Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN lý của LÃNH đạo cấp PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.22 KB, 19 trang )

KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ
CỦA LÃNH ĐẠO CẤP PHÒNG
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ CỦA LÃNH
ĐẠO CẤP PHÒNG
1. Khái niệm, đặc điểm của Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng
1.1. Khái niệm Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng
Quyết định là kết quả của quá trình xác định và lựa chọn một phương án có
thể có để giải quyết một vấn đề hay thực hiện một cơng việc nào đó cần phải giải
quyết trong đời sống.1 Quyết định đóng vai trị quan trọng trong cuộc sống của con
người. Mọi hành vi của chúng ta đều được thực hiện dựa trên những quyết định
nhất định.
Ra quyết định là quá trình đi tới quyết định, tức là quá trình người ra quyết
định cân nhắc, xác định các vấn đề và phân tích, lựa chọn giải pháp để giải quyết
vấn đề đó.
Giống như trong tất cả các hoạt động khác, trong hoạt động quản lý nói
chung và hoạt động quản lý nhà nước nói riêng, các nhà quản lý cũng đều phải
thường xuyên ra các quyết định. Quyết định quản lý là cách thức nhà quản lý giải
quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lý, thực hiện nhiệm vụ quản lý
của mình.2 Đó chính là kết quả của q trình nhà quản lý nhận thức về vấn đề và
lựa chọn cách thức hành động mà họ cho là thích hợp nhất để giải quyết vấn đề
trong khi tiến hành các hoạt động quản lý.
Trong hoạt động quản lý ở khu vực công, đặc biệt là trong hoạt động quản lý
nhà nước, các chủ thể quản lý cũng phải thường xuyên ra các quyết định để thực
1

Xem Đặng Khắc Ánh (2008): Kỹ năng lập kế hoạch và ra quyết định, in trong Trần Thị Thanh Thủy (Chủ biên, 2008): Cẩm
nang quản lý: Kỹ năng quản lý hành chính nhà nước, NXB. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008, tr.7.
2
Xem Stoner, James A.F./Freeman, R. Edward/Gilbert, Daniel R. (1995): Management, Prince Hall Australia
Publising House., tr.239.



hiện hoạt động quản lý của mình. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những đặc tính
riêng có của mơi trường quản lý nhà nước (đối tượng quản lý rộng và đa dạng; chủ
thể quản lý cũng đa dạng; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các chủ thể quản
lý được quy định cụ thể trong pháp luật,...) nên việc ra các quyết định quản lý cũng
có những điểm khác biệt so với việc ra các quyết định trong môi trường bên ngồi
khu vực cơng.3
Như vậy có thể hiểu, Quyết định quản lý là sự thể hiện ý chí của các chủ thể
trong hoạt động quản lý xã hội, tiến hành theo một trình tự, thủ tục, được thể hiện
dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ thị…; nhằm tổ
chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo định
hướng nhất định.
Xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của lãnh đạo cấp phòng các Quyết
định quản lý của lãnh đạo cấp phòng thuộc loại Quyết định quản lý trong khu vực
cơng. Từ đó có thể hiểu: “Quyết định của lãnh đạo cấp phòng là sự thể hiện ý chí
của lãnh đạo cấp phịng trong hoạt động quản lý, tiến hành theo một trình tự, thủ
tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định nhằm tổ chức và thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật”.
1.2. Đặc điểm của Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng
Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phịng có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của
quyết định quản lý: Do chủ thể quan lý ban hành để giải quyết các vấn đề trong phạm vi
quản lý; Phản ảnh ý chí chủ quan của chủ thể quản lý; Nhằm để tác động lên đối tượng
quản lý. Bên cạnh các đặc điểm chung, xuất phát từ những đặc điểm của chủ thể ban
hành và đối tượng tác động Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phịng là loại quyết
định quản lý nhà nước có những đặc điểm riêng. Đó là:
- Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng được ban hành dựa trên các
3

Xem thêm: Đặng Khắc Ánh (2008), Sđd, tr.28; Học viện Hành chính (2018): Tài liệu bồi dưỡng chương trình
Chun viên chính., T1: Kiến thức chung, NXB. Bách khoa Hà Nội, tr.86-88.



quy định của pháp luật. Hoạt động quản lý nhà nước của lãnh đạo cấp phòng là
quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật, do đó các quyết định quản lý lãnh đạo
cấp phòng đưa ra phải phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.
- Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng được thể hiện ý chí của lãnh
đạo cấp phịng thể hiện dưới nhũng hình thức, tên gọi khác nhau.
- Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng nếu là văn bản thì khơng phải
là văn bản quy phạm pháp luật. Xuất phát từ vị trí của lãnh đạo cấp phịng theo quy
định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, lãnh đạo cấp phịng
khơng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Hình thức thể hiện của Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng
Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng được thể hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau. Theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn của mình lãnh đạo cấp phịng ra quyết định thể hiện ý chí của mình ra
bên ngồi thơng qua các hình thức khác nhau:
- Quyết định bằng văn bản: đối với các vấn đề có tính quan trọng quyết định
của lãnh đạo cấp phòng thường được thể hiện dưới hình thức văn bản, với những
tên gọi khác nhau: kết luận, quyết định, kế hoạch…. Hình thức này đảm bảo tính
pháp lý cao hơn, chặt chẽ hơ so với các hình thức khác.
- Quyết định bằng lời nói: trong điều hành hoạt động của phòng, lãnh đạo
cấp phòng thường xuyên phải ra các quyết định bằng miệng để đảm bảo tính kịp
thời, thơng suốt. Ví dụ: trong phân cơng cơng việc hàng ngày cho cơng chức,
người lao dộng thuộc mình quản lý; yêu cầu cấp dưới thực hiện những công việc
nhất định để thực hiện nhiệm vụ của phòng.
- Quyết định được bằng những cử chỉ, tín hiệu: Trong thực hiện chức năng,
nhiệm vụ có lúc, có khi lãnh đạo cấp phòng phải ra mệnh lệnh (quyết định) bằng
cử chỉ, hành vi để điều hành cơng việc. Hình thức quyết định này thường xảy ra
trong các cuộc họp, hội nghị khi có việc cần thiết cần chỉ đạo cấp dưới. Ví dụ: vẫy



tay, lắc đầu, đưa mắt nhìn…
3. Vai trị của Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng
Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phịng có vai trị quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nước. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng là phương tiện pháp lý
chủ yếu nhất để lãnh đạo cấp phòng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Quyết định quản lý là mệnh lệnh điều hành của chủ thể quản lý, mang ý chí của
chủ thể tác động lên đối tượng quản lý để buộc đối tượng vận động theo ý chí của
nhà quản lý. Thông qua các quyết định quản lý, lãnh đạo cấp phịng thể hiện ý chí
của mình, định hướng giải quyết các vấn đề, tác động đến đối tượng quản lý để đạt
được mục tiêu đặt ra.
Thứ hai, quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phịng có vai trị ảnh hưởng đến
mọi hoạt động của ngành, của địa phương.
Trong bộ máy quản lý Nhà nước, phòng là tổ chức chuyên môn, kỹ thuật,
nghiệp vụ của một cơ quan, đơn vị. Chức năng chung của cấp phòng là chuyển tải
và tổ chức thực hiện các quyết định của cấp trên trực tiếp và phản ánh những yêu
cầu, nguyện vọng, đề xuất của công chức đơn vị với lãnh đạo cấp trên. Trong quan
hệ với các chủ trương chính sách của Nhà nước, phịng là một cấp có chức năng:
(1) Tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo; và (2) Chỉ đạo triển khai thực hiện chủ
trương, chính sách, các quyết định quản lý của cấp trên. Vì vậy, nội dung cơng việc
của phịng thường liên quan đến các lĩnh vực có tính chun mơn, kỹ thuật và
nghiệp vụ. Lãnh đạo cấp phòng là người điều hành hoạt động của phòng. Về bản
chất, lãnh đạo cấp phịng là người dẫn đầu nhóm làm việc, với tính chất cơng việc
là quản lý để thực hiện mục tiêu do cấp trên giao.
Xuất phát từ vị trí như vậy Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phịng khơng
chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của phòng mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả mọi hoạt
động của cơ quan, của ngành, của địa phương ở tất cả khâu từ hoạch định đường



lối, chính sách đến tổ chức thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Do vậy, một quyết định đúng sẽ mang lại hiệu quả cao, đảm bảo ổn định
chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; ngược lại một quyết định sai lầm có
khi gây ra tổn thất thiệt hại rất lớn về chính trị, kinh tế - xã hội.
Thứ ba, quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phòng là cơ sở đánh giá hiệu
lực và hiệu quả của lãnh đạo cấp phòng. Quyết định quản lý là sản phẩm trí tuệ của
người quản lý. Khả năng ra các quyết định quản lý hiệu quả có tính quyết định về
hiệu quả làm việc của người quản lý, đặc biệt là những người quản lý nắm giữ
những công việc quan trọng. Thông qua hiệu quả Quyết định quản lý mà người
lãnh đạo cấp phòng ban hành đánh giá được năng lực, hiệu quả làm việc lãnh đạo
cấp phòng. Do vậy đánh giá hiệu lực và hiệu quả làm việc của một lãnh đạo cấp
phịng là xem người đó ra quyết định đúng đến mức nào và tổ chức thực hiện như
thế nào. Một người lãnh đạo giỏi là biết ra quyết định kịp thời và tổ chức thực hiện
quyết định hiệu quả.
II. KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ CỦA LÃNH ĐẠO CẤP PHÒNG
Việc ra Quyết định quản lý của lãnh đạo cấp phịng được thực hiện theo một
quy trình thống nhất giống như quy ban hành quyết định quản lý nói chung, gồm 5
giai đoạn chủ yếu (Quy trình này áp dụng đối với hình thức ra quyết định bằng văn
bản). Quy trình đó được mơ phỏng qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Các giai đoạn ban hành quyết định quản lý
XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN
TÍCH VẤN ĐỀ CẦN RA
QUYẾT ĐỊNH

TỔ CHỨC THỰC HIỆN
QUYẾT ĐỊNH

XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU CỦA
QUYẾT ĐỊNH


THÔNG QUA QUYẾT
ĐỊNH

XÂY DỰNG CÁC PHƯƠNG
ÁN VÀ LỰA CHỌN
PHƯƠNG ÁN TỐI ƯU


1. Giai đoạn xác định và phân tích vấn đề cần ra quyết định
Giai đoạn xác định và phân tích vấn đề cần ra quyết định bao gồm: nhận
diện các vấn đề; lựa chọn vấn đề giải quyết; thu thập thông tin về vấn đề; xác định
mục tiêu của quyết định phù hợp với nguyên nhân của vấn đề.
Vấn đề luôn phát sinh trong cuộc sống do xã hội luôn vận động, biến đổi và
phát triển khơng ngừng. Theo đó nhu cầu của con người và xã hội cũng liên tục
thay đổi, phát triển và rất đa dạng, phức tạp địi hỏi hoạt động quản lý thường
xun có sự điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp. Điều này đòi hỏi lãnh đạo cấp phịng
nói riêng, nhà quản lý nói chung phải thường xuyên nắm bắt vấn đề, yêu cầu đòi
hỏi của xã hội để ra quyết định quản lý kịp thời. Khi nhận diện các vấn đề cần chú
ý phân tích làm rõ:
- Mức độ ảnh hưởng của vấn đề: vấn đề nảy sinh có tầm ảnh hưởng rộng
lớn và lâu dài tới hoạt động của tổ chức (vấn đề chiến lược) hay chỉ ảnh hưởng tới
từng bộ phận của tổ chức, trong một khoảng không gian và thời gian nhất đinh
(vấn đê không chiến lược);
- Mức độ quan trọng của vấn đề: vấn đề quan trọng (có ảnh hưởng lớn, nghiêm
trọng tới sự tồn tại và phát triển của tổ chức) hay không quan trọng. Tầm quan trọng
của một vấn đề cần phải được xem xét từ quan điểm, vị trí của người đánh giá vấn đề,
có nghĩa là cùng một vấn đề, có thể người này ở vị trí này đánh giá là quan trọng nhưng
người khác, ở vị trí khác lại đánh giá là khơng quan trọng;
- Mức độ khẩn cấp của vấn đề: đây là vấn đề cần giải quyết ngay (vấn đề
khẩn cấp) hay vấn đề có ảnh hưởng tới tổ chức nhưng chưa cần thiết phải giải

quyết ngay (chưa khẩn cấp);
- Tần xuất xuất hiện của vấn đề: đây là vấn đề xuất hiện thường xuyên hay


vấn đề bất thường.
Xác định vấn đề cần giải quyết và nguyên nhân phát sinh ra vấn đề giữ vai
trò quan trọng trong quá trình ra quyết định. Trong thực tiễn hoạt động quản lý, nhà
quản lý luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau cùng một lúc và khơng phải
lúc nào cũng có đủ năng lực và các nguồn lực cần thiết (nhân lực, vật lực, thời
gian, phương pháp,…) để giải quyết tất cả các vấn đề nảy sinh. Chính vì vậy,
người lãnh đạo, quản lý phải lựa chọn vấn đề, sắp xếp ưu tiên thứ tự giải quyết.
Việc xác định mức độ ưu tiên của vấn đề cần giải quyết đối với người lãnh
đạo, quản lý được thực hiện theo thứ tự:
+ Vấn đề có liên quan tới sự tồn tại của tổ chức;
+ Vấn đề đòi hỏi sự khẩn cấp về thời gian;
+ Vấn đề có thể tạo nên sự bất ổn trong tổ chức;
+ Vấn đề mà kết quả của việc giải quyết sẽ làm tiền đề cho việc giải quyết
các vấn đề khác.
Sau khi đã lựa chọn được vấn đề cần ưu tiên giải quyết, chủ thể quản lý tập trung
nhận diện đúng bản chất vấn đề và xác định nguyên nhân dẫn tới vấn đề đó.
Việc xác định chính xác ngun nhân sẽ là cơ sở để các nhà quản lý đề xuất
các giải pháp xử lý vấn đề. Nhận định sai vấn đề hay xác định nguyên nhân của
vấn đề không chuẩn xác sẽ làm cho các quyết định được ban hành để giải quyết vấn
đề không đi đúng hướng. Một vấn đề, nhất là những vấn đề kinh tế - xã hội lớn mà
các nhà hoạch định chính sách cần quan tâm giải quyết, thường xuất hiện do nhiều
nguyên nhân khác nhau và do đó cần làm rõ vai trị của từng nguyên nhân để khi ra
quyết định có sự phối hợp nhiều giải pháp để giải quyết. Nhận định sai vấn đề hay
xác định nguyên nhân của vấn đề không chuẩn xác sẽ làm cho các quyết định được
ban hành để giải quyết vấn đề không đi đúng hướng.
Để xác định đúng bản chất của vấn đề, khi phân tích đánh giá cần tránh nhìn

nhận vấn đề một chiều chỉ dựa theo ý muốn chủ quan của mình. Cần xem xét, hình


dung vấn đề theo nhiều cách, từ những góc nhìn khác nhau; phân tích những vấn
đề phức tạp thành nhiều hợp phần; tìm mối quan hệ giữa những sự việc khác nhau
cũng như những điểm giống nhau từ những sự việc khác nhau. Chỉ khi xác định
vấn đề trên cơ sở khách quan, tồn diện lãnh đạo cấp phịng mới có thể sáng suốt
nhận ra những giả định phù hợp, sát thực từ đó mới có thể tìm ra cách giải quyết
sáng tạo, hữu hiệu.
Để đánh giá đúng các vấn đề cần phải có một hệ thống thơng tin đầy đủ,
khoa học. Nguồn thông tin mà người lãnh đạo, quản lý sử dụng để phục vụ cho quá
trình ra quyết định phải đảm bảo: chính xác, đầy đủ, kịp thời và phù hợp. Trong
q trình thu thập, xử lý thơng tin cần lưu ý:
+ Xây dựng một hệ thống xử lý thông tin tin cậy phục vụ cho hoạt động
quản lý;
+ Kiểm tra tính chính xác và khách quan của các nguồn thông tin liên quan
tới vấn đề; tránh những định kiến có sẵn;
+ Lựa chọn đúng các thơng tin cần thiết phục vụ việc ra quyết định.
Chất lượng của thơng tin mà những người lãnh đạo, quản lý có được để phục
vụ cho quá trình ra quyết định phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: chất
lượng của nguồn tin; chất lượng của người, phương pháp và phương tiện thu thập
thông tin; chất lượng của người, phương pháp và phương tiện xử lý thông tin; chất
lượng của người, phương pháp và phương tiện truyền phát thông tin cũng như chất
lương của hoạt động lưu trữ thông tin.
Về cơ bản, các thơng tin có thể chia thành 2 nhóm chủ yếu là các thông tin
thứ cấp và thông tin sơ cấp.
- Thông tin thứ cấp là những thông tin đã được người khác tìm kiếm ra và
cơng bố, người thu thập chỉ cần tiếp cận được nguồn và sao chép lại thơng tin đó
để phục vụ cho mục đích của mình. Các nguồn thơng tin thứ cấp phục vụ cho việc
ra quyết định quản lý trong hệ thống chính trị nói chung và cấp phịng nói riêng



thường bao gồm:
+ Các quy định của Đảng và Nhà nước có liên quan tới vấn đề;
+ Các báo cáo chung và báo cáo chuyên ngành. Hệ thống báo cáo này
thường được thực hiện thường xuyên, định kỳ hoặc theo yêu cầu của công việc.
Khi tiếp cận và sử dụng các báo cáo cần lưu ý bảo mật những thông tin cần phải
giữ bí mật theo quy định của pháp luật.
+ Các số liệu thống kê; các báo cáo chuyên ngành thường cũng chứa đựng
các số liệu thống kê về khách thể nghiên cứu. Ngoài ra, số liệu thống kê cịn có thể
thu thập được từ niên giám thống kê và số liệu thống kê chuyên ngành.
+ Các bài viết, thơng tin trên các sách, báo, tạp chí và các phương tiện
truyền thông đại chúng.
- Thông tin sơ cấp là những thơng tin mà người nghiên cứu phải tự mình tìm
kiếm, phát hiện và phân tích ra. Các nguồn tin sơ cấp bao gồm các thông tin mà
người nghiên cứu tự mình tìm kiếm ra bằng các hoạt động điều tra khảo sát như:
phỏng vấn, quan sát, kiểm tra,...
2. Xác định mục tiêu của quyết định
Mỗi quyết định quản lý đều phải đạt được một mục tiêu nhất định nào đó,
hướng tới giải quyết một nguyên nhân nào đó của vấn đề cần giải quyết. Vì vậy,
sau khi xác định được các nguyên nhân dẫn tới vấn đề cần xác định các mục tiêu
cần đạt của quyết định. Mục tiêu của quyết định phản ánh mức độ mong muốn của
người quản lý trong việc giải quyết vấn đề mà họ phải đối mặt, là việc dự báo kết
quả khi thực hiện quyết định của người quản lý.
Xác định mục tiêu trong các quyết định là một công việc hệ trọng. Thơng
thường, cơ quan hay cá nhân nào có quyền ra quyết định thì cơ quan hay cá nhân
đó có quyền xác định mục tiêu cho các quyết định. Trong những quyết định quan
trọng và phức tạp, vấn đề xác định mục tiêu là một vấn đề lớn cần có nhiều người
tham gia hoạch định, thẩm định và phê chuẩn. Trong những trường hợp như vậy



cần có phân cơng, phân cấp khoa học giải quyết từng cơng đoạn trong q trình
xác định mục tiêu.
Một mục tiêu tốt phải là mục tiêu cụ thể, có tính định lượng (có thể đo lường
được), phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, khả thi để thực hiện và xác định chính
xác thời gian cần thiết để thực hiện.
3. Xác định các phương án có thể giải quyết vấn đề và lựa chọn phương
án tối ưu
Sau khi xác định mục tiêu, trên cơ sở nguyên nhân của vấn đề đã được xác
định, xây dựng các phương án giải quyết vấn đề. Quá trình xây dựng các phương
án để giải quyết vấn đề phải dựa trên kết quả thu thập các thông tin về vấn đề cần
giải quyết. Cần cố gắng tư duy phân tích, đặt ra nhiều giả định từ đó có thể xây
dựng nhiều phương án khác nhau trong khuôn khổ những nguồn lực (nhân lực và
vật lực) cho phép. Đây là cơ sở để nhà quản lý, các chủ thể tham gia q trình ra
quyết định phân tích làm rõ ưu điểm, hạn chế của từng giải pháp và đi đến lựa chọn
giải pháp thích hợp nhất cho vấn đề cần giải quyết. Nếu nhà quản lý chỉ đưa ra
được một phương án duy nhất để giải quyết vấn đề, xu hướng chung là các chủ thể
tham gia sẽ chấp nhận ngay phương án đó hoặc huỷ bỏ nó mà khơng thể có đối
chứng so sánh.
Từ những phương án đã được xây dựng, tiến hành so sánh những thơng tin,
biện pháp xử lý, hiệu quả, mong đợi, tính nhạy cảm… để xem xét kết quả của các
phương án thể hiện như thế nào. Dự tính các xác suất, rủi ro có thể xảy ra…, tiến
hành lập danh sách để so sánh những thuận lợi, khó khăn của từng phương án. Để
đánh giá đúng các phương án đã xây dựng và lựa chọn đúng phương án tối ưu nhất
tại thời điểm ra quyết định cần xây dựng một hệ thống tiêu chí đánh giá cụ thể. Các
tiêu chí này có thể lập ra bằng cách trả lời các câu hỏi cụ thể như: Liệu phương án
nêu ra có khả thi khơng? Có đủ các nguồn lực để thực hiện phương án đó hay
khơng? Phương án này có phù hợp với mục tiêu của quyết định không?...



Ở bước này lãnh đạo cấp phòng cần lưu ý:
Thứ nhất, trong tham mưu ra các quyết định quản lý quan trọng thường do một
cơ quan chủ trì và phối hợp hoạt động với các cơ quan, đơn vị có liên quan. Cơ quan
chủ trì có trách nhiệm phối hợp hoạt động, lấy ý kiến và xử lý các thông tin phản hồi từ
phía các cơ quan phối hợp và từ phía những đối tượng có liên quan khác. Việc lấy ý
kiến đóng góp dự thảo văn bản được thực hiện qua hình thức:
+ Tổ chức hội nghị (cuộc họp) đóng góp ý kiến cho dự thảo văn bản;
+ Gửi Cơng văn u cầu tham gia đóng góp ý kiến dự thảo văn bản (các cơ
quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu đóng góp ý kiến phải có trách nhiệm trả lời
bằng văn bản);
Sau khi lấy ý kiến, chủ thể được giao chủ trì làm bản tổng hợp ý kiến đóng
góp và nghiên cứu để chỉnh lý bản dự thảo theo ý kiến nhận được.
Thứ hai, với quyết định được ban hành dưới dạng văn bản, sau khi đã lựa chọn
được phương án tối ưu sẽ tiến hành soạn thảo quyết định. Với các quyết định quản lý
nhà nước quan trọng, có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác
nhau, theo quy định, cần phải thành lập một ban soạn thảo để thực hiện nhiệm vụ
ngay từ giai đoạn nghiên cứu vấn đề và xây dựng các phương án giải quyết vấn đề.
Bộ phận soạn thảo thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
+ Thu thập thông tin
+ Xây dựng đề cương dự thảo quyết định.
+ Viết dự thảo và tờ trình dự thảo quyết định (đối với quyết định quy phạm).
+ Đánh giá tác động văn bản trong trường hợp dự thảo quyết định có quy
định cụ thể các chính sách đã được quy định trong văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên; đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong trường hợp được luật giao,
đánh giá tác động về giới (nếu có);
4. Thơng qua quyết định
Quyết định muốn có hiệu lực phải được thơng qua theo đúng trình tự, thủ tục


pháp luật quy đinh. Tùy theo tính chất của từng quyết định mà có thể có những

cách thức thơng qua quyết định khác nhau, cụ thể:
+ Quyết định được thông qua bằng hình thức biểu quyết theo đa số: Đây
là những quyết định theo quy định lãnh đạo cấp phòng cần lấy ý kiến của tập
thể. Các quyết định này được thơng qua bằng hình thức biểu quyết và chỉ được
thông qua khi đa số đồng ý. Trong những trường hợp nhất định theo quy định
cụ thể, có thể số phiếu đồng ý phải là đạt một tỷ lệ cao hơn quá bán (chẳng hạn
theo quy định về bỏ phiếu thi đua khen thưởng). Khi tiến hành, thường cần
phải tổ chức cuộc họp để thông qua quyết định, trừ những trường hợp đặc biệt
có thể lấy ý kiến bằng phiếu. Những cuộc họp thông qua quyết định như vậy là
một trong những hình thức pháp lý của hoạt động hành chính nhà nước.
+ Quyết định thơng qua theo cơ chế thủ trưởng: Với loại quyết định này, trưởng
phòng hay người được uỷ quyền theo quy định của pháp luật tự mình quyết định và
chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định của mình. Những quyết định loại này thể hiện
rõ nét năng lực, sự quyết đoán của người lãnh đạo cấp phòng.
Các quyết định của lãnh đạo cấp phòng thường được thông qua theo cơ chế
thủ trưởng. Trong nhiều trường hợp, với những quyết định có tính chun mơn sâu
hoặc quyết định những vấn đề lớn, quan trọng, người lãnh đạo, quản lý cũng có thể
tiến hành thảo luận (họp), hoặc tư vấn với các chuyên gia trong lĩnh vực chun mơn
nhưng những cuộc họp này khơng mang tính pháp lý. Quyết định cuối cùng và trách
nhiệm cuối cùng vẫn thuộc về người có thẩm quyền.
Muốn có một quyết định tốt, người lãnh đạo phải tự mình tìm hiểu, nghiên cứu về
vấn đề, biết lắng nghe ý kiến của cấp dưới nhưng phải có chính kiến của mình.
Đối với quyết định bằng hình thức văn bản, khi thơng qua quyết định cần lưu
ý tới thể thức của văn bản và những nguyên tắc của công tác văn thư lưu trữ. Thể
thức cụ thể từng loại văn bản được quy định cụ thể theo hướng dẫn về thể thức văn
bản và các quy định pháp luật có liên quan.


5. Tổ chức thực hiện quyết định
Tổ chức thực hiện quyết định là giai đoạn cuối cùng nằm trong quy trình ra

quyết định. Quyết định chỉ thực sự có hiệu lực và đi vào cuộc sống khi được tổ
chức thực hiện. Việc triển khai thực hiện các quyết định quản lý cũng rất đa dạng,
phụ thuộc vào nội dung và tính chất của các quyết định. Có những quyết định lớn,
quan trọng, cần tổ chức thực hiện một cách bài bản nhưng cũng có những quyết
định cá biệt được triển khai thực hiện một cách đơn giản.
Quy trình triển khai thực hiện các quyết định lớn, quan trọng được thực hiện
qua các bước cơ bản thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Quy trình tổ chức thực hiện quyết định
TRUYỀN ĐẠT
QUYẾT ĐỊNH

LẬP KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
QUYẾT ĐỊNH

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN KẾ HOẠCH VÀ
ĐIỀU CHỈNH QUYẾT ĐỊNH

5.1. Truyền đạt quyết định
Việc thực hiện quyết định bắt đầu bằng việc triển khai quyết định tới đối
tượng chịu tác động của quyết định và cơ quan thực thi quyết định. Thông thường,
đối tượng nhận văn bản được xác định cụ thể ngay trong phần “Nơi nhận” trong
các quyết định. Do vậy, chủ thể quản lý phải nhanh chóng triển khai truyền đạt
quyết định tới đối tương chịu tác động của quyết định.


Việc truyền đạt quyết định có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau tùy thuộc vào tính chất và nội dung của quyết định. Với các quyết định chung
(quyết định chính sách hay quyết định quy phạm) có thể sử dụng công báo hoặc
các phương tiện thông tin đại chúng để truyền đạt quyết định tới nhiều đối tượng
một lúc. Các quyết định cá biệt thường được chuyển trực tiếp cho đối tượng hoặc

thông qua bưu điện hay các phương tiện truyền thông khác (như mạng Internet).
5.2. Lập kế hoạch thực hiện quyết định
Sau khi nhận được quyết định, các cơ quan hay cá nhân thực thi phải nhanh
chóng lên kế hoạch thực hiện và tổ chức các lực lượng để thực hiện quyết định.
Nội dung kế hoạch cần thể hiện rõ:
- Xác định rõ những mục tiêu cần đạt được;
- Bố trí các hoạt động chi tiết;
- Những nguồn lực cần thiết để thực hiện quyết định. Đây là một trong
những yếu tố quan trọng để quyết định có thể đi vào áp dụng trong thực tiễn.
- Xác định các bên có liên quan và xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan này.
5.3. Triển khai thực hiện kế hoạch
Tổ chức thực hiện các kế hoạch thực hiện quyết định có vai trị quan
trọng, biến các ý tưởng của chủ thể ra quyết định thành hành động cụ thể để tác
động lên đối tượng quản lý nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn. Trong tổ chức
thực hiện cần bố trí, tổ chức lực lượng cán bộ phù hợp để thực hiện quyết định,
đồng thời bảo đảm những phương tiện cần thiết về vật chất, về tài chính cho việc
thực hiện quyết định.
Tuỳ thuộc vào từng loại quyết định quản lý, có thể lựa các biện pháp chọn để
thực hiện quyết định như:
- Quyết định được tổ chức thực hiện ngay đối với toàn bộ phạm vi đối
tượng, lĩnh vực cần điều chỉnh, tác động.


- Quyết định được thực hiện thí điểm, sau đó sơ kết, tổng kết để rút kinh
nghiệm rồi mới ra quyết định chính thức để triển khai rộng rãi.
- Quyết định được triển khai thực hiện rộng, nhưng cần có sự chỉ đạo để
nhanh chóng rút kinh nghiệm và chỉ đạo thực hiện tiếp tục.
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện cần thường xuyên kiểm tra việc
thực hiện quyết định nhằm bảo đảm cho sự thành công và hiệu quả của quyết

định. Kiểm tra có nhiệm vụ nắm tình hình và kết quả một cách có hệ thống, có kế
hoạch việc thực hiện quyết định. Trong kiểm tra phải chú ý tới cả hai mặt của việc
thực hiện quyết định. Thứ nhất là để tìm ra nguyên nhân của việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng quyết định. Thứ hai, tìm ra những ưu điểm, đúc kết bài
học kinh nghiệm từ thành công trong việc thực hiện quyết định. Từ đó, cán bộ có
định hướng tiếp theo cho hoạt động ban hành quyết định quản lý.
Muốn việc kiểm soát được thực hiện hiệu quả, cần phải xây dựng được một
hệ thống các tiêu chí đánh giá cơng việc cụ thể và đầy đủ. Việc kiểm tra của lãnh
đạo cấp phòng phải được tiến hành ngay sau khi ban hành quyết định và trong suốt
thời gian thực hiện quyết định.
Các hình thức kiểm tra có thể áp dụng:
- Kiểm tra thường xuyên và toàn diện trong suốt quá trình diễn biến thực
hiện quyết định
- Kiểm tra đột xuất có trọng điểm, nhằm vào một số khâu nhất định
- Kiểm tra tổng kết việc thựuc hiện quyết định
- Qua công tác kiểm tra, căn cứ vào kết quả kiểm tra, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền phải xử lý kết quả kiểm tra.
- Đôn đốc việc thực hiện, bổ sung quyết định cần thiết
- Khen thưởng người tốt, việc tốt
- Xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân sai phạm
- Sơ kết, tổng kết


Việc kiểm soát cho phép xác định mức độ thực hiện mục tiêu của quyết định
trong thực tiễn và những vướng mắc xuất hiện trong quá trình thực hiện quyết
định. Khi có những vấn đề phát sinh trong q trình thực hiện, có thể cần phải tiến
hành điều chỉnh.
Việc điều chỉnh đối với quyết định có thể thực hiện trên các nội dung: điều chỉnh
thời gian, tiến độ thực hiện quyết định; điều chỉnh nguồn lực thực hiện quyết định; điều
chỉnh chủ thể thực hiện quyết định; điều chỉnh mục tiêu của quyết định;... và thậm chí

trong trường hợp cần thiết có thể phải hủy bỏ quyết định.
Sau khi tiến hành thực hiện quyết định, cần tiến hành đánh giá tổng kết hiệu
quả của quyết định. Đây là việc làm cần thiết để rút ra các bài học kinh nghiệm cho
việc ban hành các quyết định khác trong tương lai. Tuy nhiên, muốn có những bài
học kinh nghiệm tốt, việc đánh giá phải tiến hành khách quan, nghiêm túc, trung thực.
III. CÁCH THỨC RÈN LUYỆN VÀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG RA
QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ CỦA LÃNH ĐẠO CẤP PHÒNG
Để ra được những quyết định đúng đắn, khách quan, đem lại hiệu quả cao
trong thực hiện nhiệm vụ, người lãnh đạo, quản lý nhà nước trong đó có người lãnh
đạo cấp phòng phải thường xuyên rèn luyện, học tập, phấn đấu. Trong đó, cần chú
ý một số vấn đề sau:
1. Nâng cao trình độ chun mơn, kỹ năng, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ của lãnh đạo cấp phịng
Để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ,
lãnh đạo cấp phòng phải thường xuyên học tập bằng nhiều hình thức, cách thức:
- Tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt các chương trình
bồi dưỡng kiến thức nhà nước, pháp luật, quản lý nhà nước; tập huấn nghiệp vụ về
ban hành văn bản.
- Cập nhật thường xuyên, đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước,
cơ quan nhà nước cấp trên. Đồng thời, nghiên cứu nắm vững nội dung các văn bản


đã cập nhật đảm bảo tính hệ thống kiến thức pháp luật.
- Học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp nhất là những người có chun mơn,
kiến thức trong lĩnh vực ra quyết định quản lý.
2. Nâng cao kiến thức thực tiễn phục vụ cơng tác ra quyết định
Trong q trình ra quyết định quản lý đòi hỏi người lãnh đạo cấp phịng
khơng chỉ có kiến thức chun mơn, nghiệp vụ mà cịn phải có kiến thức thực tiễn
phong phú. Để đạt được điều này, cần chú ý:
- Cần sâu sát với thực tế; nắm bắt nhanh nhạy, sắc bén những vấn đề nảy

sinh. Các vấn đề cần ra quyết định thường xuất hiện khách quan, không phụ thuộc
vào mong muốn của con người nhưng lại có ảnh hưởng trực tiếp tới nội dung của
quyết định. Việc xác định chính xác vấn đề cần quyết định có ảnh hưởng lớn tới
nội dung, tính khả thi của quyết định và thậm chí có thể ảnh hưởng trực tiếp tới
tính hợp pháp của quyết định.
- Nghiên cứu kỹ vấn đề cần ra quyết định. Trong đó cần hình thành tư duy
phân tích loogic, chặt chẽ để từ đó có thể nhận biết vấn đề nảy sinh, các yếu tố tác
động đến việc ra quyết định. Do vậy, lãnh đạo cấp phòng cần:
+ Cập nhật thường xuyên, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng về các
lĩnh vực thuộc mình quản lý. Đây là yếu thuộc mơi trường chính trị hết sức quan
trọng, chi phối đến nội dung quyết định.
+ Tìm hiểu sâu về văn hóa – xã hội, truyền thống, đạo đức, phong tục tập
quán của địa phương thuộc địa bàn quản lý.
+ Nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm đối tượng chịu sự tác động của quyết định
quản lý; hiểu tâm tư, nguyện vọng của đối tượng.
- Chuẩn bị các nguồn lực cần thiết. Quyết định chỉ khả thi khi được bảo đảm đầy đủ
các nguồn lực cho quá trình ban hành và tổ chức thực hiện. Các nguồn lực bao gồm nhân
lực; nguồn lực tài chính; trang, thiết bị kỹ thuật, giải pháp cơng nghệ,...
Lưu ý có những nguồn lực có thể chưa cần thiết ngay trong quá trình ra


quyết định mà chỉ được sử dụng khi triển khai thực hiện quyết định, do đó chủ thể
ra quyết cần phải có khả năng dự báo chính xác các nguồn lực có thể có để thực
hiện quyết định ngay trong quá trình ra quyết định.
3. Xây dựng tinh thần trách nhiệm cao trong công việc
Một quyết định chỉ thật sự có hiệu quả khi nó là sản phẩm của tinh thần làm việc
trách nhiệm, công tâm, khách quan của chủ thể trong suốt cả quá trình ban hành và tổ
chức thực hiện quyết định. Để đạt được điều này, lãnh đạo cấp phịng cần:
- Xác định đứng vị trí vai trị lãnh đạo quản lý của bản thân;
- Tích cực, tự giác trong học tập phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh;

- Xây dựng kế hoạch làm việc khoa học;
- Nghiêm túc với chính bản thân trong thực thi cơng vụ;
- Tập hợp, xây dựng tập thể đoàn kết, thống nhất; huy động được trí tuệ tập
thể tham gia thực hiện nhiệm vụ.
CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Câu hỏi thảo luận
a) Phân tích vai trị của việc ra Quyết định quản lý đối với thực tiễn hoạt
động của đồng chí?
b) Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định quản lý của
lãnh đạo cấp phòng và chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố đó?
2. Bài tập thực hành
Từ thực tiễn hoạt động của cơ quan đồng chí hãy đề xuất một vấn đề cần ra
quyết định và xác định rõ mục tiêu, đề ra các phương án và lựa chọn phương án để
ra quyết định giải quyết vấn đề phát sinh?

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nội vụ. Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính, 2013.


2. Cẩm nang kinh doanh - Kỹ năng ra quyết định. NXB Tổng hợp, TP. Hồ
Chí Minh, 2006.
3. Cẩm nang quản lý hiệu quả - Kỹ năng ra quyết định. NXB Tổng hợp, TP.
Hồ Chí Minh, 2005.
4. Cẩm nang quản lý hiệu quả - Lãnh đạo hiệu quả. NXB Tổng hợp, TP. Hồ
Chí Minh, 2005.
5. Cẩm nang quản lý hiệu quả - Nhà quản lý xuất sắc. NXB Tổng hợp, TP. Hồ
Chí Minh, 2005. 6. Trần Thị Thanh Thủy (Chủ biên). Cẩm nang quản lý: Kỹ năng
quản lý hành chính nhà nước. NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008.
6. PGS.TS Trần Ngọc Giao (chủ biên), Quản lý trường phổ thơng, Học viện
Quản lý giáo dục, 2013.

7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh , Khoa học quản lý 2005.
8. Harold Koontz, Cyril Odonnell, Heinz Weihrich (1994), Những vấn đề cốt
yếu về quản lý, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
9. Trần Kiểm (2011) Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo dục,
Nxb ĐHSPHN.



×