Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự qua thực tiễn viện kiểm sát nhân dân thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ BÍCH THỦY

¸P DụNG PHáP LUậT TRONG
HOạT ĐộNG KIểM SáT ĐIềU TRA CáC Vụ áN HìNH Sự,
QUA THựC TIễN VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN THàNH PHố HảI PHòNG

LUN VN THC S LUT HC

H NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ BÍCH THỦY

¸P DụNG PHáP LUậT TRONG
HOạT ĐộNG KIểM SáT ĐIềU TRA CáC Vụ áN HìNH Sự,
QUA THựC TIễN VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN THàNH PHố HảI PHòNG
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

LÊ THỊ BÍCH THỦY


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ........................................................7
1.1.

Áp dụng pháp luật - khái niệm, đặc điểm cơ bản ....................................7


1.1.1.

Áp dụng pháp luật – một trong những hình thức thực hiện pháp luật ..........7

1.1.2.

Đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật ......................................................13

1.2.

Nhận thức chung về hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân ................................................................17

1.2.1.

Khái niệm, bản chất pháp lý của điều tra vụ án hình sự .............................17

1.2.2.

Khái niệm, bản chất pháp lý của kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.........20

1.3.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ........................................................26

1.3.1.

Khái niệm áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ..................................................26


1.3.2.

Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân............................................27

1.4.

Các giai đoạn và nội dung áp dụng pháp luật trong hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự .........................................................32

1.4.1.

Các giai đoạn của quy trình áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự ......................................................................32

1.4.2.

Nội dung áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự ....................................................................................................36

1.5.

Các yếu tố tác động đến và đảm bảo áp dụng pháp luật trong
hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự .......................................42


1.5.1.

Khái quát chung về các yếu tố tác động đến và đảm bảo áp dụng

pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân ...............................................................................42

1.5.2.

Một số yếu tố tác động, đảm bảo áp dụng pháp luật trong hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự .............................................................43

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................48
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ..............49
2.1.

Đặc điểm về chính trị, kinh tế, xã hội và cơng tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Hải phịng ...................................................................................................49

2.2.

Tình hình tội phạm những năm gần đây ở thành phố Hải Phòng ........53

2.3.

Kết quả áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng .......58

2.3.1.

Kết quả áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát việc khởi tố ..............58


2.3.2.

Kết quả áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải phòng ........67

2.3.3.

Kết quả áp dụng pháp luật đối với các biện pháp ngăn chặn của Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Hải phòng .....................................................69

2.4.

Đánh giá những ƣu điểm và hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của
chúng về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng ...........71

2.4.1.

Đánh giá những ƣu điểm và nguyên nhân chủ yếu của ƣu điểm về áp
dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự ..........71

2.4.2.

Đánh giá hạn chế và nguyên nhân của hạn chế về về áp dụng pháp
luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân ...............................................................................................74

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................76
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................................77


3.1.

Quan điểm đảm bảo chất lƣợng áp dụng pháp luật trong hoạt
động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự ................................................77

3.1.1.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự đáp ứng yêu cầu thực hiện Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, chiến lƣợc cải cách tƣ pháp, bảo vệ quyền
con ngƣời, quyền công dân .........................................................................77

3.1.2.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự nhằm kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật trong hoạt động tƣ
pháp, ban hành nhiều kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan
khắc phục, sửa chữa ....................................................................................79

3.1.3.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc tƣ pháp dân chủ, pháp
quyền đã đƣợc Hiến pháp quy định, bảo đảm mọi quyết định của các
cơ quan tố tụng có căn cứ và đúng pháp luật ..............................................79


3.1.4.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự phải đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống tham nhũng ..................79

3.2.

Giải pháp đảm bảo chất lƣợng áp dụng pháp luật trong hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ............80

3.2.1.

Nhóm giải pháp về hồn thiện pháp luật hình sự ........................................81

3.2.2.

Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ ngành kiểm sát ................................94

3.2.3.

Nhóm giải pháp về giáo dục đạo đức, giáo dục quyền con ngƣời cho
đội ngũ kiểm sát viên, xây dựng văn hóa pháp luật kiểm sát viên ..............97

3.2.4.

Nhóm giải pháp về tăng cƣờng trách nhiệm lãnh đạo của các tổ chức
đảng, giám sát nhà nƣớc và xã hội đối với hoạt động áp dụng pháp
luật của viện kiểm sát về kiểm sát điều tra các vụ án hình sự...................100


3.2.5.

Nhóm giải pháp về xây dựng và thực hiện chính sách, chế độ tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, khen thƣởng, kỷ luật, đảm bảo cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho hoạt động của viện kiểm sát.........................................101

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................105
KẾT LUẬN LUẬN VĂN ......................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................107


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL:

Áp dụng pháp luật

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

KSĐTR:

Kiểm sát điều tra

TAND:


Toà án nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân có vị trí, vai trị và trách nhiệm đặc biệt quan trọng
trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nƣớc cũng nhƣ trong tất cả các giai đoạn tố tụng
hình sự nói riêng. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Kiểm sát điều tra là
hoạt động thuộc chức năng hiến định của VKSND, vừa có đặc điểm chung nhƣ các
hình thức giám sát khác của nhà nƣớc, vừa lại có những đặc thù riêng.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự là một trong
những hình thức thực hiện pháp luật nói chung và trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự
nói riêng. ADPL trong hoạt động kiểm sát điều tra là một trong những phƣơng thức
giám sát quyền lực nhà nƣớc để đảm bảo sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật,
bảo vệ quyền con ngƣời, quyền cơng dân, trật tự, an tồn xã hội.
ADPL trong hoạt động kiểm sát điều tra khơng chỉ có mục đích phát hiện vi
phạm pháp luật, mà cịn có mục đích quan trọng hơn là qua đó xác định những
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ
án hình sự.
Năm 2014 là năm đầu tiên thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đƣợc Quốc hội
thơng qua và có hiệu lực. Trong Hiến pháp có nhiều nội dung mới và có những nguyên
tắc về tƣ pháp rất tiến bộ, rất mới. Hiến pháp cũng quy định phải kiểm sát chặt chẽ hơn
những biện pháp cƣỡng chế tố tụng liên quan đến việc hạn chế quyền con ngƣời theo
tinh thần đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân.

VKSND bằng hoạt động kiểm sát các hoạt động tƣ pháp nhằm bảo đảm mọi
hành vi tội phạm đều phải đƣợc xử lý kịp thời, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân nói chung và của bị can, bị cáo nói riêng đƣợc tơn trọng ở tất cả các
giai đoạn tố tụng hình sự.

1


Trong thời gian, hoạt động áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự của ngành kiểm sát ở cả nƣớc nói chung và ở thành phố Hải phịng nói
riêng đã đạt nhiều thành tích, ƣu điểm quan trọng, góp phần đặc lực vào cơng cuộc
cải cách tƣ pháp, xây dựng nền tƣ pháp vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt đƣợc, trong hoạt động kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự nói riêng vẫn cịn nhiều hạn chế, bất cập so với yêu cầu của
thực tiễn cuộc sống và để thi hành hiến pháp năm 2013. Nhất là trong bối cảnh nhà
nƣớc ta đang triển khai việc sửa đổi, bổ sung vào các bộ luật lớn nhƣ bộ luật hình
sự, bộ luật tố tụng hình sự và tiến hành công tác tổ chức ngành kiểm sát theo Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Đề tài áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự tuy đã
đƣợc quan tâm nghiên cứu về lý luận song cũng còn nhiều vấn đề đặt ra nhất là
trong điều kiện Hiến pháp năm 2013 cũng nhƣ yêu cầu cải cách tƣ pháp. Do vậy cần
tiếp tục nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn để tím ra những giải pháp nhằm
đảm bảo chất lƣợng hoạt động này.
Là một cán bộ công tác trong ngành kiểm sát ở thành phố Hải phịng, tơi mạnh
dạn lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ của mình là "Áp dụng pháp luật trong hoạt
động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, qua thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hải phòng “với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu
lý luận và thực tiễn, đề xuất quan điểm giải pháp đảm bảo chất lƣợng áp dụng pháp luật

trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trên phạm vi cả nƣớc nói chung, ở
Hải phịng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về lý luận, đã có nhiều cơng trình khoa học liên quan đến chức năng của
VKSND nói chung và về chức năng kiểm sát hoạt động tƣ pháp, hoạt động kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự nói riêng dƣới các hình thức nhƣ bài báo khoa học,
giáo trình, tài liệu tham khảo vv….
Có thể nêu một số cơng trình nhƣ sau:

2


+ Các cơng trình về thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật, có các cơng
trình khoa học của các tác giả sau đây:
GS. TSKH. Đào Trí Úc, Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở
Việt Nam, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, 7, 2011
GS. TS. Hồng Thị Kim Quế (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia Hà nội, 2005
GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế, Thực hiện pháp luật của cá nhân, công dân
trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật
học, số /2015;
PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan, Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật ở
Việt nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2009
+ Các cơng trình khoa học về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự
- Đề tài cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn của thu thập, đánh giá chứng cứ
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Phó viện trƣởng Viện Khoa học kiểm sát
làm chủ biên, 2005.
- Bùi Mạnh Cƣờng: Áp dụng pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án ma
túy ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, 2006.

- Vũ Viết Tuấn: Nâng cao Chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- Lê Minh Tuấn: Quyền và trách nhiệm của kiểm sát viên trong hoạt động kiểm
sát việc khám nghiệm hiện trường, Tạp chí Kiểm sát, tháng 10/2007.
- Nguyễn Văn Chiến: Áp dụng căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và phạm vi
áp dụng quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự, Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
- Nguyễn Duy Giảng: Thủ tục rút gọn trong các giai đoạn tố tụng, Tạp chí
Kiểm sát, tháng 9/2003.
- Nguyễn Văn Nhật: Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động điều tra
hình sự, Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.

3


- Nguyễn Văn Thƣợng: Quy định tách vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự
và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Kiểm sát, tháng 6/2005.
- Nguyễn Thái Phúc: Viện Kiểm sát hay Viện Cơng tố?, Tạp chí KHPL số 2
(39)/2007.
- Phạm Thanh Bình- Nguyễn Văn Yên: Những điều cần hiểu về bắt người,
tạm giữ, tạm giam… đúng pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1990.
- Phạm Mạnh Hùng: Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan
tới phân loại tội phạm, Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
- Trần Văn Thuận: Nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003.
- Trần Quang Tiệp: Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.
- Vũ Gia Lâm: Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
Các cơng trình khoa học nêu trên là nguồn tài liệu quý để tác giả luận văn

tham khảo, kế thừa. Riêng về nghiên cứu chuyên sâu đề tài áp dụng pháp luật trong
hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ cách tiếp cận của chuyên ngành Lý
luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật, liên hệ vào thực tiễn VKSND thành phố Hải
phòng đặt trong bối cảnh thi hành Hiến pháp năm 2013 và sửa đổi bổ sung bộ luật
tố tụng hình sự thì đến nay chƣa có cơng trình ở cấp độ luận văn, luận án luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích chính là lý giải đề xuất các quan điểm, giải pháp đảm
bảo chất lƣợng áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự. nghiên cứu làm rõ những đặc điểm cơ bản và yêu cầu đặt ra đối với việc xây
dựng đội ngũ kiểm sát viên chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức nhân văn, bảo vệ
quyền lợi ích của các cá nhân tổ chức.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở lý luận của áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp
luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự nói riêng.

4


- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các
vụ án hình sự của VKSND trên địa bàn thành phố Hải phòng những năm gần đây.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo chất lƣợng áp dụng pháp luật trong hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong hoạt động
KSĐT các vụ án hình sự.
- Các quan điểm, giải pháp đảm bảo chất lƣợng áp dụng pháp luật trong hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu đề tài trên từ góc độ của chuyên ngành Lý luận và lịch
sử nhà nƣớc và pháp luật, chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản
của áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự trên cơ sở lý luận
chung về áp dụng pháp luật và chức năng hiến định của VKSND. Về thực tiễn, luận
văn nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự ở VKSND thành phố Hải phòng.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn tiếp cận trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về bộ máy nhà nƣớc, về vai trò của VKSND bảo vệ quyền con ngƣời, quyền
công dân.
Tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản nhƣ: phân tích, tổng
hợp, điều tra xã hội học, so sánh vv….
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo đối với công tác
nghiên cứu lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các
vụ án hình sự của VKSND ở thành phố Hải phịng nói riêng và ở các địa phƣơng
khác nói chung.

5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng.
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải phòng.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp đảm bảo chất lƣợng áp dụng pháp luật

trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Áp dụng pháp luật - khái niệm, đặc điểm cơ bản
1.1.1. Áp dụng pháp luật – một trong những hình thức thực hiện pháp luật
Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là một
trong những loại hình áp dụng pháp luật nói chung. Do vậy, áp dụng pháp luật trong
hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự cũng có những đặc điểm chung nhƣ ở
các loại hình áp dụng pháp luật khác. Đồng thời, tất cả các loại hình áp dụng pháp
luật do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện ln có mỗi quan hệ mật
thiết, tác động lẫn nhau vì đều có chung mục đích, nhiệm vụ là thi hành pháp luật.
Xét trong phạm trù rộng lớn về thực hiện pháp luật thì áp dụng pháp luật là
một trong những hình thức thực hiện pháp luật và có nhiều đặc trƣng riêng.
Xây dựng pháp luật là hoạt động rất khó khăn phức tạp để phù hợp cuộc
sống. Song có thể nói, thực hiện các quy định pháp luật cịn phức tạp hơn bởi chịu
nhiều yếu tố tác động đến cả về khách quan và chủ quan. Ví dụ, đơi khi, việc áp
dụng pháp luật có sai sót có thể bắt nguồn từ sự sai sót trong chính bản thân các quy
định pháp luật.
Trong Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật, thực hiện pháp luật đƣợc
nhận thức là: "Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật [21].
Thực hiện pháp luật là những hành vi hợp pháp của cá nhân, tổ chức, phù

hợp lợi ích xã hội và của con ngƣời, phù hợp đạo đức xã hội. Cơ sở của những hành
vi hợp pháp là sự tự giác của con ngƣời, cũng có khi là dƣới áp lực của các chế tài
pháp luật, của dƣ luận xã hội, ảnh hƣởng của những ngƣời xung quanh.
Thực hiện pháp luật có vai trị to lớn, bởi đây chính là tính hiện thực của

7


pháp luật trong đời sống xã hội, trong hoạt động thực thi công vụ của các cơ quan
nhà nƣớc. Pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng, là cơng cụ điều chỉnh quan hệ xã
hội, đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc, phát huy đƣợc vai
trò của Nhà nƣớc trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đƣa xã hội phát triển.
Hiến pháp năm 2013 đƣợc Quốc hội nƣớc ta thông qua, đặc biệt thu hút sự quan
tâm của toàn xã hội về việc tổ chức thực hiện Hiến pháp năm 2013, để các quy định
của Hiến pháp nhất là các quy định ở chƣơng 2 “Quyền con ngƣời và quyền, nghĩa
vụ cơ bản của công dân” trở thành hiện thực trong cuộc sống. Trong đó, viện kiểm
sát nhân dân có vai trị và trách nhiệm vô cùng to lớn.
Pháp luật là công cụ hạn chế quyền lực nhà nƣớc hiểu theo nghĩa là phịng
chống sự can thiệp độc đốn, lạm quyền của nhà nƣớc vào cuộc sống cá nhân, hoạt
động kinh doanh. Pháp luật ràng buộc Nhà nƣớc, tránh cho Nhà nƣớc khỏi tình
trạng hoạt động tuỳ tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân. Pháp luật là phƣơng
tiện để thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của
Đảng trong cuộc sống.
Nhƣng hiệu lực thực tế của pháp luật lại nằm ở chính việc các quy định pháp
luật có đƣợc thực hiện hay khơng. Pháp luật chỉ thực sự phát huy đƣợc hiệu quả khi
các quy định của pháp luật do Nhà nƣớc đặt ra đƣợc chính các cơ quan Nhà nƣớc,
tổ chức xã hội và cơng dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm minh và tự giác.
Mục đích của việc ban hành văn bản pháp luật chỉ có thể đạt đƣợc khi các
quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc đặt ra đƣợc các tổ chức và cá nhân trong xã hội
thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Đối với hoạt động tố tụng hình sự điều này

lại càng có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nó tạo lập niềm tin cho con ngƣời vào công
lý. Trong nhà nƣớc pháp quyền, “các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật phải
đáp ứng những nguyên tắc cơ bản của quyền con người, không được tuỳ tiện
hoặc ngẫu nhiên, mà phải tuân theo các tiêu chuẩn đã định” [5].
Pháp luật phải đƣợc xây dựng và thực hiện trên cơ sở đạo đức tiến bộ của
nhân loại và đạo đức truyền thống của dân tộc. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trƣờng, vai trò của pháp luật đối với đạo đức và ngƣợc lại ngày càng gia tăng. Xã

8


hội ngày càng quan tâm đến cả đạo đức và pháp luật trong hành vi của con ngƣời,
kể cả của các cán bộ, công chức nhà nƣớc. Xử sự theo pháp luật, phù hợp với đạo
đức xã hội đã trở thành nguyên tắc pháp luật.
Xét về quy luật phát triển xã hội, xu hƣớng hiện nay là pháp luật ngày càng
ghi nhận nhiều hơn các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức truyền thống và đạo đức
tiến bộ. Quy phạm đạo đức có vai trị làm định hƣớng cho nhà làm luật trong việc
xác định tội phạm hoá hay phi tội phạm hoá các hành vi [46]. Pháp luật của nhà
nƣớc ta là một trong những hình thức bảo vệ, phát huy đạo đức, tạo điều kiện cho sự
hình thành những quan niệm mới những chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ loại bỏ
dần những quan niệm đạo đức cũ tiêu cực.
Cá nhân, cơ quan công quyền hay tất cả các chủ thể pháp luật khác đều có
thể thực hiện pháp luật bằng nhiều cách khác nhau phụ thuộc vào từng loại cơng
việc, quan hệ xã hộ mà họ có liên quan. Pháp đƣợc thực hiện đầy đủ, đúng đắn thì
các quyền con ngƣời, quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định mới đi vào cuộc
sống, đảm bảo trật tự, an toàn cho mọi hoạt động xã hội.
Trong nhà nƣớc pháp quyền, thực hiện pháp luật không chỉ nhằm bảo vệ
pháp luật mà điều đặc biệt quan trọng là bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân,
nhất là đối với những lĩnh vực dễ có khả năng vi phạm, chẳng hạn trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự. GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế đã nhấn mạnh vai trò của

thực hiện pháp luật trong nhà nƣớc pháp quyền:
Nhà nƣớc pháp quyền không chỉ cần một hệ thống pháp luật tốt
mà điều quan trọng hơn nữa là pháp luật phải đƣợc thực hiện trong đời
sống xã hội... Nhiều quy định pháp luật vì những lý do khác nhau khơng
đƣợc thực hiện trong thực tế. Có thể nhận thấy rằng, tình trạng khơng bị
xử lý hay xử lý khơng đúng, không công bằng đối với các hành vi vi
phạm pháp luật là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng vi
phạm pháp luật [20].
Nhiệm vụ của nhà nƣớc không chỉ là phải xây dựng hệ thống pháp luật hồn
thiện mà điều vơ cùng quan trọng nhƣng lại rất phức tạp, khó khăn đó là đảm bảo

9


cho quy định pháp luật đƣợc thực hiện. Muốn vậy, các quy định pháp luật phải rõ
ràng, minh bạch, thể hiện đƣợc quyền, lợi ích và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá
nhân, tổ chức, thẩm quyền cụ thể của các cơ quan nhà nƣớc.trong dân chủ hoá các
lĩnh vực hoạt động của cá nhân và xã hội.
Theo GS. TSKH. Đào Trí Úc, thực hiện pháp luật cịn đƣợc hiểu là:
Một quá trình thực hiện các quy định pháp luật, biến những quy
định ấy thành hành vi tuân theo pháp luật. Ở nghĩa đó, thực hiện pháp
luật cần đƣợc xem xét, đánh giá qua lăng kính của sự tƣơng tác giữa
nhiều tác nhân thuộc nhiều nhóm hoạt động khác nhau nhƣng trên cùng
một véc-tơ tác động vào ý thức và hành vi của chủ thể thực hiện pháp
luật hoặc hỗ trợ, xúc tác cho quá trình này [29].
- Các hình thức thực hiện pháp luật
Việc thực hiện pháp luật cũng rất đa dạng bởi có sự khác nhau về chủ thể,
về điều kiện, về lĩnh vực hoạt động xã hội. Khoa học pháp lý dựa vào tiêu chí
phân loại các loại quy phạm xã hội đã phân thành bốn hình thức thực hiện pháp
luật [8]. Cụ thể là:

- Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật (xử sự thụ động), là một
hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế khơng tiến
hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
Điều cấm của pháp luật là những điều mà nếu thực hiện sẽ gây ra những hậu
quả xấu, xâm phạm quyền, lợi ích của con ngƣời và xã hội. Ở đây, các chủ thể pháp
luật kiềm chế không thực hiện những hành vi bị cấm về mặt pháp luật. Bằng việc
tuân thủ pháp luật của các chủ thể pháp luật, các qui phạm pháp luật ngăn cấm đƣợc
tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Khơng chỉ có các cá nhân mà tất cả mọi chủ thể
pháp luật, tất cả các cơ quan nhà nƣớc, nhân viên Nhà nƣớc, các tổ chức, cá nhân và
mọi công dân trong xã hội đều phải tuân thủ pháp luật.
- Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật, là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình
bằng hành động tích cực trên cơ sở quy định pháp luật.

10


Đây là trƣờng hợp thực hiện các quy phạm pháp luật bắt buộc, những quy
phạm quy định nghĩa vụ phải thực hiện, thực hiện các hành vi tích cực nhất định để
đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích của con ngƣời.
So với tuân thủ pháp luật nêu trên thì ở hình thức chấp hành pháp luật, các
chủ thể bằng hành vi tích cực thực hiện quy định bắt buộc của pháp luật. Chủ thể
thực hiện pháp luật này là tất cả các cơ quan Nhà nƣớc, nhân viên Nhà nƣớc, các cá
nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
- Sử dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể đối với những hành vi mà pháp luật cho phép.
So với hai hình thức thực hiện pháp luật trên thì hình thức sử dụng pháp luật
có sự khác biệt, bởi vì ở đây, các chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không
thực hiện những quy định pháp luật, sử dụng hay khơng sử dụng quyền mà pháp
luật quy định. Ví dụ nhƣ quyền khiếu nại, quyền kết hôn vv... Chủ thể pháp luật sẽ

cân nhắc để lựa chọn theo ý chí của mình chứ khơng bị bắt buộc phải thực hiện.
Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực bằng các hành
vi cụ thể của các chủ thể pháp luật. Trong hình thức thực hiện pháp luật này, chủ
thể pháp luật còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, là
việc sử dụng các quyền năng pháp lý đƣợc pháp luật trao quyền. Nên về nguyên
tắc họ có quyền thực hiện hoặc khơng thực hiện các quyền của mình, pháp luật
khơng bắt buộc các chủ thể phải thực hiện nhƣ hai hình thức tuân thủ pháp luật
và chấp hành pháp luật.
Tuy vậy, xét theo yêu cầu nhà nƣớc pháp quyền,bảo vệ quyền con ngƣời thì
chúng ta cần đảm bảo điều kiện cần thiết để cho các cá nhân sử dụng quyền một
cách đúng pháp luật. Trong tâm lý ngƣời dân, về mặt truyền thống thì có sự e ngại,
thậm chí cịn có quan niệm trong dân gian" vơ phúc đáo tụng đình". Ngày nay,
trong xã hội dân chủ, việc sử dụng quyền để bảo vệ lợi ích chính đáng hay để kiến
nghị nhà nƣớc sửa đổi pháp luật, phòng chống tham nhũng là điều cần thiết. Chủ thể
thực hiện hình thức sử dụng pháp luật là tất cả các cơ quan Nhà nƣớc, nhân viên
Nhà nƣớc, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.

11


- Áp dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào
các quy định của pháp luật ra các quyết định áp dụng pháp luật trong những
trường hợp cụ thể, làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ
pháp luật cụ thể của đời sống xã hội.
Đây là một hình thức thực hiện pháp luật có tính chất đặc biệt về chủ thể
tiến hành, về quy trình thủ tục, về cơ chế đảm bảo so với ba hình thức nêu trên.
Đồng thời cũng là hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc. Điều đó thể hiện ở chỗ:
nếu nhƣ tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những

hình thức phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì ADPL là
hình thức đặc thù bởi ln có sự tham gia của Nhà nƣớc, thông qua các cơ quan
hoặc ngƣời có thẩm quyền.
Vai trị của áp dụng pháp luật rất quan trọng, bằng hoạt động này mà các
cơ quan nhà nƣớc có thể thực hiện đƣợc các chức năng của mình. ADPL là hình
thức thực hiện pháp luật, là phƣơng thức thực thi hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc về lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Đơn cử nhƣ áp dụng pháp luật trong
việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép xây dựng, xuất bản sách,
trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án.
- Mối quan hệ giữa các hình thức thực hiện pháp luật:
Tuy phân chia thành bốn hình thức pháp luật nêu trên, song trên thực tiễn
giữa chúng ln có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại. ngay trong ADPL,
cũng có sự tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật. Trong
hoạt động thực hiện pháp luật, sự phân biệt giữa hoạt động áp dụng pháp luật và
thi hành pháp luật cũng mang tính tƣơng đối. Các chủ thể chấp hành pháp luật và
áp dụng pháp luật cũng đều có trách nhiệm pháp lý và nghĩa vụ pháp lý. Giữa
các hình thức thực hiện pháp luật ln có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác
động qua lại với nhau, thấy rõ mối quan hệ này chúng ta có các biện pháp bảo
đảm cho việc thực hiện pháp luật đạt hiệu quả [16].

12


1.1.2. Đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật
Là một trong nhƣng hình thức thực hiện pháp luật, cho nên áp dụng pháp luật
cũng có chung những đặc điểm của tất cả các hình thức thực hiện pháp luật. Đồng
thời ADPL lại có nhiều đặc điểm riêng. ADPL vừa là một hình thức thực hiện pháp
luật, vừa là cách thức Nhà nƣớc tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật, bảo
đảm hiện thực hóa các quy định pháp luật, các quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức
trong cuộc sống.

- ADPL thể hiện tính quyền lực Nhà nước, tính tổ chức và sự tuân thủ
những thủ tục pháp luật nhất định
Tính chất quyền lực nhà nƣớc của áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, chủ thể
của áp dụng pháp luật chỉ có thể là các cơ quan nhà nƣớc, các cá nhân, tổ chức đƣợc
nhà nƣớc trao quyền nhằm thực thi quyền lực nhà nƣớc. Từng cơ quan Nhà nƣớc
hay nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền đƣợc tiến hành những hoạt động áp
dụng pháp luật nhất định. Ví dụ: Viện kiểm sát nhân dân có các quyền năng pháp lý
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: quyết định khởi tố vụ án hình sự (Điều
104); thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự (Điều 106); quyết định
khơng khởi tố vụ án hình sự (Điều 108); quyền hạn truy tố bị can vv…. Còn thẩm
quyền xét xử thì duy nhất là thuộc về Tịa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp.
Với tính chất này, ADPL khác so với các hình thức thực hiện pháp luật ở trên.
ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật thể hiện vai trị, trách nhiệm
của nhà nƣớc, thơng qua đó pháp luật đƣợc trở thành hiện thực, Nhà nƣớc thực
hiện đƣợc chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết hợp
với trật tự xã hội, bảo đảm cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc,
các công chức Nhà nƣớc trong khn khổ pháp luật. Điều này có lý do bởi trong
nhiều trƣờng hợp, các quy định của pháp luật khơng thể thực hiện nếu chỉ bằng
các hình thức tn theo pháp luật, thi hành pháp luật hoặc sử dụng pháp luật.
- ADPL là hoạt động có tính sáng tạo
Tính sáng tạo trong ADPL phải nằm trong giới hạn của pháp luật, ví dụ
trong việc xác định mức xử phạt, giữa mức tối đa và tối thiểu, ngƣời cán bộ áp

13


dụng pháp luật cần cân nhắc tất cả các tình tiết vụ việc để đƣa ra quyết định đúng
đắn, hợp lý và nhân văn nhất. Trong ADPL, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nƣớc
phải xem xét, phân tích, đánh giá tồn diện, khách quan mọi khía cạnh tình tiết của
sự việc, sau đó căn cứ vào các yêu cầu của quy phạm pháp luật thực định để ra

quyết định áp dụng pháp luật cụ thể.
Hoạt động áp dụng pháp luật có thể bị ảnh hƣởng bởi ý thức chủ quan của
ngƣời áp dụng pháp luật, nhƣng kết quả của các quyết định ADPL mà họ đƣa ra
phải trong khuôn khổ của căn cứ pháp luật làm họ áp dụng. Ngƣời cán bộ áp dụng
pháp luật phải lựa chọn những xử sự theo yêu cầu luật định chứ không phải ý muốn
của mình. Chủ thể áp dụng pháp luật khơng chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật
thực định mà cịn căn cứ vào tình hình thực tế, vào lẽ phải để có thể đƣa ra quyết
định đúng đắn,sáng suốt nhất, hợp lý nhất nhƣng vẫn trong giới hạn của pháp luật
mà họ phải áp dụng.
Điều này đòi hỏi kinh nghiệm, trình độ và văn hóa pháp luật của chủ thể áp
dụng pháp luật. ADPL thể hiện sự khác biệt so với các hình thức thực hiện pháp
luật khác qua việc các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền, cá nhân hay nhóm cá
nhân đƣợc Nhà nƣớc trao quyền luôn luôn chủ động trong việc ADPL, nghĩa là
việc thực hiện ADPL là nghĩa vụ của chủ thể có quyền. Yêu cầu đối với chủ thể
có thẩm quyền áp dụng pháp luật là phải nghiên cứu kỹ lƣỡng, phân tích, đánh giá
khách quan, toàn diện sự việc, làm sáng tỏ các cấu thành pháp lý của nó để lựa chọn
các quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Ví dụ, khi xét xử
một vụ án hình sự, địi hỏi ngƣời thẩm phán phải nghiên cứu vụ án một cách toàn
diện, đánh giá các chứng cứ, đảm bảo sự tranh tụng khách quan, để từ đó làm sáng
tỏ các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm, thuộc tội danh nào theo quy định của
BLHS và ra bản án phù hợp đối với ngƣời phạm tội.
ADPL là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền, là
việc thi hành pháp luật của các cơ quan ngƣời có thẩm quyền trong thực hiện
quyền lực Nhà nƣớc nói chung. Bản thân ADPL cũng chứa đựng dấu hiệu, đặc
điểm của các hình thức thực hiện pháp luật khác là tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật và sử dụng pháp luật.

14



- ADPL phải tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định
Tuân thủ quy trình thủ tục pháp lý đó là yêu cầu, là đặc điểm quan trọng của
áp dụng pháp luật. Không chỉ trong xét xử, điều tra, hay xử phạt hành chính, mà cả
trong việc giải quyết công việc, áp dụng pháp luật đối với cá nhân, tổ chức nói
chung. Bởi có nhƣ vậy thì mới hạn chế dƣợc sai sót, và mới đảm bảo đƣợc sự công
bằng, khách quan trong hoạt động áp dụng pháp luật. Do tính chất quan trọng và
phức tạp của hoạt động áp dụng pháp luật, nên các văn bản pháp luật phải quy định
đầy đủ, rõ ràng quy trình, thủ tục thực hiện quy định pháp luật về nội dung, về
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật.
GS. TSKH. Đào Trí Úc đã khẳng định yêu cầu tuân thủ quy trình, thủ tục
trong áp dụng pháp luật nhƣ sau:
Áp dụng pháp luật trong Nhà nƣớc pháp quyền địi hỏi bảo đảm
tính cơng khai, minh bạch. Do vậy, thủ tục chặt chẽ, trình tự nghiêm ngặt
(thủ tục tố tụng, thủ tục hành chính v.v…) là đặc trƣng quan trọng của
hình thức thực hiện pháp luật này so với các hình thức đã nêu trên, trong
số đó, tính chặt chẽ cao nhất thuốc về quá trình áp dụng pháp luật trong
hoạt động tƣ pháp [29].
Thủ tục đơn giản hay phức tạp phụ thuộc vào tính chất, mức độ quan trọng
của việc áp dụng pháp luật. Trong lĩnh vực hành chính, thủ tục pháp lý đơn giản
hơn so với trong lĩnh vực hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đơn cử, cảnh sát giao
thông xử phạt ngƣời điều khiển xe máy vƣợt đèn đỏ, thì thủ tục xử phạt hành chính
rất đơn giản, trong khi đó, xử phạt đối ngƣời phạm tội thì trình tự thủ tục tố tụng rất
chặt chẽ, phải qua các khâu điều tra, truy tố, xét xử, với sự tham gia của cơ quan
điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật chính xác hơn.
Tính sáng tạo trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt thủ tục pháp lý, đó là đặc điểm
cơ bản của áp dụng pháp luật [8]. Khi có sự kiện pháp luật hình sự sẽ phát sinh quan
hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, khi đó hoạt động giải quyết
án hình sự đƣợc bắt đầu bằng việc khởi tố vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động điều
tra, thơng qua kết quả của hoạt động điều tra, Viện kiểm sát tiến hành hoạt động truy


15


tố, sau khi Viện kiểm sát truy tố, Toà án tiến hành hoạt động xét xử. Các cơ quan trên
khi thực hiện nhiệm vụ theo chức năng của mình và theo trình tự, phạm vi thẩm quyền
nhất định trong giải quyết vụ án hình sự phải tuân theo quy định của BLTTHS.
- ADPL hoạt động điều chỉnh có tính chất cá biệt
Đối tƣợng của ADPL là những cá nhân, tổ chức cụ thể trong những vụ việc cụ
thể. ADPL đƣợc tiến hành dựa trên các quy phạm pháp luật nhất định để giải quyết
vụ việc cụ thể, làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định
đƣợc cá biệt hóa vào trong những trƣờng hợp cụ thể của đời sống xã hội. Kết quả
của ADPL là cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật,
văn bản pháp luật cá biệt dƣới dạng các quyết định, bản án....Chẳng hạn, một ngƣời
phạm tội, cố ý gây thƣơng tích cho một ngƣời khác, khi đó cần áp dụng pháp luật về
điều tra, truy tố, xét xử. Cơ quan xét xử phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật
trong bộ luật hình sự đề đƣa ra bản án xác định tội danh và hình phạt tƣơng ứng đối
với chủ thể phạm tội.
- Các trường hợp cần tiến hành áp dụng pháp luật
Hoạt động áp dụng pháp luật đƣợc tiến hành trong những trƣờng hợp sau đây:
Trƣờng hợp 1: Khi cần áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý đối
với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, chỉ có tịa án mới có
thẩm quyền xét xử, quyết định tội danh và hình phạt đối với ngƣời phạm tội theo
quy định của BLHS. Cơ quan cơng an có thẩm quyền xử phạt ngƣời khơng đăng ký
tạm trú, tạm vắng theo quy định vv....
Trƣờng hợp thứ hai, áp dụng pháp luật cần thiết khi các những quyền và
nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi, chấm dứt nếu
thiếu sự can thiệp của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Chẳng hạn, cơ quan
hành chính áp dụng các quy định pháp luật về cấp giấy phép kinh doanh theo quy
định, cơ quan lao động, thƣơng binh và xã hội áp dụng pháp luật về chính sách đối

với ngƣời có cơng vv...
Kết quả áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc đƣợc thể hiện ở văn bản

16


pháp luật cá biệt, xác định cụ thể quyền, nghĩa vụ đối với các chủ thể. Trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình, bằng quyết định đăng ký kết hơn của các cơ quan hộ tịch
trên cơ sở áp dụng pháp luật sẽ dẫn đến phát sinh quan hệ pháp luật giữa các chủ thể
liên quan. Thiếu hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan hộ tịch, rõ ràng là
không làm phát sinh quan hệ pháp lý vợ chồng đối với các chủ thể cụ thể mặc dù đã
có pháp luật quy định về quyền kết hơn.
Trong trƣờng hợp thứ ba, khi xẩy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý
giữa các chủ thể quan hệ pháp luật nhất định mà các bên đó khơng tự giải quyết
đƣợc. Cơ quan nhà nƣớc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể.
Trƣờng hợp thứ tƣ, áp dụng pháp luật cần thiết để các cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện pháp
luật của các chủ thể trong xã hội, hoặc xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của
một số sự việc, sự kiện thực tế nào đó [15]. Ví dụ, các cơng chứng viên của phịng
cơng chứng nhà nƣớc chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng
giao dịch.
1.2. Nhận thức chung về hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của điều tra vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân có vai trị và trách nhiệm đặc biệt quan trọng trong
cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nƣớc nói chung, trong tất cả các giai đoạn tố tụng
hình sự nói riêng. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Đáp ứng yêu cầu thi hành Hiến pháp năm 2013, tiếp tục công cuộc cải cách

tƣ pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đƣợc Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 24/11/2014 gồm 6 chƣơng, 101 điều với những bổ sung, sửa đổi
quan trọng về tổ chức và hoạt động của VKSND, khẳng định rõ nét hơn về hai chức
năng hiến định của VKSND. VKSND thực hành quyền công tố để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội. Đồng thời, VKSND có chức năng

17


kiểm sát hoạt động tƣ pháp để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tƣ pháp nói chung, trong điều tra vụ
án hình sự nói riêng.
Để làm rõ đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự, trƣớc hết cần đề cập đến khái niệm điều tra hình sự.
Khái niệm điều tra vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm.Trong lĩnh vực phòng,
chống tội phạm, điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm [13].
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, có nội
dung là cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến
hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu
các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện tội phạm, ngƣời có lỗi trong việc thực hiện
tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, bảo đảm cho việc bồi thƣờng thiệt hại
về vật chất do tội phạm gây nên, trên cơ sở đó quyết định: đình chỉ điều tra vụ án
hình sự hoặc, chuyển tồn bộ các tài liệu của vụ án cho Viện kiểm sát kèm theo kết
luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
Theo GS. TSKH. Lê Cảm thì:
Bản chất pháp lý của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là cơ quan
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng
minh việc thực hiện tội phạm và ngƣời phạm tội, xác định rõ những
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và

tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng
ngừa tội phạm [2].
Điều tra các vụ án hình sự là một giai đoạn của q trình tố tụng hình sự do
Cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự để tiến hành nhằm thu thập đầy đủ
chứng cứ chứng minh về tội phạm. Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp sau của giai
đoạn khởi tố đƣợc tiến hành trên cơ sở quyết định khởi tố của cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền.
Với tƣ cách là một giai đoạn của tố tụng hình sự, điều tra hình sự là hoạt

18


×