xi. Nó là thơ viết bằng văn xi, bề ngồi mang tính cha mà bên
trong mang tính mẹ”:
Nhận định của Phạm Thị Hồi đề cập đến tính chất giao thoa đặc biệt của
truyện ngắn và thơ. Ở một số truyện ngắn hay, theo Phạm Thị Hồi, có sự giao
thoa đặc biệt này. Bề ngồi truyện ngắn tất yếu “mang tính cha”, tức là những
đặc điểm thông thường của một truyện ngắn, như: dung lượng ngắn, thường ít
nhân vật, ít sự kiện, cốt truyện thường chỉ xoay quanh một tình huống nhất định,
một “lát cắt của cuộc sống”, ở đó, bản chất con người, cuộc đời hiện lên rõ nét
nhất. Truyện ngắn có thể xem “là một bàn tay siết chặt lại thành nắm đấm”
(Hemingway).
Tuy nhiên, xét về bề sâu, những truyện ngắn hay lại là những đứa con
“mang tính mẹ”, tức là chất thơ vời vợi trong tác phẩm. Chất thơ thường bộc lộ
ở nội dung (giàu tình cảm, cảm xúc, chú trọng chiều sâu tâm trạng, tâm lí nhân
13


vật) và nghệ thuật (ngơn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, kết cấu theo dòng tâm
trạng…).
Ý kiến đúng, thể hiện sự suy ngẫm, cảm nhận, trải nghiệm của Phạm



Thị Hoài với tư cách một người đọc- một nhà văn. Cách nói hình ảnh (đứa con
tất yếu, người mẹ thơ, người cha văn xi, bề ngồi mang tính cha, bên trong
mang tính mẹ) đã bộc lộ rõ tính chất giao thoa giữa hai thể loại truyện ngắn và

thơ.
Thực chất, sự giao thoa của truyện ngắn với các thể loại khác đã được
người đọc chú ý đến từ lâu. Người ta đã nói đến những truyện ngắn- sử thi,
truyện ngắn mang sức nén của tiểu thuyết trường thiên, truyện ngắn - kịch tính
cao, và khơng thể khơng nhắc đến truyện ngắn giàu chất thơ.
Vì sao lại có sự giao thoa ấy? Do đặc trưng của xã hội hiện đại, các thể
loại có sự thâm nhập lẫn nhau (VD: thơ văn xuôi, kịch thơ…), do đòi hỏi của
nhịp sống hiện đại, con người càng sống hối hả gấp gáp càng mong mỏi tìm về
một cái gì đó bình n sâu lắng cho tâm hồn. Vậy nên những truyện ngắn hay
thường là dấu gạch nối hòa giải cả hai thái cực, hiện thực và lãng mạn, văn xi
và thơ. Nó là “đứa con tất yếu của người mẹ thơ và người cha văn xuôi” là vì
thế. Vậy nên cũng sinh ra những nhà văn mà “cả đời như bị đóng đinh trên cây
thập giá văn xuôi” mà người đọc khi thưởng thức những trang văn của họ ln
cảm thấy cái nhã thú được tìm về với những gì “nhẹ nhõm, thơm lành và mát
dịu”. VD: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Pautơpxki, Aimatơp…
2, CM:
Thí sinh có thể lựa chọn những truyện ngắn hay giàu chất thơ, VD:
“Dưới bóng hồng lan”, “Hai đứa trẻ”- Thạch Lam…
Hướng phân tích: Cần chỉ ra:
- Truyện ngắn đó “bề ngồi mang tính cha” như thế nào?
+ Cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình huống?
+ Giọng kể, người kể, điểm nhìn trần thuật?
- Truyện ngắn đó “bên trong mang tính mẹ” ra sao?

14


+ Nội dung: Giàu chất thơ (tác phẩm đã khai thác, diễn tả sâu sắc những
cung bậc tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, “những rung động khẽ như một cánh
bướm non” của tâm hồn nhân vật như thế nào…)

+ Nghệ thuật: ngơn ngữ (hình ảnh, nhịp điệu, nhạc điệu…), giọng điệu, kết
cấu… giàu chất thơ đã được bộc lộ như thế nào trong tác phẩm?
3, BL:
- Khẳng định vấn đề đúng.
- Ý nghĩa của vấn đề: Sự giao thoa của truyện ngắn với thơ tạo nên sức hấp
dẫn cho tác phẩm, tạo nên vẻ đẹp riêng cho văn phong tác giả.
- Bài học cho người sáng tác và tiếp nhận?
Đề 6
Nhận xét về kết thúc của truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng cho rằng:
"Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào
lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm
về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng"
(Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2011, tr 85)
Anh (chị) có suy nghĩ gì về ý kiến trên? Hãy phân tích một vài truyện
ngắn đã học trong chương trình Ngữ văn 11 Nâng cao để làm sáng tỏ.
Gợi ý
* Giải thích:
- Ý kiến đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của phần kết thúc trong truyện
ngắn. Kết thúc nào cũng nhằm tái hiện dòng chảy nghệ thuật phức tạp của đời
sống. Sau mỗi một kết thúc, người đọc có thể thấu thị được chân lý đời sống,
nhận thức được những quy luật đời sống, những dự cảm về tương lai và khẳng
định sự tất thắng của cái đẹp.
- Xuất phát từ đặc trưng của truyện ngắn: một thể tài tự sự cỡ nhỏ, "tập
trung miêu tả một mảnh cuộc sống, một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong
một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính
cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của đời sống xã hội" (Từ điển văn
học). Truyện ngắn có lối hành văn mang đầy ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều
15



sâu chưa nói hết. Để thể hiện nổi bật tư tưởng chủ đề tác phẩm, đòi hỏi nhà văn
viết truyện ngắn phải có trình độ điêu luyện khả năng dồn nén, sáng tạo chi tiết,
lời văn nghệ thuật. Trong đó, đoạn kết đóng vai trị có ý nghĩa quan trọng. "Sức
mạnh của cú đấm nghệ thuật là thuộc về đoạn cuối" (D. Phcmanơp). Ý nghĩa
tư tưởng tác phẩm có khi dồn vào đoạn kết của tác phẩm.
- Kết thúc được hiểu là cách đóng khép lại tác phẩm để hồn thiện ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Có nhiều cách kết thúc: kết thúc đóng (khép), kết thúc
mở... Có khi kết thúc là kết cục của truyện khép lại tác phẩm; có khi kết thúc
nêu kết cục của truyện nhưng lại mở ra những tầng nghĩa, những vấn đề hiện
thực đời sống rộng lớn khác; cũng có khi đoạn kết lại lộn trái những gì đã kể
trước đó, tạo sự bất ngờ, thú vị...
- Phần kết thúc truyện "hạ hồi phân giải", về ngun tắc khơng có cơng
thức duy nhất nào. Nhưng sau mỗi kết thúc nhà văn phải giúp cho người đọc
khám phá được những vấn đề mang tính bản chất, tính quy luật của đời sống, hé
mở những dự cảm về tương lai hay sự khẳng định các giá trị của cái Đẹp, giá trị
Chân - Thiện - Mỹ cao cả. Truyện ngắn hay thường tạo ra một kết thúc mở, có
một khoảng trống tự do ở cuối truyện. Những khoảng trống này làm tăng sức
hấp dẫn cho câu chuyện. Kết thúc mở còn gợi dư ba, sức ám ảnh sâu sắc trong
lòng người đọc. Độ mở này tạo quyền chủ động cho người đọc có thể "đồng
sáng tạo", đánh thức liên tưởng, tưởng tượng, gieo vào lòng người đọc một bài
học nhân sinh sâu sắc.
* Phân tích, chứng minh:
HS có thể chọn một số tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ văn 11
Nâng cao phân tích các kết thúc tác phẩm để làm nổi bật nhận định.
3. Bàn luận, mở rộng:
- Quá trình viết truyện ngắn là một q trình lao động sáng tạo cơng phu
đầy vất vả, gian nan của người nghệ sĩ. Một truyện ngắn hay cũng đồng thời
phải là một truyện ngắn có cách kết thúc hay, ấn tượng, sáng tạo. Từ đó, người
đọc có khả năng liên tưởng, khái quát, khám phá được những vấn đề lớn lao, sâu

sắc của hiện thực đời sống, con người, vượt ra khỏi khn khổ ít ỏi của truyện
ngắn.
16


- Điều này đặt ra yêu cầu đối với người nghệ sĩ sáng tác trong việc trau
dồi tài năng, phong cách nghệ thuật. Và người đọc cũng phải sống hết mình với
tác phẩm để hiểu được thơng điệp thẩm mỹ của tác giả gửi gắm ở phần kết qua
đó có thể sẻ chia, cảm thông, tri âm với tác giả.
Đề 7
Bàn về truyện ngắn, nhà văn W.Booth cho rằng: “Ở truyện ngắn, điều
quan trọng không chỉ là kể mà làm cho sự sống hiển hiện để người đọc tự cảm
thấy”. (Tu từ học tiểu thuyết, NXB Đại học Bắc Kinh, 1989, tr.3).
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên? Qua truyện ngắn Chí Phèo và Đời
thừa của nhà văn Nam Cao hãy làm sáng tỏ ý kiến.
Gợi ý
1. Giải thích:
- Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu chuyện kể bằng văn
xi, có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu chuyện dài như
tiểu thuyết. Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề
nhất định, thường rất hạn chế về nhân vật, thời gian, không gian cũng không trải
dài như tiểu thuyết.
- Ý kiến của W.Booth đề cập đến đặc trưng về mặt nội dung của truyện ngắn so
với các thể loại khác. Truyện ngắn tái hiện cuộc sống với những chi tiết giống
như thật, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Cuộc sống tự hiện lên
qua nội dung của truyện, người đọc tự cảm thấy được.
2. Bình luận:
- Nhà văn Anh Lawrence từng viết: “Nhà nghệ sĩ là một tay nói dối nhưng nghệ
thuật của hắn ta, nếu đúng là nghệ thuật, sẽ cho ta biết chân tướng của thời đại”.
Văn học là sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua lăng kính chủ quan của

người nghệ sĩ, mỗi thể loại văn học lại có cách phản ánh cuộc sống riêng theo
đặc trưng của nó.
- Truyện ngắn miêu tả cuộc sống hiện tại không ngừng biến đổi, sinh thành trên
cơ sở kinh nghiệm của cá nhân. Không giống như thơ, truyện ngắn miêu tả cuộc
sống giống như một thực tại cùng thời đang sinh thành một cách chi tiết như
thật. Nhưng cuộc sống đó khơng đơn giản chỉ là kể mà được hiển hiện thông qua
17


nhân vật, cốt truyện… của truyện ngắn. Nó khơng thiên về chất thơ, cái thi vị
mà hấp thu vào bản thân mình mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời, bao
gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường, cái nghiêm túc và cái buồn cười, bi và hài,
cái lớn lẫn cái nhỏ.
- Chất văn xuôi, cuộc sống hiển hiện trong truyện ngắn đã mở ra một vùng tiếp
xúc tối đa với thời hiện đại đang sinh thành làm cho truyện ngắn không bị giới
hạn vào trong nội dung phản ánh.
3. Chứng minh: Thí sinh phân tích hai truyện ngắn Chí Phèo và Đời thừa của
nhà văn Nam Cao để làm sáng tỏ vấn đề: Nam Cao không chỉ đơn giản là kể lại
mà thông qua hai tác phẩm, người đọc tự cảm nhận về hình ảnh cuộc sống của
người nơng dân nghèo và người trí thức nghèo trong xã hội Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám 1945.
4. Mở rộng vấn đề:
- Yêu cầu đặt ra với nhà văn: Sáng tác truyện ngắn không chỉ đơn thuần là kể lại
cho người đọc mà phải để cuộc sống tự hiển hiện qua nội dung tác phẩm, từ đó
người đọc tự cảm nhận thấy. Nhà văn phải không ngừng học hỏi, rèn rũa, trau
dồi vốn sống, sống sâu sắc với thế giới nội tâm của mình, lao động cơng phu, nỗ
lực không ngừng trong hoạt động sáng tạo.
- Yêu cầu với bạn đọc: Tiếp nhận tác phẩm phải phát hiện cách tạo tình huống
truyện, xây dựng hình tượng nhân vật, sắp xếp ngôn ngữ đầy dụng ý nghệ thuật
của nhà văn. Đồng thời cần tiếp nhận bằng toàn bộ thế giới tinh thần của mình

trên tinh thần đối thoại, đồng sáng tạo với nhà văn.
Đề 8
Trong bài viết đôi điều về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho
rằng: " Cuối cùng truyện ngắn cũng như tiểu thuyết, điều chính yếu là qua nhân
vật mà người viết đàm luận với người đọc về vai trò và số phận con người sống
giữa xã hội và cuộc đời".
( Bùi Việt Thắng - Truyện ngắn, những vấn đề lí
thuyết và thực tiễn thể loại)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua một số truyện ngắn trong
chương trình Ngữ văn lớp 11 hãy bình luận và làm sáng tỏ.
18


Gợi ý
1. Giải thích (1.5 điểm):
- Truyện ngắn: là thể loại tự sự cỡ nhỏ nhưng cũng giống như tiểu thuyết (
thể loại tự sự cỡ lớn), truyện ngắn có khả năng đề cập và khái quát những vấn đề
lớn của xã hội và nhân sinh. Rõ ràng thể loại truyện ngắn có dung lượng nhỏ
nhưng sức chứa lớn.
- Nhân vật: là hình tượng nghệ thuật được nhà văn xây dựng để phản ánh
hiện thực và bộc lộ tư tưởng.
- Người viết đàm luận với người đọc về vai trò và số phận con người sống
giữa xã hội và cuộc đời: qua hình tượng nghệ thuật, nhà văn thể hiện cái nhìn,
thái độ, gửi gắm tư tưởng, quan niệm, triết lí về con người và xã hội.
=> Nguyễn Minh Châu khẳng định nhân vật có vai trị quan trọng bậc
nhất trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng, quan điểm và tiếng nói đối thoại của
nhà văn, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn.
2. Bình luận (1.5 điểm )
- Xuất phát từ đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn có dung
lượng câu chữ giới hạn vì vậy đòi hỏi những yếu tố trong tác phẩm đầu phải có

giá trị, có sức khái quát và khả năng biểu hiện cao.
- Nhân vật là cốt tử của truyện ngắn. Nhân vật bao giờ cũng tập trung thể
hiện cái nhìn, tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Với truyện ngắn,
xây dựng nhân vật đặc sắc chính là điều thiết yếu đối với người nghệ sĩ. Nhân
vật là đối tượng để nhà văn phát biểu những suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng của
mình về các vấn đề trong xã hội, đặc biệt là những vấn đề liên quan trực tiếp đến
con người. Nhân vật cũng đồng thời thể hiện tiếng nói đối thoại của nhà văn,
nhà văn muốn trao đổi với người đọc về quan điểm, tư tưởng của mình chính là
qua nhân vật.
- Xuất phát từ đặc trưng của văn học, đối tượng phản ánh của văn học là
cuộc sống và con người.
3. Chứng minh (7.0 điểm):

19


- Học sinh có thể chọn lựa, phân tích một số nhân vật trong truyện ngắn đã
học trong chương trình Ngữ văn 11 để làm sáng tỏ vấn đề: Liên và An ( Hai đứa
trẻ - Thạch Lam), Chí Phèo ( Chí Phèo - Nam Cao), Hộ ( Đời thừa - Nam Cao),...
- Học sinh có thể triển khai theo nhiều hướng nhưng khơng phân tích chung
chung mà phải có định hướng bám sát các vấn đề được bàn luận.
- Sự cảm thụ, phân tích, bình luận của học sinh phải tinh tế, sâu sắc, thuyết
phục.
4. Đánh giá, mở rộng vấn đề (2.0 điểm):
- Là một nhà văn tài năng, có sở trường về truyện ngắn, từ thực tế lao
động sáng tạo của mình Nguyễn Minh Châu đã rút ra những kinh nghiệm sáng
tác quý báu: xây dựng nhân vật để gửi gắm tư tưởng của nhà văn. Ý kiến của
Nguyễn Minh Châu đã khái quát được đặc trưng cơ bản của thể loại truyện
ngắn.
- Từ đó đưa ra yêu cầu với người nghệ sĩ và người đọc. Người nghệ sĩ

phải thể hiện cái nhìn, thái độ, tư tưởng của mình về cuộc sống và con người
thơng qua nhân vật trong tác phẩm. Người đọc cũng cần đọc tác phẩm một cách
nghiêm túc, khám phá, suy ngẫm những vấn đề xã hội có ý nghĩa mà người nghệ
sĩ gửi gắm qua nhân vật. Tuy nhiên, mọi tư tưởng, nội dung của tác phẩm không
chỉ được gửi gắm qua nhân vật mà còn qua các yếu tố khác trong truyện ngắn
như tình huống, chi tiết, sự kiện,... Vì vậy, đọc truyện ngắn cũng cần phải chú ý
toàn diện các yếu tố hình thức để nắm bắt nội dung tác phẩm.

20


21



×