Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Pháp luật về sáp nhập công ty cổ phần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 68 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THÙY LINH

PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP CƠNG TY CỔ
PHẦN Ở VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS NGUYỄN ĐĂNG DUY

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
thông tin và số liệu mà tác giả sử dụng trong khoá luận là trung thực. Các
luận điểm, dữ liệu được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả
tổng hợp của chính bản thân tơi. Ngồi ra, trong bài nghiên cứu còn sử dụng
một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức
đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Tơi cũng đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ khóa luận.
Tơi xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2018
Người cam đoan

Nguyễn Thùy Linh


DANH MỤC VIẾT TẮT

BLDS

:

Bộ luật dân sự

CTCP

:

Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ

:

Đại hội đồng cổ đông

HĐQT

:


Hội đồng quản trị

LCT

:

Luật cạnh tranh

LCK

:

Luật chứng khốn

LDN

:

Luật doanh nghiệp

LĐT

:

Luật đầu tư

LTCTD

:


Luật tổ chức tín dụng

M&A

:

Merger and acquisition


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 4
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SÁP NHẬP
CÔNG TY CỔ PHẦN ..................................................................................... 5
1.1. Khái niệm sáp nhập CTCP ..................................................................... 5
1.2. Đặc trưng pháp lý của sáp nhập CTCP .................................................. 8
1.3. Phân loại các hình thức sáp nhập CTCP .............................................. 10
1.3.1. Căn cứ theo mức độ liên kết của công ty thành viên .................... 10
1.3.2. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ ....................................................... 11
1.4. Các phương thức sáp nhập CTCP ........................................................ 11
1.5. Quy trình thực hiện một thương vụ sáp nhập CTCP ........................... 14
1.6. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động sáp nhập CTCP ................................... 15
1.6.1. Đối với nhà đầu tư ........................................................................ 15
1.6.2. Đối với nền kinh tế ........................................................................ 15
1.7. Lược sử về hoạt động sáp nhập CTCP................................................. 16
1.7.1. Hoạt động sáp nhập công ty cổ phần trên thế giới ....................... 16

1.7.2. Hoạt động sáp nhập CTCP tại Việt Nam ...................................... 19
1.8. Mối quan hệ giữa sáp nhập CTCP và M&A ........................................ 20
Tiểu kết chương I .......................................................................................... 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM .......22
2.1. Tổng quan về hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động sáp
nhập CTCP .................................................................................................. 22
2.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về sáp nhập CTCP ......... 28


2.2.1. Các quy định về thủ tục sáp nhập CTCP ...................................... 28
2.2.2. Các quy định về bảo đảm sự công bằng trong hoạt động sáp nhập
CTCP ....................................................................................................... 29
2.2.3. Các quy định về bảo vệ cổ đông trong hoạt động sáp nhập CTCP.. 32
2.2.4. Các quy định về kiểm soát tập trung kinh tế trong hoạt động sáp
nhập CTCP .............................................................................................. 37
2.2.5. Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến M&A............... 39
2.3. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về sáp nhập cơng ty cổ
phần có yếu tố nước ngoài .......................................................................... 46
2.3.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về điều kiện đối với
hoạt động sáp nhập cơng ty cổ phần có yếu tố nước ngồi .................... 46
2.3.2. Các quy định quy trình, thủ tục sáp nhập cơng ty cổ phần có yếu tố
nước ngoài ............................................................................................... 48
Tiểu kết chương II ......................................................................................... 52
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM .... 53
3.1. Kiến nghị về chính sách pháp luật ....................................................... 53
3.2. Kiến nghị về các quy định pháp luật .................................................... 54
Tiểu kết chương III ....................................................................................... 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 61


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CTCP là một trong những loại hình doanh nghiệp đang ngày càng phát
triển và dần trở nên phổ biến nhất tại Việt Nam. Trong thời đại hội nhập và xu
hướng toàn cầu hóa hiện nay, sự hiện diện và mở rộng phạm vi của CTCP
càng được thể hiện rõ ràng hơn nữa. Vì thế mà số lượng doanh nghiệp nói
chung cũng như CTCP nói riêng khơng ngừng gia tăng với tốc độ nhanh. Tuy
nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng giữ vững được sự ổn định hay quy
mơ phát triển của mình. Bởi với tốc độ phát triển "chóng mặt" của nền kinh tế
thị trường ngày nay, luôn luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và bất ổn khơng thể
lường trước có thể làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp, dẫn tới hoạt động thua
lỗ, không đem lại nhiều lợi nhuận. Bên cạnh đó, với mục tiêu phải đạt được
lợi nhuận cao nhất nên các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ cũng luôn muốn gia
tăng thị phần của mình trên thị trường. Chính vì hai lí do trên mà dẫn tới nhu
cầu hình thành nên các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (Merger
and acquisition - viết tắt là M&A).
M&A (được viết tắt từ 2 từ Tiếng Anh “Merger"(sáp nhập) và
"Acquisition" (mua lại)) là một thuật ngữ chuyên ngành trong lĩnh vực tài
chính kinh doanh và quản trị chiến lược. Sáp nhập được xem là hình thức hai
hay nhiều cơng ty hợp nhất lại thành một và kết quả là hình thành một pháp
nhân mới, cịn mua lại là việc một cơng ty mua lại một công ty khác và không
tạo ra một pháp nhân mới. M&A dần trở thành một xu hướng phổ biến và
cũng là một trong nhiều chiến lược mà các công ty thường sử dụng trên
trường kinh doanh quốc tế. Năm 2017, tổng giá trị M&A toàn cầu đạt 3,15
nghìn tỷ đơ (đạt 18.433 giao dịch). Trong đó, lĩnh vực công nghệ thông tin đã
đạt được số lượng hợp đồng hàng năm cao kỷ lục kể từ năm 2001 khi các nhà
đầu tư hướng tới những phát triển mới nhất trong ngành như IoT, xe tự động

và công nghệ blockchain. Thị trường cũng đã chứng kiến sự gia tăng của
ngành tiêu dùng, phản ánh trong việc mua lại của Reynolds America,
1


Luxottica và Whole Foods, với tổng cộng 6 lần mua vào trong ngành trị giá
hơn 10 tỷ đô la Mỹ.[29]
Tại Việt Nam, hoạt động M&A được khởi động từ năm 2000, đã và
đang gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và giá trị các thương vụ. Sở dĩ có sự
bùng nổ xu hướng M&A mạnh mẽ như vậy là do thị trường Việt Nam đang là
đối tượng quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Đây được coi là con
đường ngắn nhất để các nhà đầu tư tiếp cận đến với thị trường của nước sở tại,
nhất là đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ngược lại, đây
cũng là một trong những cách huy động vốn hiệu quả và đỡ tốn kém tại Việt
Nam - nơi có trên 97% là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, hành lang pháp
lý cho hoạt động này vẫn cịn chưa hồn thiện, nhiều doanh nghiệp trong nước
vẫn chưa thể tận dụng được lợi thế "sân nhà" để mạnh dạn tham gia vào thị
trường M&A mà chủ yếu các thương vụ hầu hết đến từ các nhà đầu tư ngoại.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cần phải có sự tìm hiểu kĩ càng về đặc điểm, bản
chất pháp lý của M&A nói chung cũng như hoạt động sáp nhập nói riêng để có
thể đưa ra được những sự điều chỉnh, bổ sung thích hợp cho hành lang pháp lý
nhằm mục đích vừa khuyến khích M&A, vừa hạn chế được những hệ quả tiêu
cực từ hoạt động này. Đó là lí do người viết chọn đề tài: "Pháp luật về sáp
nhập công ty cổ phần ở Việt Nam".
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn, tạo một cái nhìn chung về hoạt động sáp nhập CTCP trên thị trường Việt
Nam hiện nay.
Về mặt lý luận, khóa luận đưa ra những vấn đề tổng quan nhất về hệ
thống pháp luật Việt Nam cả về mặt tích cực lẫn hạn chế. Thơng qua đó

làm rõ và phân tích những quy định đang hiện hành để có thể đóng góp,
hồn thiện một số điểm của hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động sáp
nhập CTCP

2


Về thực tiễn, khóa luận đưa ra những cơ sở cho sự cần thiết phải điều
chỉnh hoạt động sáp nhập trên thị trường Việt Nam. Nhờ đó đề xuất được
những giải pháp mang tính thiết thực với những vấn đề đang cịn tồn tại.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nhằm làm sáng tỏ được
những vấn đề pháp lý xoay quanh hoạt động sáp nhập doanh nghiệp nói
chung cũng như sáp nhập CTCP nói riêng. Để đạt được mục tiêu trên, người
viết tiến hành làm rõ bản chất của của hoạt động sáp nhập CTCP. Bên cạnh
đó, phân tích vai trị cũngnhư thực trạng của hoạt động sáp nhập CTCP trong
thực tiễn đối với quá trình phát triển của nền kinh tế trong nước, nhằm rút ra
những điểm tích cực đạt được cũng như những điểm còn hạn chế trong phát
triển hoạt động sáp nhập ở Việt Nam. Từ đó có thể đưa ra một số quan điểm
đóng góp để đẩy mạnh hoạt động sáp nhập, hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật hiện
hành về hoạt động sáp nhập CTCP trong pháp luật Việt Nam, thực tiễn thi
hành pháp luật ở Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật M&A và một số
quốc gia trên thế giới.
Với đề tài "Pháp luật về sáp nhập công ty cổ phần ở Việt Nam", phạm
vi nghiên cứu là khá rộng. Bởi vậy, với khả năng còn hạn chế, người viết
khơng đặt tham vọng phân tích mọi khía cạnh pháp lý của hiện tượng này mà
chỉ tập trung ở một số vấn đề người viết quan tâm nhất sẽ được triển khai chi
tiết ở những chương sau. Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu sẽ là các

quy định của pháp luật Việt Nam về công ty cổ phần. Về mặt thời gian, ngoại
trừ việc giới thiệu lược sử phát triển của hoạt động sáp nhập CTCP ở Việt
Nam, đề tài chỉ giới hạn ở các quy định pháp luật đang có hiệu lực cho đến
thời điểm hiện tại.

3


5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lênin. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, người
viết cũng đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác
nhau như phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê số liệu,
phương pháp logic,... và đặc biệt là phương pháp so sánh. Với những phương
pháp trên, chúng ta có thể đưa ra được những so sánh, nhận định để đối chiếu
giữa các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cũng làm rõ được những điểm
nổi bật, tích cực hoặc hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề nghiên cứu.
Nhờ vậy, chúng ta có thể đánh giá được sự tiến bộ cũng như những mặt tồn
tại cần được khắc phục để đưa ra được một số giải pháp thích hợp cho hoạt
động sáp nhập công ty cổ phần ở Việt Nam.

4


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
SÁP NHẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
Tại chương I, người viết tập trung làm rõ các vấn đề chung về lý luận
như lược sử của hoạt động sáp nhập CTCP trên thế giới và Việt Nam, khái
niệm, đặc trưng pháp lý và vai trò, ý nghĩa của hoạt động này.
1.1. Khái niệm sáp nhập CTCP

Muốn tìm hiểu thế nào là sáp nhập CTCP, trước hết chúng ta cần hiểu
được thế nào là hoạt động sáp nhập. Khi có được cái nhìn tổng quan về hoạt
động này, chúng ta nắm được những đặc điểm chung nhất, kết hợp cùng với
những tính chất riêng của CTCP thì sẽ có được một cách hiểu đúng về khái
niệm sáp nhập CTCP.
Từ thời kì tư bản chủ nghĩa, tập trung tư bản được hiểu là "sự tăng
thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có
sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn" [23,256]. Trong đó,
cạnh tranh và tín dụng chính là những đòn bẩy mạnh mẽ nhất để thúc đẩy tập
trung tư bản phát triển một cách nhanh chóng. Cạnh tranh buộc các tư bản,
nhất là tư bản có quy mơ vừa và nhỏ phải liên kết hay sát nhập với nhau để
cùng đứng vững được trên thị trường. Cịn tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành
phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà
tư bản. Như vậy, sáp nhập chính là một hình thức của tập trung tư bản.
Theo từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa tái bản năm
2010: "sáp nhập" có nghĩa là "nhập lại với nhau thành một". Theo đó, hoạt
động sáp nhập được coi là sự "nhập lại" của hai hoặc nhiều tổ chức, đặc biệt
là các công ty, doanh nghiệp thành một tổ chức duy nhất. Thông thường, sự
kết hợp này sẽ đến từ những tổ chức có nhiều điểm tương đồng với nhau.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quan điểm nào thống nhất về
khái niệm hoạt động sáp nhập. Tuy nhiên chúng ta có để tìm thấy khái niệm
này được đề cập đến trong một số điều luật cụ thể. LCT 2004 quy định sáp
nhập như là một hình thức tập trung kinh tế thuộc nhóm các hành vi chống
5


cạnh tranh. Cụ thể, khoản 1 điều 17: "Sáp nhập doanh nghiệp là việc một
hoặc một số doanh nghiệp chuyển tồn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.". Trong khi đó, LDN 2014 quy định sáp

nhập như là một hình thức tổ chức lại cơng ty, chi tiết tại khoản 1 điều 195:
"Một hoặc một số công ty (sau đây gọi là cơng ty bị sáp nhập) có thể sáp
nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là cơng ty nhận sáp nhập) bằng cách
chuyển tồn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty
nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.". Như
vậy, hoạt động sáp nhập được hiểu nôm na là những giao dịch mà trong đó,
một hoặc một số doanh nghiệp chấm dứt tư cách pháp nhân của mình để gia
nhập vào một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiến hành
tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp bị sáp nhập. Ví dụ, khi một doanh nghiệp A bị sáp nhập vào doanh
nghiệp B, doanh nghiệp A sẽ khơng cịn nữa. Thay vào đó, cổ phiếu của
doanh nghiệp A sẽ được chuyển đổi sang cổ phiếu của doanh nghiệp B. Cách
thức quản lý điều hành doanh nghiệp sau sáp nhập cũng khác với trường hợp
mua lại doanh nghiệp vì hai doanh nghiệp sáp nhập sẽ bắt tay, kết hợp cùng
nhau để cùng quản lý dù trên thực tế về mặt pháp lý có một bên bị sở hữu và
một bên được sở hữu.
So sánh với pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy cách
hiểu của những nhà làm luật tại Việt Nam về vấn đề này còn khá hẹp. Theo
điều 15 Luật Chống độc quyền của Nhật Bản, thuật ngữ "mua lại cổ phần"
cũng được hiểu là sáp nhập. Còn theo điều 91 LCT Ca-na-đa, sáp nhập được
coi là "sự thiết lập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp của một hay nhiều bên
thông qua việc mua hoặc cho thuê cổ phần hoặc tài sản, liên kết hoặc kết hợp
bằng cách khác, quyền kiểm soát hoặc quan tâm đáng kể đối với toàn bộ hoặc
một phần hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, bên cung cấp, bên
mua hàng hoặc một người khác bất kỳ". Những cách hiểu trên có phần rộng
6


hơn, bởi hoạt động sáp nhập như đã nói, khơng chỉ dừng lại ở việc thực hiện
đơn thuần hành vi sáp nhập mà còn bao gồm một chuỗi hành vi có liên kết với

nhau để thực hiện mục đích sáp nhập. Đây là cách hiểu dựa trên thực tiễn
thương mại được đặt trong bối cảnh chung của thị trường quốc tế với kinh
nghiệm về hoạt động M&A mà các quốc gia trên thế giới đã thực hiện qua
hàng trăm năm và người viết cũng nghiêng về quan điểm này. So với cách
hiểu trên, những quy định về sáp nhập trong pháp luật Việt Nam mang tính
đóng hơn khi chỉ dừng lại ở việc định nghĩa theo đúng quan niệm của người
Việt Nam về "sáp nhập" và mô tả hành vi đó bằng việc liệt kê một cách trực
tiếp mà chưa xét đến mục đích cuối cùng của hành vi. Vơ hình chung đã tạo
ra một kẽ hở, dẫn tới hiện tượng có những hành vi về bản chất, mục đích là
sáp nhập, tập trung kinh tế nhưng lại không thuộc sự điều chỉnh của pháp luật
do không thể hiện được đầy đủ những mặt mơ tả về hình thức của hành vi
pháp lý. Điều này đã khiến cho một số cơng ty gặp khó khăn khi khơng nắm
rõ được vấn đề trong hoạt động sáp nhập của mình.
Từ những điều trên, dễ thấy rằng cách hiểu khái niệm về sáp nhập
CTCP khơng có nhiều điểm khác biệt so với sáp nhập doanh nghiệp nói
chung. Điểm khác biệt quan trọng nhất có lẽ là tính chất vốn điều lệ ở CTCP
được chia thành những phần vốn bằng nhau, dễ dàng được phát hành chứng
khoán để huy động vốn cũng như chuyển nhượng phần vốn góp. Do vậy mà
hoạt động sáp nhập đối với CTCP cũng sôi động hơn. Từ đặc điểm trên của
CTCP, có thể thấy rõ cổ phần trở thành một công cụ để bảo vệ quyền kinh
doanh của các bên trong những thương vụ sáp nhập. Bên nào sở hữu được số
lượng cổ phần vượt trội hơn sẽ giành được ưu thế về quyền kinh doanh chứ
không phụ thuộc vào đặc điểm về nhân thân hay các mối quan hệ. Thơng
thường, điều này sẽ được quyết định bởi tình hình tài chính của chủ thể đó.
Như vậy, nhờ tính chất của CTCP mà sân chơi trong hoạt động sáp
nhập trở nên công bằng với tất cả các bên. Cũng dựa vào các tính chất riêng
biệt của CTCP, các quy định pháp lý về sáp nhập được hình thành. Ví dụ các
7



quy định về công bố thông tin khi sáp nhập, bảo vệ cổ đông thiểu số... đều
được thiết lập dựa trên các đặc điểm của loại hình cơng ty này.
1.2. Đặc trưng pháp lý của sáp nhập CTCP
Thứ nhất, hoạt động sáp nhập CTCP mang đặc trưng pháp lý đó là sự
chuyển đổi về mặt chủ sở hữu, cách thức điều hành và quản trị công ty. Đây
là một giao dịch mang tính chất dân sự nhưng có đối tượng là CTCP - một
thực thể pháp lý chứ không phải tài sản đơn thuần. Qua đó, bên thực hiện sáp
nhập muốn nắm quyền kiểm soát đối với bên bị sáp nhập. Hay nói cách khác,
khách thể của quan hệ sáp nhập này chính là trái quyền.
Trong hoạt động sáp nhập CTCP có sự chuyển giao tồn bộ sản nghiệp
thương mại của công ty cùng các trái quyền khác. Sản nghiệp thương mại ở
đây được hiểu là toàn bộ tài sản bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vơ
hình thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của thương nhân phục
vụ cho hoạt động thương mại: trụ sở, cửa hàng, kho tàng, trang thiết bị, tên
thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, mạng lưới tiêu thụ hàng hoá và cung ứng
dịch vụ... Các trái quyền ở đây là quyền kiểm sốt cơng ty, tất cả quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp bao gồm cả quyền và nghĩa vụ đối với bên thứ ba cũng
như với chủ nợ hay người lao động...
Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động sáp nhập là bên nhận sáp nhập và
bên bị sáp nhập. Theo đó, bên bị sáp nhập (bên bị động) trong hoạt động sáp
nhập CTCP là chính là công ty mục tiêu. Bởi đây là một pháp nhân có tư cách
pháp lý độc lập, có quyền nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp
luật. Đồng thời công ty này cũng là đối tượng của quan hệ sáp nhập.
Bên nhận sáp nhập (bên chủ động) là công ty muốn thực hiện hoạt động
sáp nhập. Dưới góc độ pháp lý, tính chất chủ động này của cơng ty xuất phát
từ sự thừa nhận của pháp luật về quyền tự do kinh doanh và quyền tự chủ
trong hoạt động kinh doanh của công ty. Sự công nhận này đem lại quyền cho
công ty đối với những hoạt động phát sinh trong nội bộ cũng như những hoạt

8



động phát sinh bên ngồi cơng ty như quyền tự do liên kết kinh doanh mà sáp
nhập là một trong những cách thức để thực hiện nó.
Hai chủ thể này trước hết phải đáp ứng đủ những điều kiện chung thế
nào là doanh nghiệp. Bởi CTCP là một loại hình của doanh nghiệp. Theo đó,
khoản 9 điều 3 LDN 2014 quy định "Doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp
được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở
chính tại Việt Nam.". Vậy cịn thế nào là CTCP? CTCP được hiểu là loại hình
doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau gọi là
cổ phần. Người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. CTCP có
tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh
nghiệp.
Thứ ba, về hậu quả pháp lý, sáp nhập CTCP dẫn đến việc chấm dứt
hoàn toàn sự tồn tại của cơng ty bị sáp nhập. Thay vào đó, công ty nhận sáp
nhập vẫn được giữ nguyên, sẽ tiếp nhận tồn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp khác từ công ty bị sáp nhập. Đây là điểm khác biệt so với các
hoạt động khác như mua bán, hợp nhất, chia, tách.. công ty.
Thứ tư, sáp nhập CTCP được thể hiện qua hợp đồng sáp nhập CTCP.
Hợp đồng sáp nhập là sự thỏa thuận giữa bên bị sáp nhập và bên nhận sáp
nhập về việc chuyển tồn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp khác
từ công ty bị sáp nhập sang công ty nhận sáp nhập. Đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của công ty bị sáp nhập.
Thứ năm, sáp nhập CTCP phải thơng qua sự thừa nhận của cơ quan có
thẩm quyền thông qua các thủ tục pháp lý nhất định. Điều này xuất phát từ
bản chất của công ty. Công ty được khai sinh thông qua thủ tục đăng ký kinh
doanh –một thủ tục để gán cho nó một tư cách pháp lý, gán cho những người
thành lập nên nó những quyền và nghĩa vụ pháp lý. Do đó, khi cơng ty bị sáp
nhập, có sự chuyển giao các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các cổ đông sáng

lập nên doanh nghiệp, vì vậy cần một sự chứng nhận của cơ quan công quyền
9


về việc chuyển giao này. Ở góc độ này, Nhà nước đứng ra với tư cách người
công nhận thỏa thuận sáp nhập giữa các bên.
1.3. Phân loại các hình thức sáp nhập CTCP
Có nhiều cách thức để phân loại các hình thức sáp nhập CTCP dựa trên
nhiều tiêu chí khác nhau. Người viết lựa chọn một số tiêu chí nổi bật dưới đây
để đưa vào phần nghiên cứu của mình:
1.3.1. Căn cứ theo mức độ liên kết của công ty thành viên
Sáp nhập thường được chia thành 3 loại: sáp nhập theo chiều ngang
(Horizontal), sáp nhập theo chiều dọc (Vertical) và sáp nhập theo kiểu hỗn
hợp (Conglomerate).
- Sáp nhập theo chiều ngang
Đây là hoạt động sáp nhập giữa các công ty cùng một lĩnh vực kinh
doanh, có cùng loại sản phẩm và thị trường, từ đó tạo ra một hãng có sức cạnh
tranh cao. Hình thức này giúp giảm thiểu đối thủ cạnh tranh, tiết kiệm chi phí
do quy mơ (Economies of Scale). Có thể lấy ví dụ trường hợp sáp nhập giữa
JPMorgan và BankOne trong lĩnh vực tài chính, hay thương vụ sáp nhập lớn
nhất trong lĩnh vực ngân hàng từ trước đến nay giữa hai ngân hàng Algemene
Bank Nederland (ABN) và Amsterdamsche-Rotterdamsche Bank (AMRO).
- Sáp nhập theo chiều dọc
Khác với sáp nhập theo chiều ngang, sáp nhập theo chiều dọc là sáp
nhập giữa các công ty cùng lĩnh vực kinh doanh nhưng khác nhau về phân
khúc thị trường. Ví dụ như Walt Disney với ABC Television. Sự sáp nhập
này đem lại cho công ty tiến hành sáp nhập lợi thế về đảm bảo và kiểm soát
chất lượng nguồn hàng hoặc đầu ra sản phẩm, giảm chi phí trung gian, khống
chế nguồn hàng hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh.
- Sáp nhập theo kiểu hỗn hợp:

Sáp nhập giữa các cơng ty khác nhau hồn tồn về lĩnh vực kinh doanh,
từ đó tạo ra các tập đồn lớn hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực như Deawoo.
Hình thức này là giúp nhằm giảm cơ bản rủi ro nhờ đa dạng hóa và để khai
10


thác các hình thức kinh tế khác nhau trong các lĩnh vực tài chính, tài ngun.
Hình thức này khơng cịn mấy phổ biến trong nhiều năm trở lại đây.
1.3.2. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ
- Sáp nhập trong nước:
Đây là hình thức mua bán và sáp nhập diễn ra tại một quốc gia và được
thực hiện giữa các doanh nghiệp trong cùng lãnh thổ một quốc gia, khơng có
sự kết hợp giữa các tài sản xuyên biên giới.
- Sáp nhập xuyên biên giới:
Hình thức sáp nhập được thực hiện giữa các công ty thuộc hai quốc gia
khác nhau. Ngoải ra, đây cịn có thể coi là một trong những hình thức đầu tư
trực tiếp và phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong q trình
tồn cầu hóa gần đây, làn sóng tồn cầu hóa đã dần xóa bỏ biên giới kinh
doanh của các cơng ty đa quốc gia khiến cho xu hướng sáp nhập xuyên biên
giới ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trong bối cảnh kinh tế toàn cầu.
1.4. Các phương thức sáp nhập CTCP
Phương thức thực hiện sáp nhập CTCP rất đa dạng. Việc lựa chọn
phương thức nào tùy thuộc vào mục tiêu, đặc điểm quản trị cũng như ưu thế
của công ty trên thị trường trong từng trường hợp cụ thể. Một số phương thức
thực hiện hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp là phương thức chào
thầu, phương thức thương lượng tự nguyện với ban quản trị và điều hành,
phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn, phương thức mua lại tài sản của doanh
nghiệp, và phương thức thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Thương lượng
Thương lượng là một trong những phương thức được sử dụng phổ biến

nhất và mang nhiều thiện chí khi thực hiện sáp nhập CTCP. Khi cả hai cơng
ty đều nhận thấy lợi ích chung tiềm tàng của thương vụ sáp nhập hoặc họ dự
đoán được tiềm năng phát triển hoạt động kinh doanh vượt trội sau sáp nhập,
ban điều hành sẽ ngồi lại với nhau để thương thảo, tiến tới một hợp đồng sáp
nhập.
11


Chào thầu
Đây là phương pháp mà CTCP chủ động muốn nhận sáp nhập, đề xuất
trực tiếp với các cổ đông của CTCP mục tiêu (DN mục tiêu) về ý định mua cổ
phiếu của các cổ đông này với mức giá cao hơn thị trường. Theo đó, sẽ áp
dụng chế độ công bố thông tin cho các cổ đông về ý định sẽ trả một giá nào
đó trong một thời gian nhất định và cam kết mua cổ phiếu. Giá chào thầu
thường đủ hấp dẫn để đa số cổ đông tán thành việc từ bỏ quyền sở hữu cũng
như quản trị cơng ty mà mình đang nắm giữ. Nếu các cổ đông của công ty
mục tiêu chấp nhận mức giá này thì việc chào thầu thành cơng. Điểm đáng
chú ý trong các thương vụ “chào thầu” là ban quản trị công ty bị mua bị mất
quyền định đoạt, bởi đây là sự trao đổi trực tiếp giữa công ty mua và cổ đông
của công ty bị mua, trong khi ban quản trị (lúc này nắm không đủ số lượng cổ
phần chi phối) bị gạt sang một bên. Với nhiều trường hợp sáp nhập CTCP dựa
vào phương pháp thương lượng không được tiến hành sn sẻ thì sự lựa chọn
tiếp theo sẽ là phương pháp chào thầu. Vì thế, phương pháp này phần lớn diễn
ra trong trường hợp sáp nhập không thân thiện.
Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khốn
Cơng ty có ý định sáp nhập sẽ chuẩn bị nguồn vốn đủ lớn khi có ý
định thơn tính một doanh nghiệp nào đó trên thị trường. Lúc này cơng ty
muốn nhận sáp nhập sẽ tiến hành mua cổ phiếu của các doanh nghiệp mục
tiêu thông qua các giao dịch trên thị trường chứng khốn, hoặc mua lại của
các cổ đơng chiến lược hiện hữu. Tuy nhiên, phương thức mua bán sáp

nhập này địi hỏi thời gian, và nếu thơng tin về thương vụ sáp nhập bị bại
lộ có có thể sẽ tạo nhu cầu về cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường tăng
lên. Dẫn đến giá của cổ phiếu của công ty bị sáp nhập có thể tăng cao trên
thị trường. Bên cạnh nhược điểm đó, phương thức mua bán sáp nhập này
cũng có những ưu điểm, nếu nó được thực hiện dần dần và thông tin không
được tiết lộ trước khi hồn thành thương vụ thì cơng ty nhận sáp nhập có
thể đạt được mục đích cuối cùng của mình một cách êm thấm, không gây
12


xáo động lớn cho công ty bị sáp nhập trong khi chỉ cần trả một mức giá rẻ
hơn so với phương thức chào thầu rất nhiều.
Lôi kéo cổ đông bất mãn
Lôi kéo cổ đông bất mãn là phương thức sáp nhập đối với các thương
vụ mang tính chất thù địch. Khi một cơng ty rơi vào tình trạng kinh doanh yếu
kém, thua lỗ, thường có một bộ phận các cổ đông, họ bất mãn và muốn thay
đổi ban quản trị. Họ hi vọng rằng ban quản trị mới sẽ có thể điều hành công ty
tốt hơn, và đem lại kết quả kinh doanh khả quan hơn. Lợi dụng sự mâu thuẫn
nội bộ này mà cơng ty cạnh tranh có thể lôi kéo một bộ phận cổ đông bất
mãn. Trước hết, thơng qua thị trường chứng khốn, cơng ty cạnh tranh thực
hiện mua số lượng cổ phần tương đối lớn để trở thành cổ đông của công ty
mục tiêu (nhưng tỷ lệ nắm giữ cổ phần chưa đủ để chi phối doanh nghiệp). Vì
vậy, họ tiếp tục mua cổ phần của các cổ đông bất mãn, cũng như nhận được
sự ủng hộ của các cổ đông này. Đến khi công ty cạnh tranh có đủ cổ phần chi
phối, cơng ty cạnh tranh cùng với những cổ đông bất mãn sẽ lập tức triệu tập
họp Đại hội đồng cổ đông và bầu đại diện của công ty cạnh tranh vào Hội
đồng quản trị mới. Mục đích cuối cùng của hoạt động là thay đổi ban điều
hành công ty mục tiêu.
Mua lại tài sản của công ty
Phương thứ này gần giống phương thức chào thầu. Cơng ty có mục

đích nhận sáp nhập có thể đơn phương, hoặc cùng doanh nghiệp mục tiêu tiến
hành hoạt động định giá lại tài sản của công ty bị mua. Tuy nhiên, công việc
định giá thường do một công ty định giá độc lập tiến hành. Trên cơ sở kết quả
của quá trình định giá, các bên liên quan sẽ tiến hành đưa ra mức giá mua phù
hợp. Phương thức thanh tốn có thể bằng tiền mặt hoặc nợ. Điểm hạn chế của
phương thức này là các tài sản vơ hình như thương hiệu, thị phần, bạn hàng,
nhân sự, văn hóa của tổ chức rất khó có thể định giá chính xác và đi đến sự
thống nhất về giá cả giữa các hai bên. Do đó, phương thức này thường áp
dụng để tiếp quản lại các công ty nhỏ, thực chất là nhắm đến các cơ sở sản
13


xuất, nhà xưởng máy móc, dây chuyền cơng nghệ, hệ thống cửa hàng, đại lý
đang thuộc sở hữu của công ty đó.
1.5. Quy trình thực hiện một thương vụ sáp nhập CTCP
Việc tìm hiểu về quy trình sáp nhập cơng ty có ý nghĩa rất lớn đối với
những người thực hiện công việc tư vấn sáp nhập hay với những luật sư tham
gia vào quá trình này. Để thực hiện một thương vụ sáp nhập, thơng thường
quy trình sẽ gồm các giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị sáp nhập
Tại giai đoạn này, các bên công ty sẽ tiến hành các bước như:
- Xây dựng chiến lược.
Bước này sẽ gồm những công việc quan trọng như lập và phê duyệt đề
án kinh doanh khả thi; lựa chọn công ty mục tiêu theo những tiêu chí, mục
đích riêng của cơng ty có nhu cầu nhận sáp nhập,...
- Lựa chọn các chủ thể gián tiếp tham gia vào hoạt động sáp nhập như
cơng ty kiểm tốn, cơng ty tư vấn luật,...
- Tiến hành tìm hiểu, kiểm tra tính hợp pháp và đưa ra đánh giá về giá
trị công ty mục tiêu một cách cụ thể.
Giai đoạn 2: Tiến hành thỏa thuận

Hai bên công ty sẽ tiến hành thương lượng, thỏa thuận về việc sáp nhập
cơng ty. Sau đó sẽ ký kết những thỏa thuận sơ bộ. Công ty nhận sáp nhập sẽ
tiếp tục đánh giá thực tế về mục tiêu và đưa ra những thỏa thuận cuối cùng
cho thương vụ.
Giai đoạn 3: Ký kết hợp đồng
Sau khi đạt được những thỏa thuận cuối cùng về hoạt động sáp nhập
công ty, các bên sẽ đi đến ký kết hợp đồng sáp nhập. Đây là cơ sở để việc sáp
nhập cơng ty có giá trị pháp lý. Thông qua hợp đồng, các bên thiết lập được
mối quan hệ về chuyển giao toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ cùng lợi ích
hợp pháp cho nhau.

14


Giai đoạn 4: Hoàn thiện và nộp hồ sơ sáp nhập
Cơng ty nhận sáp nhập sẽ chuẩn bị, hồn thiện hồ sơ sáp nhập gồm
nhiều tài liệu khác nhau để nộp cho Sở kế hoạch và đầu tư để nhận được kết
quả trong một khoảng thời gian nhất định.
1.6. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động sáp nhập CTCP
1.6.1. Đối với nhà đầu tư
Hoạt động sáp nhập CTCP mang lại nhiều lợi ích cho cả hai phía, cơng
ty nhận và công ty bị sáp nhập.
Đối với công ty bị sáp nhập, hoạt động này sẽ giúp cho họ tránh được
tình trạng bị phá sản khi lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Mặt khác,
đây cũng là một biện pháp góp phần cơ cấu lại các cơng ty kinh doanh kém
hiệu quả mà không làm giảm đi giá trị đầu tư của thị trường. Đồng thời, nó
cũng khuyến khích các công ty phải nỗ lực hoạt động hiệu quả hơn để tránh
tình trạng bị các cơng ty lớn "thâu tóm".
Đối với cơng ty nhận sáp nhập, việc tiến hành sáp nhập sẽ giúp cho
công ty mở rộng được quy mô sản xuất kinh doanh mà không phải bỏ quá

nhiều chi phí cũng như cơng sức, thời gian. Bởi việc xây dựng cơ sở hạ tầng,
tên tuổi thương hiệu hay quan hệ khách hàng... không thể thực hiện được
trong ngày một ngày hai mà đó là cả một q trình lâu dài.Ngoài ra, đây cũng
là một trong những con đường ngắn, dễ dàng và tiết kiệm nhất để giúp các
nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận với thị trường của nước sở tại. Họ có thể triển
khai kinh doanh ngay sau khi tiến hành hợp đồng sáp nhập mà không cần mất
quá nhiều thời gian để chuẩn bị như các nhà đầu tư thực hiện bài bản từ đầu.
Hơn nữa, với những cơng ty lớn, có chỗ đứng trên thị trường thị việc thực
hiện hoạt động sáp nhập cũng được coi là một hình thức để "bành trướng"
quyền lực cũng như khả năng "thơn tính" đối thủ cạnh tranh của mình.
1.6.2. Đối với nền kinh tế
Hoạt động sáp nhập được coi như một biện pháp "kế hoạch hóa" tích
cực cho nền kinh tế khi đã giảm thiểu được số lượng các công ty hoạt động
15


khơng hiệu quả. Đây cũng là một hình thức tập trung kinh tế, thể hiện qua
việc những công ty gặp thua lỗ trong kinh doanh hay những cơng ty có tiềm
năng trong tương lai được sáp nhập lại để trở thành những cơng ty có quy mơ
lớn hơn với đầy đủ khả năng về tài chính và khả năng đứng vững trên thị
trường đầy biến động. Những công ty này sẽ giữ vai trò tiên phong trong xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Qua đó thúc đẩy động lực cạnh
tranh cho nền kinh tế, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào
thị trường trong nước. Nếu hoạt động nàyđược diễn ra dựa trên một sân chơi
cơng bằng, thì nhu cầu sáp nhập sẽ được duy trì và củng cố. Nhu cầu này
khuyến khích các cơng ty phải hoạt động ngày càng hiệu quả hơn nếu khơng
muốn xảy ra tình trạng bị sáp nhập vào một công ty khác. Hoạt động hiệu quả
của cơng ty sẽ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và trở thành một nguồn
thu thuế dồi dào của Nhà nước.
1.7. Lược sử về hoạt động sáp nhập CTCP

1.7.1. Hoạt động sáp nhập công ty cổ phần trên thế giới
Sáp nhập khơng cịn là một hiện tượng mới lạ đối với thị trường tồn
cầu ngày nay. Nó đã xuất hiện rất sớm từ hàng trăm năm trước. Từ cuối thế kỉ
XIX - đầu thế kỉ XX là khoảng thời gian đánh dấu thời kì đỉnh cao trong quá
trình tập trung tư bản trên thế giới. Rất nhiều những công ty phát triển mạnh
mẽ trong một thời gian, tạo được chỗ đứng trên thị trường nhưng lại khơng
kịp thích nghi với những thay đổi bất ngờ của tình hình kinh tế nên lâm vào
tình trạng bị kiệt quệ về mặt tài chính. Từ đó nhu cầu cho hoạt động M&A nói
chung và sáp nhập nói riêng được hình thành. Đây được coi là thời kỳ là
chuyển giao từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc
quyền với sự hình thành của các tập đồn cơng nghiệp khổng lồ. Chính sự
chuyển giao này đã dẫn đến sự phát triển của hoạt động M&A nói chung cũng
như sáp nhập nói riêng, mà thơng qua đó các cơng ty có thể thực hiện việc
thâu tóm quyền lực quản trị của mình tại doanh nghiệp cũng như thâu tóm thị

16


trường.Từ đó đến nay, trên thế giới đã xuất hiện năm làn sóng về sáp nhập
cơng ty.
Làn sóng thứ nhất bắt đầu từ những năm 1897 đến năm 1904. Đây là
thời gian khởi đầu của hoạt động sáp nhập. Trong giai đoạn này, sự sáp nhập
giữa các công ty được độc quyền trên các dây chuyền sản xuất như đường sắt,
điện,.. Những vụ sáp nhập đầu tiên xảy ra trong khoảng thời gian nói trên hầu
hết là các vụ sáp nhập theo chiều ngang diễn ra giữa các ngành công nghiệp
sản xuất nặng. Phần lớn các vụ sáp nhập đã được hình thành trong giai đoạn
này kết thúc trong thất bại vì họ khơng thể đạt được hiệu quả mong muốn. Sự
thất bại này là sự suy thoái của nền kinh tế năm 1903 và sự sụp đổ của thị
trường chứng khốn năm 1904. Khung pháp lý cũng khơng hỗ trợ một cách
hoàn chỉnh. Đạo luật Sherman ở Mỹ ra đời trong giai đoạn này nhằm khôi

phục cạnh tranh, làm suy yếu các độc quyền và bảo vệ quyền được tham gia
của những nhà sản xuất nhỏ.
Làn sóng thứ hai diễn ra từ năm 1916 đến năm 1929 được khởi tạo từ
sự bùng nổ về kinh tế đã xảy ra sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sự phát
triển công nghệ như sự phát triển của đường sắt và vận chuyển bằng xe cơ
giới cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho hoạt động sáp nhập này. Hoạt động
sáp nhập chủ yếu theo chiều dọc hoặc hỗn hợp (khác nhau hoàn toàn về lĩnh
vực kinh doanh ban đầu nhưng về sau tạo ra các tập đoàn lớn hoạt động trong
rất nhiều lĩnh vực). Các ngân hàng đầu tư đóng một vai trị quan trọng trong
việc tạo điều kiện cho việc sáp nhập và mua lại. Làn sóng này kết thúc với sự
sụp đổ của thị trường chứng khoán vào năm 1929.
Các vụ sáp nhập diễn ra ở làn sóng thứ ba trong những năm 60 của thế
kỷ XX chủ yếu là sáp nhập tập đoàn. Hoạt động sáp nhập được lấy cảm hứng
từ giá cổ phiếu cao, lãi suất và việc chống pháp luật độc quyền. Học thuyết
kinh tế nền tảng của giai đoạn này là chủ nghĩa Keynes. Chủ nghĩa này đề cao
vai trò của nhà nước trong can thiệp vĩ mô. Đến cuối thập kỷ 60, những

17


phương pháp của Keynes khơng cịn hiệu quả, hệ thống lý thuyết rơi vào
khủng hoảng và đó cũng là lúc làn sóng sáp nhập đi vào giai đoạn thối trào.
Làn sóng thứ tư bắt đầu từ năm 1981 và kết thúc vào năm 1989 diễn ra
cùng thời điểm với sự thay đổi trong chính sách chống độc quyền, sự bãi bỏ quy
định về độc quyền trong dịch vụ tài chính, sự thiết lập những cơng cụ tài chính
và thị trường mới (thị trường trái phiếu), cũng như sự phát triển công nghệ trong
ngành công nghiệp điện tử. Thế giới bắt đầu xuất hiện những nền kinh tế mới
bên cạnh Mỹ và các nước Châu Âu như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,... tạo
ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên toàn cầu. Hoạt động sáp nhập đã diễn ra giữa
ngành công nghiệp dầu khí, dược phẩm, ngân hàng và ngành hàng khơng. Các

vụ sáp nhập có yếu tố nước ngồi trở nên phổ biến với hầu hết trong số đó là sự
tiếp quản từ cơng ty đối thủ. làn sóng thứ tư này một lần nữa lại bị suy yếu dần
sau sự tụt dốc của thị trường chứng khoán vào năm 1987.
Làn sóng thứ năm (từ năm 1992 đến nay) là thời điểm để các hoạt động
mua bán cũng như sáp nhập công ty trở nên sôi nổi, đa dạng về cách thức
cũng như gia tăng về giá trị. Hoạt động sáp nhập diễn ra chủ yếu trong ngành
ngân hàng và viễn thơng. Theo thống kê của cơng ty phân tích các dữ liệu tài
chính Dealogic, đến thời điểm giữa năm 2005, tổng giá trị các cuộc sáp nhập
trên toàn cầu đã lên tới 1.970 tỷ USD, tăng 41% so với cùng kỳ năm ngối,
theo đó, châu Âu qua mặt Mỹ về giá trị các cuộc sáp nhập với giá trị ước
khoảng 281 tỷ USD (con số này ở Mỹ là 190,5 tỷ USD). Tình hình sáp nhập
và mua lại các tập đoàn đa quốc gia diễn ra ở hầu hết mọi lĩnh vực: cơng
nghiệp, tài chính, viễn thơng, sản xuất hàng tiêu dùng (ơtơ, sản phẩm giải trí,
điện thoại...). Thế giới từng chứng kiến một số sự kiện sáp nhập đáng chú ý
như vụ Tập đoàn Symantec và Tập đoàn Veritas Software sáp nhập với nhau,
ngân hàng UFJ Holdings Inc sáp nhập với Tập đồn tài chính Tokyo
Mitsubishi...
Qua đây, chúng ta có thể thấy rằng, nhờ sự phát triển đầy thăng trầm
của hoạt động sáp nhập mà các nước có nền kinh tế mới nổi hoặc đang phát
18


triển sau này xem nó như một định hướng cho hoạt động sáp nhập cho từng
quốc gia. Và hơn nữa, sự phát triển của hoạt động sáp nhật luôn theo xu
hướng tỉ lệ thuận với sự phát triển của nền kinh tế và thị trường chứng khốn.
Bên cạnh đó, hiệu quả mà hoạt động mang lại là khả năng đem lại cơ hội phục
hồi nền kinh tế thường rất cao.
1.7.2. Hoạt động sáp nhập CTCP tại Việt Nam
Nếu như vào khoảng hai mươi năm về trước, cụm từ M&A còn khá
mới lạ ở Việt Nam thì ngày nay hoạt động này đang nhận được rất nhiều sự

quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và đã trở thành một phần
không thể thiếu trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng hội nhập ở
nước ta hiện nay.
Hoạt động sáp nhập tại Việt Nam được khởi động từ những năm 2000,
sau khi ban hành Luật Doanh nghiệp năm 1999. Trước đó, phần lớn các giao
dịch sáp nhập doanh nghiệp diễn ra trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Tuy nhiên, kể từ sau thời
điểm Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) thì sáp nhập doanh nghiệp nói chung cũng như CTCP nói riêng
mới thực sự phát triển một cách mạnh mẽ. Sự kiện LDN, LCT và LĐT mới có
hiệu lực từ năm 2005, đã tạo động lực thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước và nỗ lực mở rộng kinh doanh của khu vực tư nhân.
Trên một sân chơi phổ biến hơn và khung khổ pháp lý đã trở nên thuận lợi
hơn, các công ty Việt Nam ở tất cả các thành phần kinh tế nhanh chóng làm
quen và sử dụng M&A nói chung cũng như sáp nhập nói riêng như là cơng cụ
chiến lược để phát triển hay cơ cấu lại doanh nghiệp của mình.
Năm 2007 đã chứng kiến sự tăng vọt của số vụ M&A, sáu tháng đầu
năm 2007 đã có 46 vụ (tổng giá trị 626 triệu USD) so với 32 vụ (245 triệu
USD) của cả năm 2006 và 18 vụ (61 triệu USD) của cả năm 2005[31]. Năm
2014, Việt Nam có trên 300 thương vụ mua bán, sáp nhập (M&A), với giá trị
lên tới 4,2 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2013. Năm 2015 là năm cuối cùng
19


trong giai đoạn 2011-2015 trong Đề án 254 về tái cấu trúc các tổ chức tín
dụng. Vì vậy, đã bùng nổ thị trường sáp nhập giữa các ngân hàng. Điển hình
là vụ sáp nhập SouthernBank vào Sacombank. Tháng 5/2015, SouthernBank
đã thông qua phương án sáp nhập với Sacombank theo tỷ lệ chuyển đổi 1:0,75
(1 cổ phiếu SouthernBank đổi 0,75 cổ phiếu Sacombank). Ngồi ra có thể kể
đến vụ sáp nhập Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long

(MHB) vào Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Ngày
22/5/2015, thủ tục cuối cùng để MHB sáp nhập vào BIDV đã chính thức hồn
thành khi lãnh đạo hai ngân hàng ký kết biên bản bàn giao tồn hệ thống và
cơng bố sáp nhập. Cổ phiếu được hoán đổi theo tỷ lệ 1:1[30]..v..v.
1.8. Mối quan hệ giữa sáp nhập CTCP và M&A
Dễ thấy rằng, M&A là hoạt động giành quyền kiểm sốt doanh nghiệp
thơng qua việc sở hữu một phần hoặc tồn bộ doanh nghiệp đó và giúp mở
rộng thị phần (kênh phân phối) trong thời gian ngắn, tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp thông qua việc tối ưu bộ máy hành chính, tận dụng cơ sở
vật chất, cơng nghệ, con người, tiền mặt,.. đang có sẵn. Do vậy, hình thức của
M&A cũng rất đa dạng, bao gồm: Mua lại tồn bộ cơng ty, góp vốn trực tiếp
vào công ty, chia tách, hợp nhất, sáp nhập,... Như vậy, dù mang trong mình
những đặc điểm riêng biệt, song sáp nhập vẫn có những đặc điểm chung nhất
định của M&A. Chúng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sáp nhập có
thể coi là một "tập con" trong hoạt động M&A và cịn có sự giao thoa với các
hoạt động khác. Khi thực hiện hoạt động sáp nhập nói chung hay CTCP nói
riêng chính là đang tham gia vào hoạt động M&A. Tuy nhiên ngược lại, chưa
hẳn hoạt động M&A nào cũng là sáp nhập. Chúng có thể có một số điểm
chung về mục đích thực hiện, về mặt bản chất hay phương thức thực hiện.
Song chủ thể, hậu quả pháp lý để lại sẽ có một số điểm khác nhau, nhằm phân
biệt giữa các hoạt động này. Vì vậy, xét về mối quan hệ này, chúng có sự liên
kết khăng khít, khơng thể tách rời nhau nhưng vẫn có những đặc điểm riêng
để phân biệt và nhận dạng từng hoạt động một.
20


×