Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với hợp tác xã ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN SINH

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG DÔI DƯ DO I MI V SP
XP LI DOANH NGHIP NH NC

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2007

I HC QUC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN SINH

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG DÔI DƯ DO ĐỔI MỚI VÀ SẮP
XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. Nguyễn Hữu Viện



Hµ néi - 2007


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: QUAN NIỆM VỀ VIỆC LÀM VÀ CHÍNH SÁCH PHÁP

6

LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

1.1.

Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm trên thế giới
và theo pháp luật Việt Nam

6

1.1.1.

Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm của Tổ chức

Lao động Quốc tế (ILO)

6

1.1.2.

Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm theo pháp
luật Việt Nam

8

1.2.

Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

12

1.2.1.

Việc làm trong nền kinh tế thị trường

12

1.2.2.

Giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay

13


1.3.

Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động

16

1.3.1.

Pháp luật lao động về việc làm

16

1.3.2.

Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động theo quy
định của pháp luật lao động

20

Chương 2: Thực trạng chính sách, pháp luật giải quyết việc làm cho

26

lao động dôi dư ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

2.1.

Quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và tác

động của nó tới lao động dôi dư

26


2.1.1.

Sự cần thiết phải đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà
nước trong giai đoạn hiện nay

26

2.1.2.

Những tác động của việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
đến vấn đề lao động dơi dư

35

2.2.

Thực trạng chính sách, pháp luật về giải quyết việc làm cho
lao động dôi dư do đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà
nước

39

2.2.1.

Các chính sách đối với người lao động trong giai đoạn trước

khi ban hành Nghị định số 110/NĐ-CP ngày 26 tháng 06
năm 2007

40

2.2.1.1. Giai đoạn 1986 - 1994

40

2.2.1.2. Giai đoạn 1995 - 2002

42

2.2.1.3. Giai đoạn từ 2002 đến hết 25/9/2007

42

Chính sách, pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động
dôi dư trong giai đoạn hiện nay

42

2.2.2.1. Phạm vi áp dụng chính sách pháp luật cho lao động dôi dư
do đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước

42

2.2.2.2. Đối tượng áp dụng chính sách, pháp luật cho lao động dơi
dư do đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước


46

2.2.2.3. Chính sách, pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động
dôi dư đang thực hiện hợp đồng lao động khơng xác định
thời hạn

47

2.2.2.4. Chính sách, pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động
dôi dư đang thực hiện hợp đồng lao động xác định thời hạn
từ 12 tháng đến 36 tháng

50

2.2.2.5. Tình hình giải quyết chế độ chính sách cho đối tượng lao
động dơi dư thơng qua các quỹ hỗ trợ

53

2.3.

Kết quả của chính sách pháp luật giải quyết việc làm cho lao
động dôi dư và những tồn tại khó khăn cần khắc phục

54

2.3.1.

Kết quả chính sách pháp luật nhằm giải quyết việc làm cho


54

2.2.2.


lao động dơi dư
2.3.2.

Một số tồn tại, khó khăn trong công tác giải quyết việc làm
cho lao động dôi dư trong giai đoạn hiện nay

59

Chương 3: Kiến nghị một số phương hướng và giải pháp hồn thiện

65

chính sách, pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động
dôi dư trong thời gian tới

3.1.

Định hướng cải cách doanh nghiệp Nhà nước và mục tiêu giải
quyết việc làm cho lao động dôi dư trong giai đoạn hiện nay

65

3.2.

Kiến nghị một số giải pháp về chính sách, pháp luật nhằm

giải quyết việc làm có hiệu quả cho lao động dơi dư trong
thời gian tới

66

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế là mối quan tâm
hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển và có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào như ở Việt Nam.
Ở nước ta, kể từ khi có chủ trương đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh, trong đó
có vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động dôi dư. Nếu như
trước thời kỳ đổi mới, việc làm cho người lao động chủ yếu do Nhà nước
phân cơng thì sau đổi mới, "giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có
khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước,
của các doanh nghiệp và tồn xã hội" [7]. Trong bối cảnh đó, cùng với sự gia
tăng nguồn nhân lực xã hội, sắp xếp lại sản xuất và tinh giảm biên chế trong
khu vực hành chính sự nghiệp v.v..., nhu cầu về việc làm và giải quyết việc

làm của người lao động dôi dư ngày càng trở nên cấp thiết. Đây chính là cơ sở
để hình thành các chính sách, pháp luật về vấn đề lao động dôi dư do đổi mới
và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay, hệ thống các chính sách, pháp luật về vấn đề giải quyết chế
độ chính sách cho đối tượng lao động dôi dư do đổi mới và sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước đã tương đối đầy đủ, và đã áp dụng được một thời gian, tạo
điều kiện thuận lợi cho cả doanh nghiệp và người lao động, góp phần thúc đẩy
q trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và ổn định đời sống cho người
lao động dôi dư.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay đứng trước sự biến động và sự
phát triển của thị trường lao động trong và ngoài nước, các doanh nghiệp thực
hiện chuyển đổi và người lao động dôi dư đã gặp khơng ít khó khăn, thách

1


thức như: trình độ người lao động dơi dư cịn thấp, sự am hiểu về thị trường
lao động còn yếu và nhiều bất cập, nhiều chủ trương, chính sách chưa đáp
ứng được yêu cầu của người lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực giải quyết
việc làm, trao đổi, cung cấp thông tin về lao động và việc làm, vấn đề đào tạo
nghề... Điều này là do nhận thức về tầm quan trọng của những chính sách giải
quyết việc làm cho người lao động dơi dư trong q trình đổi mới và sắp xếp
lại doanh nghiệp nhà nước còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; một số địa
phương, các cơ quan, tổ chức và các cấp lãnh đạo chưa thực sự quan tâm thực
hiện, bố trí đủ và kịp thời kinh phí cho các hoạt động có liên quan; thiếu chính
sách đồng bộ và dài hạn, chính sách cán bộ, chính sách tài chính…
Từ thực trạng trên cho thấy việc nghiên cứu những vấn đề về lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết chế độ,
chính sách đối với lao động dơi dư nhằm góp phần hồn thiện các quy định
của pháp luật lao động về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động dôi dư là

một việc làm hết sức cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác giả đã lựa
chọn đề tài "Pháp luật về giải quyết việc làm cho lao dộng dôi dư do đổi mới
và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề giải quyết việc làm cho lao động dơi dư đã có
một số bài viết trên các báo, tạp chí về chính sách đối với lao động dơi dư,
tình hình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước như: "Chính sách đối với lao
động dơi dư trong sắp xếp và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước" của
tác giả Nguyễn Đại Đồng, Vụ Lao động - Việc làm, đăng trên tạp chí Lao
động và Xã hội, số 189, từ ngày 16-30/4/2002; của tác giả Ngô Văn Giang,
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đăng trên tạp chí Lao động và
Xã hội, số 189, từ ngày 16-30/4/2002; "Những kết quả ban đầu thực hiện nghị
định số 41/CP" của tác giả Phạm Thị Là, Vụ Lao động - Việc làm, đăng trên
tạp chí Lao động và Xã hội, số 242, từ ngày 1-15/7/2004; "Năm năm thực

2


hiện chính sách đối với lao động dơi dư ngành xây dựng" của tác giả Nguyễn
Thế Việt, Vụ Tổ chức Cán bộ - Bộ Xây dựng, đăng trên tạp chí Lao động và
Xã hội, số 294, từ ngày 1-15/9/2006; "Cần gia hạn việc thực hiện chính sách
đối với lao động dôi dư" của tác giả Đặng Quang Điều, Tổng Liên đồn Lao
động Việt Nam, đăng trên tạp chí Lao động và Xã hội, số 272, từ ngày 115/10/2005. Và một số các bài viết liên quan đến hoạt động cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên
cứu chun sâu về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động dôi dư dưới
phương diện pháp luật và kinh tế - xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật lao động về vấn đề giải quyết chính sách, pháp

luật cho lao động dơi dư, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật lao động về vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về việc làm và
giải quyết việc làm, thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật đối với hoạt động giải quyết chế độ, chính sách, giải quyết việc làm cho
lao động dôi dư; những yêu cầu và các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về tổ chức thực hiện chế độ, chính sách cho lao động dơi
dư hiện nay.
- Luận giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn về việc làm và giải
quyết việc làm hiện nay ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng và đánh giá tình hình thực hiện các quy định của
pháp luật về vấn đề đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp
nhà nước hiện nay ở nước ta.
- Trên cơ sở các vấn đề nghiên cứu ở trên đưa ra giải pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về tổ chức thực hiện chế độ, chính sách cho lao động
dôi dư hiện nay ở nước ta.

3


Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình giải quyết chế độ, chính sách
cho lao động dơi dư theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay trong phạm vi
cả nước, nhất là trong những năm gần đây.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của
Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về tổ chức thực hiện chế độ, chính

sách cho lao động dơi dư cũng như các vấn đề khác có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học chuyên
ngành và liên ngành, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, khảo sát và tổng kết thực tiễn.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về "chế độ, chính sách giải quyết

việc làm cho lao động dôi dư" theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay.
- Đây là luận văn mà tác giả đã cố gắng để xin có một số đóng góp
mới sau đây:
+ Luận giải khái niệm việc làm và giải quyết việc làm theo quan niệm
của thế giới và Việt Nam;
+ Phân tích thực trạng của pháp luật về giải quyết các chế độ trợ cấp
và chính sách giải quyết việc làm cho lao động dôi dư do quá trình đổi mới và
sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước;
+ Nêu ra một số định hướng và giải pháp về giải quyết việc làm cho
lao động dôi dư ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.

4


Chương 1: Quan niệm về việc làm và chính sách pháp luật về giải
quyết việc làm ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng chính sách, pháp luật giải quyết việc làm cho
lao động dôi dư ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Chương 3: Kiến nghị một số phương hướng và giải pháp hồn thiện
chính sách pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động dôi dư trong thời
gian tới.


5


Chương 1
QUAN NIỆM VỀ VIỆC LÀM VÀ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. QUAN NIỆM VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRÊN
THẾ GIỚI VÀ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1.1 . Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm của Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO)
Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organazation- ILO)
được thành lập vào năm 1919 với mục tiêu chống thất nghiệp và bảo đảm tiền
lương đủ để duy trì cuộc sống cho người lao động trên toàn thế giới. Vấn đề
việc làm và chống nạn thất nghiệp là các nội dung chính và quan trọng trong
các diễn đàn và chương trình nghị sự của tổ chức này được tổ chức hàng năm
trên toàn thế giới.
Năm 1976 được đánh dấu là năm có sự kiện quan trọng của Tổ chức
Lao động Quốc tế về việc đã tổ chức thành công "Hội nghị về việc làm quốc
tế" và thông qua bản tuyên ngôn về các nguyên tắc và chương trình hành
động nhằm loại trừ nghèo khổ, phát triển việc làm đầy đủ, có hiệu quả, thỏa
mãn nhu cầu cuộc sống cho người lao động.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế người có việc làm là người làm một
việc gì đó được trả tiền cơng, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật,
hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm
vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình khơng được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Các công ước của ILO về mặt pháp lý có tính chất khuyến nghị về các chính
sách việc làm, thất nghiệp, cũng như điều kiện lao động cho các quốc gia

tham gia công ước. Ngồi ra, nó cịn có tính chất định hướng cho các quốc gia

6


trong việc xây dựng các quy định của pháp luật lao động về vấn đề việc làm
và lựa chọn việc làm.
Trong thời gian vừa qua, ILO đã thể hiện được các tác động tích cực
trong việc kêu gọi các nước thành viên khi giải quyết việc làm phải hướng tới
các cấp độ hiệu quả khác nhau như Công ước số 122, năm 1964 về chính sách
việc làm, ILO kêu gọi các quốc gia thành viên khi giải quyết việc làm thì phải
hướng tới các cấp độ hiệu quả khác nhau: việc làm đầy đủ, việc làm có hiệu
quả và tự do lựa chọn việc làm. Theo Công ước này:
+ Việc làm đầy đủ là sự thỏa mãn nhu cầu tìm việc làm của những
người có khả năng lao động trong xã hội, là sự giải quyết về mặt số lượng;
+ Việc làm hiệu quả là việc làm phù hợp với nguyện vọng, trình độ,
khả năng của người lao động được tự do lựa chọn việc làm, là khả năng mà
người lao động cống hiến được nhiều nhất năng lực của mình đem lại hiệu
quả cao nhất và tự do lựa chọn việc làm với thời gian và điều kiện làm việc
phù hợp nhất. Tự do lựa chọn việc làm là giai đoạn phát triển cao nhất của
chính sách việc làm ở mỗi quốc gia và là mục tiêu mà các quốc gia và Chính
phủ của các quốc gia hướng tới.
ILO còn đưa ra khái niệm "việc làm nhân văn" được xuất phát từ việc
đấu tranh cho sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về vấn đề việc làm, nhằm
tạo sự bình đẳng về việc làm và mang lại chất lượng việc làm cao hơn. Khái
niệm "việc làm nhân văn" là khá mới mẻ và là khái niệm chứa đựng nhiều giá
trị tốt đẹp cho việc ra các quyết định, chính sách về việc làm của ILO và các
quốc gia trong những năm gần đây, là một bước tiến lớn và đánh dấu sự thay
đổi to lớn về nhận thức của loài người về vấn đề việc làm. Các đại biểu ở
cuộc họp khu vực châu Á lần thứ 13 của ILO tổ chức tại Bangkok năm 2001

đã công nhận tầm quan trọng của việc làm nhân văn trong cải thiện chất lượng
cuộc sống của người lao động trong khu vực và hỗ trợ phát triển kinh tế của
các nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Hội nghị đã khuyến nghị các nước

7


thành viên xây dựng chương trình hành động quốc gia về Việc làm nhân văn
thông qua cơ chế ba bên với 4 cấu phần là quyền tại nơi làm việc, cơ hội có
việc làm chất lượng, bảo đảm xã hội và đối thoại xã hội.
Các quốc gia khác nhau trên thế giới đều coi trọng vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động và là vấn đề có tính chiến lược, có tầm quan
trọng đặc biệt trong xã hội. Ở một số quốc gia, nếu một chính trị gia muốn
thắng cử trong các cuộc vận động tranh cử bao giờ họ cũng phải đưa ra được
vấn đề giải quyết việc làm trong chương trình hoạt động tranh cử. Các tổng
thống Mỹ muốn được tái đắc cử bao giờ cũng phải nêu ra được các biện pháp
giải quyết việc làm, chính sách lao động và tiền lương cũng như điều kiện làm
việc tốt hơn trước kia cho người lao động.
ILO cũng đã thông qua nhiều Công ước và khuyến nghị nhằm giải
quyết tốt hơn việc làm cho người lao động. Điển hình là Cơng ước số 88 và
Khuyến nghị số 83 đã quy định về những tiêu chuẩn, chức năng và việc tổ
chức các trung tâm dịch vụ việc làm ở các quốc gia. Về chính sách việc làm
đã có Công ước số 122, về hoạt động xúc tiến việc làm và bảo vệ thất nghiệp
có Cơng ước số 163 v.v...
Như vậy, cho đến thời điểm này, quốc tế và từng quốc gia đã xác định
được vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề cơ bản trong đời sống
kinh tế - xã hội, mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động là mục tiêu
cơ bản và hướng tới của các quốc gia.
1.1.2 . Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm theo pháp luật
Việt Nam

Khái niệm việc làm theo pháp luật nước ta được nhìn nhận khác nhau
qua các giai đoạn của nền kinh tế đất nước. Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập
trung trước đây, mục tiêu của chúng ta là xây dựng xã hội dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, trong xã hội chỉ duy trì hai hình thức sở hữu căn

8


bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Mọi người đều có việc làm, Nhà
nước khơng thừa nhận có người thất nghiệp và khái niệm thất nghiệp, mọi
người đến tuổi lao động đều được bố trí việc làm trong các doanh nghiệp, hợp
tác xã, tổ hợp tác, nông, lâm trường. Mọi người làm việc và hưởng thụ theo
sự phân cơng, bố trí và chế độ tem phiếu của Nhà nước. Điều này đã được thể
hiện tại Điều 58 Hiến pháp 1980: Mọi cơng dân đều có quyền có việc làm,
Nhà nước phải có nghĩa vụ cam kết bảo đảm việc làm đầy đủ cho người dân
thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Nhà nước có trách nhiệm tạo việc
làm và bảo đảm cho công dân có chỗ làm việc theo chế độ biên chế suất đời,
thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề
mang tính khẩu hiệu, lý thuyết cịn trên thực tế thì các quy định này đã không
bao giờ thực hiện được và chúng ta đã phải nhìn nhận lại để chuyển đổi nền
kinh tế cho phù hợp với các quy luật khách quan, theo cơ chế thị trường, quy
luật cung cầu và giá trị.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 được đánh dấu một bước
chuyển đổi căn bản nền kinh tế nước ta. Chúng ta đã mạnh dạn và quyết tâm
chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung sang mơ hình của nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Từ đây, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm đã
được nhìn nhận lại đúng với bản chất vốn có của nó. Lao động, việc làm được
coi là một quyền chính đáng và cơ bản của công dân và được Hiến pháp năm
1992 đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25
tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992)

tại Điều 55 đã ghi nhận: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân" 6, tr.
32. Từ đây, vấn đề việc làm đã được nhìn nhận đầy đủ và khách quan hơn.
+ Quan niệm về việc làm đầy đủ đã được thay thế bằng việc Nhà nước
có trách nhiệm ngày càng tạo ra nhiều việc làm mới trong xã hội, trở thành
mục tiêu trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội "Nhà nước và xã hội
có kế hoạch tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động" 6, tr. 32.

9


+ Vấn đề cơng dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật đã được thể hiện trong Hiến pháp, đồng thời pháp luật cũng quy định mọi
người phải có ý thức tự tìm việc làm cho bản thân và vì cuộc sống của bản
thân mình. Nhà nước cũng khuyến khích các hoạt động tạo ra được nhiều việc
làm cho xã hội. Nếu như quan niệm trước đây chỉ có những người lao động
làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh mới được coi là có việc làm thì
ngày nay quan niệm này đã thay đổi: "Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" 7, tr. 15.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý và khoa học thì khái niệm việc làm theo
Bộ luật Lao động đã xóa bỏ quan niệm trước đây về vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm, thể hiện được tính chất của một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Nếu các quy định pháp luật lao động trong nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung mang nặng tính bao cấp, phân bổ và bố trí của Nhà nước về vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động thì các quy định mới theo Bộ luật
Lao động, Nhà nước chỉ có trách nhiệm ở tầm vĩ mơ, Nhà nước cũng chỉ là
một trong các chủ thể có trách nhiệm trong việc giải quyết việc làm cho người
lao động cần việc: "Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng
lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các
doanh nghiệp và toàn xã hội" 6, tr. 15.
Điều 14 Bộ luật Lao động quy định:

+ Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính,
cho vay vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích
khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức,
đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới
nhằm tạo việc làm cho nhiều người lao động.
+ Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và
sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số.

10


+ Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, bao gồm cả người Việt Nam định
cư ở nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm
cho người lao động.
Vấn đề giải quyết việc làm đã được cụ thể hóa bằng các văn bản dưới
luật quy định chi tiết và hướng dẫn cho từng đối tượng, quy định nghĩa vụ và
trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các hoạt động giải
quyết việc làm. Cụ thể là Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định số
39/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 04 năm 2003 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về việc làm như phân định thẩm
quyền cho các bộ ngành có liên quan trong việc hướng dẫn và thực thi các
chính sách pháp luật lao động trong tình hình mới nhằm giải quyết một cách
đầy đủ, hiệu quả và khoa học.
Tóm lại, dưới góc độ pháp lý, việc làm được hiểu là hoạt động hợp
pháp, tạo ra thu nhập chính đáng nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân, quan niệm
việc làm cũng bao hàm cả việc làm của những người nội trợ gia đình, tuy họ
khơng tạo ra nguồn thu nhập trực tiếp nhưng cũng được pháp luật thừa nhận
là việc làm vì nó đã gián tiếp tạo ra nguồn thu nhập góp phần vào việc ổn định

gia đình và xã hội. Người lao động có quyền tự do lựa chọn việc làm phù hợp
với nguyện vọng và sở trường của mình, họ cũng có quyền tự do giao kết hợp
đồng lao động và làm nhiều công việc khác nhau miễn là không ảnh hưởng
đến nhau và không vi phạm các điều cấm của pháp luật. Ngược lại, người sử
dụng lao động cũng có quyền tự do tuyển dụng lao động và chấm dứt hợp
đồng lao động với bất cứ ai trong phạm vi và giới hạn pháp luật khơng cấm.
Họ cũng có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức giới thiệu việc làm để
tuyển chọn lao động vào làm việc, quan điểm này đã đáp ứng các yêu cầu của
nền kinh tế thị trường, các quy luật của thị trường lao động và có tác động
tích cực đối với nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề việc

11


làm và lao động đã được luật hóa và việc giải quyết việc làm dưới góc độ
pháp lý chính là việc Nhà nước ban hành các chính sách để thực thi pháp luật
lao động về việc làm bằng các cơ chế pháp luật góp phần tạo ra việc làm cho
người lao động, đảm bảo đời sống cho họ cũng như góp phần ổn định an ninh,
chính trị, trật tự xã hội, đưa đất nước ta ngày càng giàu đẹp, nhân dân ấm no,
hạnh phúc.
1.2 VẤN ĐỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.2.1. Việc làm trong nền kinh tế thị trường
Việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội thông thường liên quan
đến đời sống của người lao động, mà cần được xem là vấn đề có tính chính
trị, pháp lý quan trọng liên quan đến sự ổn định xã hội, xuất phát từ quan
điểm: mọi cơng dân đều có việc làm, có nghĩa vụ phải làm việc và nhà nước
sẽ đảm bảo đầy đủ chỗ làm việc cho người lao động. Vì vậy, ở Việt Nam đã
từng tồn tại những quan điểm khác nhau về việc làm. Trước đây, khi nói đến

việc làm thì người ta thường nghĩ ngay đến việc vào biên chế nhà nước, đi
làm cơng nhân, thốt ly khỏi nơng nghiệp,... Biên chế nhà nước một thời được
coi như một giá trị đảm bảo cho vị thế xã hội. Ngoài biên chế nhà nước thì
mọi hoạt động dù rất có ích cho bản thân và cho xã hội cũng chỉ là bậc thang
dưới, phi chính thống, thậm chí cịn bị coi là tiêu cực, lạc hậu. Với quan điểm
như vậy nên vấn đề việc làm của người lao động được giải quyết theo kiểu
"bao cấp" của nhà nước. Nhà nước là người duy nhất chịu trách nhiệm tổ
chức việc làm và đời sống cho người lao động, từ đó nảy sinh "chế độ biên
chế suốt đời" gây ra hậu quả kinh tế - xã hội nặng nề và kéo dài.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động, giao dịch đều dựa vào
quy luật cung - cầu, quy luật thị trường, giá cả để điều tiết các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Ở đây, thị trường lao động là một loại thị trường tự do cũng

12


khơng nằm ngồi các quy luật đó. Thị trường có cầu thì phải có cung, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến công ăn việc làm của người lao động. Trước kia, khi
chúng ta chưa có nền kinh tế thị trường thì Nhà nước chịu trách nhiệm về việc
làm cho người lao động, danh nghĩa mọi người đều có việc làm, trong xã hội
khơng có hiện tượng thất nghiệp, và chúng ta khơng có thị trường lao động
tức là khơng có hiện tượng mua bán sức lao động, trả công lao động, khơng
có ơng chủ và người làm th.
Trong nền kinh tế thị trường, việc làm thường xuyên thay đổi, người
lao động thường xuyên phải thay đổi chỗ làm việc do nhiều nguyên nhân khác
nhau, do thay đổi cơ cấu, tác động của nền kinh tế đến chỗ làm, hiện tượng
thất nghiệp và mất chỗ làm diễn ra thường xuyên hơn, người lao động phải
chịu nhiều sức ép, phải cạnh tranh nhiều hơn để giữ được chỗ làm có mức
lương cao hơn. Trong khi đó, người sử dụng lao động cũng tìm cách để khai
thác sử dụng sức lao động một cách hiệu quả nhằm tạo ra nhiều giá trị kinh tế,

cũng như hạn chế các chi phí phát sinh. Trái lại, với những hiện tượng tiêu
cực thì cũng có những mặt tích cực nhất định như: ý thức của người lao động
về việc làm tốt hơn, người lao động làm việc tích cực hơn, ít ỷ lại hoặc trốn
tránh cơng việc. Họ chỉ quan tâm đến việc làm có thu nhập cao hơn, tìm đến
những nơi làm việc được đảm bảo quyền lợi tốt hơn...
1.2.2. Giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay
Trước Đại hội VI, vấn đề việc làm là một vấn đề đặc biệt gay gắt. Vì ở
các khu vực kinh tế, sản xuất hầu như không phát triển được, người lao động
không có việc làm và đời sống họ trở nên túng quẫn; một số lượng lớn bộ đội
xuất ngũ về địa phương khơng có việc làm; số lượng lao động phi nông
nghiệp, tốc độ tăng dân số hàng năm và quỹ thời gian lao động nhàn rỗi ở khu
vực nông nghiệp cịn khá lớn. Điều đó khơng những ảnh hưởng trực tiếp đến

13


vấn đề việc làm mà còn ảnh hưởng đến những vấn đề khác của đời sống xã
hội và khi không có việc làm, đảm bảo cuộc sống thì việc người ta phải tìm
mọi cách để sống sẽ làm tăng thêm những bất ổn xã hội.
Khơng thể để cho tình trạng một số lượng khá lớn người lao động
khơng có việc làm kéo dài, Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn
diện xã hội. Đại hội đã phân tích, đánh giá thực trạng của đất nước, nhìn
thẳng vào sự thật, chỉ rõ những sai lầm, thiếu sót, trên cơ sở đó nhấn mạnh sự
cần thiết phải đổi mới nhận thức và thực hiện chính sách việc làm phù hợp với
tình hình mới nhằm phát huy triệt để tiềm năng sức mạnh của người lao động,
tạo bước chuyển căn bản trong đời sống.
Với tinh thần đổi mới, từ Đại hội VII, Chúng ta đã nêu ra một quan
điểm mới về việc làm: Việc làm là mọi hoạt động của người lao động cần
thiết, có ích cho xã hội, có khả năng tạo ra thu nhập để tự ni sống và có

phần đóng góp cho xã hội. Quan điểm mới đó khuyến khích người lao động
tự tìm việc làm, tự tạo việc làm và làm giầu hợp pháp. Điều đó cho thấy việc làm
là hoạt động có ý thức của con người không chỉ với tư cách là điều kiện cơ bản
của đời sống người lao động mà còn với tư cách là nguồn tạo ra của cải xã hội.
Việc làm là hoạt động lao động để sinh sống của con người, là phương tiện thỏa
mãn một nhu cầu duy trì sự sinh tồn của mình. Từ nhận thức đó "chế độ biên chế
suốt đời" đang dần được thay thế bằng chế độ hợp đồng lao động. Bằng chế độ
ấy, người lao động làm chủ sức lao động của mình, có quyền tự chọn việc làm
và nơi làm việc phù hợp với khả năng hiện có. Sự thay đổi ấy đã tạo ra cơ sở để
thực hiện chính sách về giải quyết việc làm phù hợp với tình hình mới. Chế độ
hợp đồng lao động không những được thực hiện trong các khu vực hoạt động
kinh tế mà còn được thực hiện cả trong các khu vực hành chính sự nghiệp,
dịch vụ v.v...
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong nền kinh tế thị
trường cũng có những đặc điểm khác biệt so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập

14


trung trước đây. Nhà nước không phải chịu trách nhiệm đến cùng và toàn bộ
đối với việc làm và giải quyết việc làm mà Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bà đỡ
trong nền kinh tế. Không giống với các quy định của Hiến pháp và pháp luật lao
động trước đây, các quy định của pháp luật trong thời kỳ đổi mới có những
thay đổi đáng kể để phù hợp với cơ chế thị trường, gần hơn với tình hình thực
tế: "Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính v.v...để các
tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề
mới nhằm tạo việc làm cho nhiều người lao động" 7, tr. 15.
Ngồi ra, Nhà nước cịn tạo mọi điều kiện để các cơ quan, tổ chức và
cá nhân có khả năng tự tạo việc làm hoặc có cơ hội được đào tạo nghề, tư vấn

và giới thiệu chỗ làm việc cho phù hợp với khả năng, sở thích và sở trường
của mỗi người. Nhà nước còn tạo ra các cơ chế để hỗ trợ người lao động trong
giai đoạn chưa kiếm được việc làm để có thu nhập bằng các hỗ trợ từ quỹ
quốc gia về giải quyết việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp v.v...
Như vậy, các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
đều quan tâm đến vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động.
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề thường xuyên trong các hoạt
động của Chính phủ. Cả Nhà nước và người lao động đều có ý thức phối hợp
trong việc giải quyết việc làm. Việc làm được xem làm một trong những vấn
đề quan trọng trong đời sống xã hội.
Tóm lại, vấn đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế - xã hội liên quan đến
đời sống của người lao động vừa là vấn đề chính trị, pháp lý quan trọng liên
quan đến sự ổn định xã hội. Khi khơng có việc làm đảm bảo cuộc sống thì
việc người ta phải tìm mọi cách để sống sẽ làm tăng thêm những bất ổn trong'
xã hội. Do vậy, sự thay đổi quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm phù
hợp với tình hình mới của đất nước là điều không thể tránh khỏi.

15


Giải quyết việc làm là mục tiêu trọng điểm của chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Từ nhận thức đó, thơng qua các nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta đã phát triển quan
điểm về giải quyết việc làm và đề ra những biện pháp cụ thể nhầm giải quyết
một cách hiệu quả nhất về việc làm cho người lao động trong công cuộc đổi
mới thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Với chủ trương tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ cơng
bằng xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp và thực hiện xã hội
hóa vấn đề giải quyết việc làm, quan điểm mới trong nhận thức và thực hiện

chính sách về giải quyết việc làm được nêu lên là: mọi người tự tìm việc làm, tự
tạo việc làm. Nhà nước làm nhiệm vụ chủ yếu hướng dẫn và tạo điều kiện để
mọi người có thể tạo và tìm được việc làm. Trên cơ sở của một số biện pháp
tích cực, quan điểm mới đó đang đi vào đời sống xã hội và tạo ra những
phong trào hiện thực sống động của mọi người tự tìm việc làm, tự tạo việc
làm như một yếu tố tự nhiên.
1.3 . PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

1.3.1. Pháp luật lao động về việc làm
Việc làm là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm giải
quyết. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm đã được các bản Hiến pháp ghi
nhận:
+ Quyền của người lao động: Lao đồng là quyền và nghĩa vụ của công
dân; Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật 6,
+ Trách nhiệm của Nhà nước: Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động; Nhà nước ban hành chính sách,
chế độ bảo hộ lao động, quy định về thời gian lao động, chế độ tiền lương,
chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và

16


những người làm cơng ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo
hiểm xã hội khác đối với người lao động 6, tr. 32-33.
Đó là các quy định cụ thể về vấn đề lao động theo Hiến pháp. Ngoài
ra trong hiến pháp cịn quy định và pháp điển hóa các vấn đề liên quan khác
giúp cho người lao động ổn định cuộc sống, yên tâm lao động và cống hiến.
Để cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, ngày 23 tháng 6
năm 1994 Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Lao động quy định các chế

độ, chính sách về lao động và việc làm nhằm nhằm đảm bảo hiệu quả trong sử
dụng và quản lý lao động, góp phần cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bộ luật Lao động đã giành một chương (chương 2) với 7 điều (từ Điều
13 đến Điều 19) để quy định về việc làm và chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động. Theo quy định của Bộ luật Lao động: "Mọi hoạt động tạo ra
nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" 7,
tr. 15. Điều này đã thể hiện tư duy đổi mới, nhìn nhận về vấn đề việc làm
hiện nay một cách khách quan và bản chất hơn. Khái niệm này phản ánh đầy
đủ các nội dung kinh tế, xã hội và bản chất pháp lý về vấn đề việc làm trong
nền kinh tế thị trường tạo sự bình đẳng trong quan hệ pháp luật lao động.
Ngoài ra, các quy định cũng đã thể hiện được trách nhiệm và vai trò của Nhà
nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội trong việc kiến tạo việc làm, đảm
bảo cho mọi người có nhu cầu và có khả năng lao động đều có thể tìm được
việc làm phù hợp. Điều này đã thể hiện được quan điểm xã hội hóa trong
vấn đề việc làm và cộng đồng trách nhiệm trong vấn đề giải quyết việc làm
cho người lao động.
+ Trách nhiệm của Nhà nước trong vấn đề giải quyết việc làm: Trách
nhiệm của Nhà nước đã được Bộ luật Lao động quy định khá cụ thể với vai

17


trị quản lý vĩ mơ bằng việc ban hành các chính sách pháp luật, tạo cơ chế cụ
thể trong việc giải quyết việc làm.
Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ
trợ tài chính, cho vay vốn hoặc miễn giảm thuế và áp dụng các biện
pháp khuyến khích khác để người có khả năng lao động tự giải
quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành

phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho nhiều
người lao động 27, tr. 15.
Ngoài ra, pháp luật lao động cịn chỉ ra chính sách ưu đãi về giải quyết
việc làm đối với người dân tộc thiểu số, chính sách ưu đãi cho các tổ chức, cá
nhân Nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc
làm cho nhiều người lao động 7, tr. 16.
+ Trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội về vấn đề giải quyết
việc làm: Các tổ chức này trong phạm vi quyền hạn và khả năng của mình có
trách nhiệm trong vấn đề tham gia các chương trình quốc gia về giải quyết
việc làm, tham gia các quỹ giải quyết việc làm nhằm góp phần ổn định xã hội
nâng cao vai trò và trách nhiệm chung 7, tr. 16.
+ Trách nhiệm của người sử dụng lao động: Người sử dụng lao động
có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức giới thiệu việc làm để tuyển
chọn lao động, có quyền tăng, giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất
kinh doanh theo quy định của pháp luật 8, tr. 144. Ngoài ra, người sử dụng
lao động phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm, có trách nhiệm đào
tạo lại người lao động để tiếp tục sử dụng vào chỗ làm việc mới trong trường
hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ đối với những người lao động đã làm
việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên 8, tr. 144. Đối

18


với lao động nữ hoặc lao động là người tàn tật thì người sử dụng lao động
phải có trách nhiệm nhận một số lượng nhất định vào làm việc 8, tr. 197.
+ Trách nhiệm của người lao động về vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm: Người lao động được tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp cũng
như học nghề, có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và
bất kỳ nơi nào mà pháp luật khơng cấm. Người lao động cũng có quyền trực
tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức giới thiệu việc làm để liên hệ, tư

vấn tìm việc tùy theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức
khỏe của mình.
Ngồi ra, pháp luật lao động cịn quy định và đưa vào các đối tượng
có tính chất đặc thù để điều chỉnh, đó là những lao động có đặc điểm riêng,
như lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao động cao tuổi, lao động là
người tàn tật v.v... điều này thể hiện được chính sách nhân đạo của Nhà nước
ta cũng như sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về vấn đề lao động, phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
- Lao động nữ: Bộ luật lao động đã dành chương X từ Điều 109 đến
Điều 118 để quy định và cụ thể hóa những chính sách pháp luật về đối tượng
lao động chiếm một nửa số dân: Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ có quyền làm
việc bình đẳng với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao
động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, kết hợp được
việc nhà với việc làm, tạo điều kiện cho người phụ nữ trong thời kỳ sinh đẻ và
sức khỏe tâm sinh lý… bằng việc áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời
gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm
tại nhà 8, tr. 189. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại
hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm, họ có thể có
thêm nghề dự phịng và để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp
với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của họ 8, tr. 189.

19


- Lao động chưa thành niên: Theo pháp luật lao động thì lao động chưa
thành niên là lao động dưới 18 tuổi, pháp luật lao động cấm sử dụng người lao
động chưa thành niên vào làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc
với các chất độc hại. Nghiêm cấm lạm dụng sức lao động của người chưa thành
niên 8, tr. 194. Ngoài ra pháp luật lao động còn quy định rất cụ thể về những
trường hợp người sử dụng lao động được và không được sử dụng người lao động

chưa thành niên vào làm một số công việc có tính chất nhạy cảm, đặc thù
v.v...
- Lao động là người tàn tật: Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền làm
việc đối với người tàn tật và khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức thu
nhận, tạo việc làm cho người tàn tật 8, tr. 197. Pháp luật lao động cũng quy
định cấm việc sử dụng những người tàn tật đã bị suy giảm sức khỏe trên 51%
làm thêm giờ hoặc phải làm việc vào ban đêm 8, tr. 197; người tàn tật không
được làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm 8, tr. 198.
- Lao động là người cao tuổi: Bộ luật Lao động cũng dành hai điều
123 và 124 để quy định những vấn đề liên quan đến việc sử dụng lao động là
người cao tuổi cũng như bảo đảm những quyền của những người cao tuổi.
Đây là đối tượng lao động đặc thù vì những lý do tuổi tác, thể trạng tâm sinh
lý và ý nghĩa xã hội. Người lao động cao tuổi là người lao động nam trên 60
tuổi và nữ trên 55 tuổi. Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm
chăm sóc sức khỏe người lao động cao tuổi, không được sử dụng người cao
tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm…hoặc tiếp xúc với các chất
độc hại có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người cao tuổi 8, tr. 196.
1.3.2. Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động theo quy
định của pháp luật lao động
Để triển khai các vấn đề cụ thể liên quan đến vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm cho người lao động được quy định trong Hiến pháp và Bộ luật
lao động, ngày 18 tháng 04 năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số

20


×