Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.49 KB, 110 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn danh sơn

hợp đồng chuyển giao công nghệ
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2008


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn danh sơn

hợp đồng chuyển giao công nghệ
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Chuyên ngành : Luật dân sự
MÃ số

: 60 38 30

luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Lê Hồng

Hà nội - 2008




Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Danh Sơn


Mục lục

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
1

mở đầu

Chương 1:

những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng


6

chuyển giao công nghệ

1.1.

Những vấn đề cơ bản về công nghệ và chuyển giao công nghệ

6

1.1.1.

Khái niệm công nghệ và vai trò của công nghệ

6

1.1.1.1. Khái niệm công nghệ

6

1.1.1.2. Vai trò của công nghệ

13

1.1.2.

15

Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ


1.1.2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ

15

1.1.2.2. Phân loại chuyển giao công nghệ

17

1.2.

Những vấn đề cơ bản về hợp đồng chuyển giao công nghệ

22

1.2.1.

Khái niệm và những đặc trưng của hợp đồng chuyển giao

22

công nghệ
1.2.2.

Phân loại hợp đồng chuyển giao công nghệ

28

1.2.2.1

Phân loại theo tính độc lập của hợp đồng chuyển giao công nghệ


28

1.2.2.2. Phân loại theo thủ tục hành chính liên quan

29

1.2.3.

30

Những nguyên tắc của hợp đồng chuyển giao công nghệ

1.2.3.1. Các nguyên tắc chung

30

1.2.3.2. Các nguyên tắc chuyên biệt

31


1.2.4.

Một số vấn đề cơ bản về nội dung hợp đồng chuyển giao
công nghệ

33

1.2.4.1. Điều khoản chủ yếu của hợp đồng chuyển giao công nghệ


33

1.2.4.2. Điều khoản thông thường và điều khoản tùy nghi của hợp
đồng chuyển giao công nghệ

35

1.2.5.

Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc giao kết và thực
hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ (hay ảnh hưởng đến
hoạt động chuyển giao công nghệ)

36

Chương 2: pháp luật hiện hành về hợp đồng chuyển giao

41

công nghệ

2.1.

Sự hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng
chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

41

2.1.1.


Các giai đoạn phát triển của pháp luật về hợp đồng chuyển
giao công nghệ

41

2.1.2.

Mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh về hợp
đồng chuyển giao công nghệ

47

2.2.

Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về hợp đồng chuyển
giao công nghệ

50

2.2.1.

Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng chuyển giao công nghệ

50

2.2.1.1. Đối tượng chuyển giao công nghệ

50


2.2.1.2. Phương thức chuyển giao công nghệ

56

2.2.1.3. Những quy định về giá cả và phương thức thanh toán

58

2.2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng chuyển
giao công nghệ

62

2.2.1.5. Hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công nghệ

67

2.2.2.

Giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng chuyển giao công nghệ

67

2.2.3.

Đăng ký hợp đồng chun giao c«ng nghƯ, xin phÐp chun
giao c«ng nghƯ

72



Chương 3: thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng

76

chuyển giao công nghệ và một số kiến nghị

3.1.

Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao
công nghệ

76

3.1.1.

Tình hình thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao
công nghệ

76

3.1.2.

Những bất cập cơ bản của pháp luật về hợp đồng chuyển
giao công nghệ

84

3.2.


Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
chuyển giao công nghệ

91

3.2.1.

Những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung pháp luật về hợp
đồng chuyển giao công nghệ

91

3.2.2.

Những kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về hợp
đồng chuyển giao công nghệ

97

kết luận

100

danh mục tài liệu tham khảo

101


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập, việc Việt Nam đã chính thức
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội kinh
doanh thuận lợi và tăng khả năng thâm nhập thị trường các nước thành viên
cho các doanh nghiệp của Việt Nam, là chìa khóa để đưa nền kinh tế Việt
Nam tiếp tục hội nhập với kinh tế quốc tế. Trong hơn một năm kể từ ngày
Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO vào ngày
28/11/2006 và sự kiện Hạ viện Hoa Kỳ phê chuẩn quy chế thương mại bình
thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam vào ngày 09/12/2006, Việt Nam đã
đón nhận rất nhiều dịng đầu tư nước ngồi mới vào Việt Nam, đồng thời
chứng kiến sự tăng trưởng và phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp, tập
đoàn kinh tế trong nước. Cùng với sự phát triển nhanh chóng cả về đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài, các hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt
Nam cũng diễn ra mạnh mẽ cả về quy mô và số lượng.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ sẽ là yếu
tố quyết định sự phát triển của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ý thức và
hiểu rõ được tầm quan trọng của công nghệ và chuyển giao công nghệ đối với
sự phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã và đang luôn dành sự
quan tâm đặc biệt trong lĩnh vực này, ngay từ những ngày đầu thực hiện chính
sách mở cửa. Việc xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật hồn chỉnh
điều chỉnh tổng thể hoạt động chuyển giao cơng nghệ, trong đó đặc biệt là các
vấn đề liên quan đến hợp đồng chuyển giao công nghệ là một nhu cầu tất yếu.
Thông qua cơ chế pháp luật, việc kiểm sốt và điều tiết các hoạt động chuyển
giao cơng nghệ có thể được thực hiện có hiệu quả, góp phần vào việc chọn lọc
được các cơng nghệ tiến bộ có giá trị từ nước ngồi, hạn chế tình trạng chảy
máu ngoại tệ do những công nghệ lạc hậu và đồng thời khuyến khích các hoạt
động chuyển giao cơng nghệ trong nước và từ Việt Nam ra nước ngoài.

1



Ở Việt Nam, nếu tính từ Quyết định số 175-CP ngày 29/04/1981 về ký
kết và thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ
thuật, đã có rất nhiều các văn bản pháp quy được ban hành điều chỉnh các vấn
đề về chuyển giao công nghệ, đặc biệt là về hợp đồng chuyển giao công nghệ,
ví dụ, Pháp lệnh Chuyển giao cơng nghệ nước ngồi vào Việt Nam ngày
05/12/1981, Bộ luật Dân sự 1995, Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày
01/07/1998, Nghị định 11/2005/NĐ-CP ngày 2/02/2005 v.v..., bước đầu đã
tạo ra được môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động
chuyển giao công nghệ nói chung và q trình đàm phán, ký kết và thực hiện
hợp đồng chuyển giao cơng nghệ nói riêng. Các văn bản pháp luật này, bên
cạnh việc quy định điều chỉnh các vấn đề có tính ngun tắc về chuyển giao
công nghệ, đều luôn dành những điều khoản điều chỉnh các vấn đề liên quan
hợp đồng chuyển giao công nghệ như nội dung hợp đồng chuyển giao công
nghệ, các vấn đề liên quan đến đăng ký đến đăng ký, phê chuẩn hợp đồng
chuyển giao công nghệ v.v..., tạo cơ sở pháp lý bảo đảm các quyền và lợi ích
của các bên có liên quan trong giao dịch. Tuy nhiên, do thực tiễn và yêu cầu
vào thời điểm ban hành các văn bản pháp quy nói trên đã có nhiều thay đổi và
khơng cịn phù hợp với hiện tại. Kế thừa và khắc phục các thiếu sót của các
quy định pháp luật trước đó, Luật Chuyển giao cơng nghệ đã được ban hành
vào ngày 22/11/2006 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2007, đã đáp ứng ngày
càng tốt hơn các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn.
Nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất các vấn đề liên quan đến hợp
đồng chuyển giao cơng nghệ - loại hợp đồng có đối tượng rất đặc thù là cơng
nghệ dưới cả góc độ pháp lý và thực tiễn sẽ góp phần làm sáng tỏ nội dung
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chuyển giao cơng nghệ,
đồng thời có những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định của
pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của
thị trường chuyển giao cơng nghệ nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
Trong khn khổ của chương trình đào tạo cao học luật và tính cấp thiết của

các vấn đề như đã trình bày trên đây, người viết đã chọn đề tài "Hợp đồng

2


chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành"
làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới của đề tài
Nghiên cứu về hợp đồng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong bối
cảnh hội nhập hiện nay là một vấn đề khá mới. Cho đến nay, chuyển giao
công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ mới chỉ được nghiên cứu
thơng qua một số cơng trình khoa học được trình bày trên các tạp chí khoa
học và một số luận văn thạc sĩ luật học như: luận văn thạc sĩ luật học tại Đại
học Luật Hà Nội - Đại học Panthéon Assas Paris II năm 2004 của tác giả Lê
Ngọc Bích với đề tài “Pháp luật về chuyển giao cơng nghệ - Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện; luận văn thạc sĩ luật học tại Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 1998 của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương với đề tài
"Pháp luật về chuyển giao công nghệ ở Việt Nam". Các cơng trình nghiên cứu
này đã đưa ra được những phân tích, luận giải các vấn đề về công nghệ,
chuyển giao công nghệ cũng như đã chỉ ra được các bản chất pháp lý về hình
thức và nội dung của hợp đồng chuyển giao công nghệ theo các quy định
pháp luật về chuyển giao công nghệ được ban hành trước thời điểm năm
2005. Tuy nhiên, kể từ khi Luật Chuyển giao công nghệ được ban hành cho
đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập một cách tồn diện về hợp
đồng chuyển giao cơng nghệ theo các quy định mới và tình hình thực tiễn ở
Việt Nam, để qua đó có thể chỉ ra và phân tích được những ưu điểm và thiếu
sót trong các quy định pháp luật hiện hành. Trên cơ sở định hướng nghiên cứu
và tiếp tục kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đó, người viết
trình bày một số quan điểm khoa học của mình nhằm góp phần làm sáng tỏ
các nội dung:

- Hệ thống hóa các quan điểm khoa học về công nghệ - đối tượng của
hợp đồng chuyển giao công nghệ, đồng thời phân tích các vấn đề cơ bản nhất
về chuyển giao cơng nghệ.

3


- Phân tích và làm rõ khái niệm và những đặc trưng cơ bản của hợp
đồng chuyển giao công nghệ về chủ thể ký kết, nội dung, nguyên tắc... để xác
định đầy đủ về dạng hợp đồng này.
- Phân tích sâu về các vấn đề của hợp đồng chuyển giao công nghệ
theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng, qua đó đưa
ra các đánh giá khách quan về các nội dung tiến bộ cũng như các bất cập còn
tồn tại nhằm đưa ra các đề xuất đối với việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
hợp đồng chuyển giao cơng nghệ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài luận văn nhằm các mục đích: Xác định khái
niệm về cơng nghệ, chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao cơng
nghệ trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích các cách tiếp cận khác nhau về các
khái niệm này; trên cơ sở đó làm rõ bản chất pháp lý, các nội dung chủ yếu,
ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp
luật hiện hành.
Để đạt được mục đích nghiên cứu này, đề tài có các nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
- Nghiên cứu các khái niệm, quan điểm khoa học về công nghệ,
chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ, để xác định các
đặc trưng của hợp đồng chuyển giao cơng nghệ.
- Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các quy định pháp luật điều chỉnh
hợp đồng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam bao gồm: nghiên cứu thực trạng
các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những tồn tại

trong các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng chuyển giao công nghệ;
đề xuất kiến nghị, phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện các quy
định pháp luật này đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp đồng chuyển giao công nghệ
theo quy định của pháp luật hiện hành.
Để đảm bảo dung lượng của luận văn, người viết chỉ tập trung nghiên
cứu những nội dung cơ bản, chung nhất về hợp đồng chuyển giao công nghệ
mà không đi sâu vào từng dạng hợp đồng chuyên biệt.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên
cạnh đó, các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp cũng được
sử dụng khi nghiên cứu đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng chuyển giao
công nghệ.
Chương 2: Pháp luận hiện hành về hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao
công nghệ và một số kiến nghị.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO
CƠNG NGHỆ

1.1.1. Khái niệm cơng nghệ và vai trị của cơng nghệ
1.1.1.1. Khái niệm cơng nghệ
Ngày nay, với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật như vũ bão và được
coi là một yếu tố không thể thiếu của lực lượng sản xuất thì cơng nghệ trở
thành mối quan tâm đặc biệt của doanh nhân, các trung tâm nghiên cứu và của
tất cả các quốc gia. Khơng ai cịn nghi ngờ về vai trị to lớn của công nghệ đối
với sự phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, Việt Nam đã và đang trong giai
đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cơng nghệ lại càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết.
Thuật ngữ cơng nghệ (tiếng Anh là technology) có nguồn gốc từ hai
thuật ngữ Hy Lạp cổ là techne có nghĩa là kỹ năng hoặc cách thức cần thiết để
làm một cái gì đó và logos có nghĩa là khoa học, kiến thức hay sự nghiên cứu
về một cái gì đó [28, tr. 13]. Như vậy, thực chất của thuật ngữ công nghệ là
việc ứng dụng những kỹ năng có được từ sự nghiên cứu, khám phá.
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận đối với khái niệm công nghệ. Theo
Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (United Nation’s Industrial
Development Organization, viết tắt là UNIDO) thì cơng nghệ là việc áp dụng
khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý nó
một cách có phương pháp và có hệ thống [29, tr. 8]. Định nghĩa này của
UNIDO gắn bản chất công nghệ với các ứng dụng chỉ trong lĩnh vực công
nghiệp và chỉ nhấn mạnh đến một thuộc tính của cơng nghệ là tính khoa học
mà thôi. Nguyên nhân của thực tế này là do thuật ngữ công nghệ do UNIDO


6


định nghĩa chỉ nhằm phục vụ cho hoạt động trong khuôn khổ của UNIDO mà
thôi.
Theo hướng mở rộng khái niệm công nghệ của UNIDO, Ủy ban Kinh
tế Xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (Economic and Social Commision for
Asia anh the Pacific - viết tắt là ESCAP) cho rằng: "Công nghệ là tập hợp các
công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực sản
xuất trung gian thành hàng hóa tiêu dùng hoặc các nguồn lực trung gian
khác". Công cụ, phương tiện ở đây được hiểu là "tất cả các kỹ năng, kiến
thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản
lý, thông tin" [29, tr. 8]. Khái niệm công nghệ của ESCAP đã mở rộng nhiều
so với khái niệm của UNIDO, đã bao quát, thể hiện thực chất về cơng nghệ.
Khái niệm cơng nghệ khơng cịn bị bó hẹp trong phạm vi một ngành sản xuất
trực tiếp là ngành cơng nghiệp, mà cịn bao qt cả lĩnh vực dịch vụ, quản lý
và thông tin.
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới (WIPO) cũng đưa ra khái niệm công
nghệ tương tự như UNIDO nhưng mở rộng phạm vi áp dụng của công nghệ
không chỉ là công nghiệp mà cịn những lĩnh vực khác như nơng nghiệp và
thương mại. Theo WIPO, công nghệ là "hệ thống những kiến thức được sử
dụng để sản xuất ra một sản phẩm, ứng dụng một dây chuyền sản xuất hoặc
cung cấp dịch vụ, bất kể những kiến thức này đã được thể hiện trong văn bản
bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, những cây trồng
mới, hoặc các kỹ năng hay thông tin kỹ thuật, hoặc các dịch vụ do các chuyên
gia thực hiện để thiết kế, lắp đặt, vận hành hoặc bảo trì cho một nhà máy sản
xuất cơng nghiệp, hoặc các dịch vụ quản lý xí nghiệp công nghiệp hoặc cơ sở
kinh doanh thương mại" [33, tr. 5].
Các nhà khoa học Việt Nam cũng đưa ra nhiều cách tiếp cận với khái
niệm cơng nghệ, trong đó đáng chú ý là quan điểm của GS. Đặng Hữu khi cho

rằng: "Công nghệ là một tập hợp những hiểu biết về các phương pháp, kỹ
năng, quy tắc được sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra

7


một sản phẩm. Sự tác động này phải thông qua những phương tiện vật chất
như máy móc, thiết bị…" [24, tr. 18]. Theo cách hiểu này, công nghệ bao
gồm phần cứng và phần mềm. Phần cứng là có thể những vật thể hàm chứa
công nghệ như nhà máy, dây chuyền sản xuất, thiết bị phụ trợ…, còn phần
mềm là những kiến thức có hệ thống, tổ chức đã được tư liệu hóa như sáng
chế, giải pháp hữu ích, bí quyết, số liệu hoặc thông tin công nghệ khác....
được thể hiện trong các hình thức lưu trữ cụ thể. Một số nhà kinh tế học lại
cho rằng, "công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành
đầu ra" [29, tr. 9].
Tóm lại, các khái niệm cơng nghệ theo các cách tiếp cận khác nhau có
ý nghĩa về mặt khoa học giúp nhận thức được bản chất của công nghệ. Tuy
nhiên, khái niệm công nghệ theo quan điểm của Giáo sư Đặng Hữu thì cơng
nghệ bắt buộc phải bao gồm các công cụ, phương tiện nhất định. Điều này có
thể bó hẹp khái niệm về cơng nghệ, đôi khi sẽ làm việc chuyển giao công
nghệ bị giới hạn trong các giao dịch mua, bán, chuyển nhượng dây chuyền
sản xuất hoặc máy móc thiết bị.
Dưới giác độ pháp lý, công nghệ được đề cập đến trong Bộ luật Dân
sự 2005, nhưng văn bản này cũng không đưa ra khái niệm về công nghệ mà
chỉ đưa ra những đối tượng của hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều
755 Bộ luật Dân sự, đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm: bí quyết kỹ
thuật, kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công nghệ, các
giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật,
chương trình máy tính, thơng tin dữ liệu được chuyển giao, giải pháp hợp lý
hóa sản xuất, đổi mới công nghệ, cấp phép đặc quyền kinh doanh và các đối

tượng khác do pháp luật về chuyển giao cơng nghệ quy định. Điều này cũng
dễ giải thích vì hai lý do: thứ nhất, Bộ luật Dân sự chỉ quy định những vấn đề
điều chỉnh chung, bao quát còn những nội dung cụ thể sẽ do các văn bản luật
chuyên ngành điều chỉnh; thứ hai, bản thân Bộ luật Dân sự chỉ hướng tới điều
chỉnh đến những giao dịch dân sự liên quan đến công nghệ, chứ không phải
bản thân công nghệ. Liên quan đến vấn đề này, người viết cho rằng, trước

8


thực trạng không thống nhất về khái niệm công nghệ, Bộ luật Dân sự 2005
thực chất đã khôn khéo tránh việc đưa ra khái niệm công nghệ mà chỉ quy
định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự đối với lĩnh vực này thông qua
việc liệt kê các đối tượng của hoạt động chuyển giao cơng nghệ.
Chính vì vậy, khái niệm công nghệ chỉ được đề cập cụ thể trong
những văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động chuyển giao
công nghệ. Theo Luật Chuyển giao công nghệ, khái niệm công nghệ được xác
định một cách cụ thể, rõ ràng tại mục 2, Điều 3 của Luật này như sau: Cơng
nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc khơng kèm
theo cơng cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Đây là
một khái niệm tuy ngắn gọn, súc tích nhưng rất đầy đủ. Dựa trên khái niệm
công nghệ này, người viết có thể có được các nghiên cứu về các vấn đề có
liên quan đến cơng nghệ trong luận văn này.
Để xem xét một cách toàn diện khái niệm công nghệ, cần thiết phải
nắm được những đặc trưng của cơng nghệ. Từ khái niệm cơng nghệ nêu trên,
có thể rút ra một số nhận định mang tính lý luận. Cụ thể, cơng nghệ có các
đặc trưng cơ bản sau đây:
- Tính hệ thống của cơng nghệ
Hệ thống được hiểu là sự liên kết chặt chẽ của nhiều thành tố để đạt
được kết quả nhất định. Khơng thể nhìn nhận công nghệ như những thành tố

riêng rẽ, bởi công nghệ chỉ phát huy tác dụng của nó nếu có sự phối hợp và
liên hệ chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của công nghệ. Trên thực tế, việc
chuyển giao từng thành tố của công nghệ không phủ nhận bản chất của công
nghệ phải là tập hợp cần và đủ các thành tố tương ứng tạo nên. Kinh nghiệm
cho thấy khơng ít trường hợp, sự tách rời của từng thành tố cơng nghệ vẫn có
thể được chấp nhận nếu như bên ứng dụng cơng nghệ có khả năng tự mình
đáp ứng được những thành tố cịn lại. Ví dụ, việc chuyển giao cơng nghệ có
thể chỉ là việc chuyển giao những tài liệu kỹ thuật, nếu bên nhận chuyển giao
tự mình có thể hiểu và áp dụng được chúng. Như vậy, thực chất công nghệ

9


được chuyển giao vẫn đủ tất cả các thành tố cần thiết, mặc dù không được
chuyển giao tất cả. Từ việc phân tích trên đây, có thể nhận thấy cơng nghệ
bao hàm các thành tố sau:
Một là, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu (technoware - phần
cứng). Phần này được gọi là phần kỹ thuật của cơng nghệ, đóng vai trò như
những phương tiện vật chất để thể hiện cơng nghệ.
Hai là, kỹ năng, kinh nghiệm, bí quyết kinh doanh của con người
(humanware). Thành tố này rất quan trọng, giúp cho việc ứng dụng công nghệ
đạt hiệu quả cao, nhanh chóng và với chi phí hợp lý. Nó cũng đảm bảo rằng,
cơng nghệ có thể được tiếp nhận, thay đổi và cải tiến cho phù hợp với hoàn
cảnh. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc áp dụng cơng
nghệ hay (cịn được gọi là thể chế) cũng đóng một vai trị quan trọng. Nó bao
gồm việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và giải quyết những địi hỏi
của quy trình quản lý. Mặc dù thể chế không bao hàm những tri thức căn bản
làm nên cơng nghệ nhưng nó lại đảm bảo cho sự áp dụng có hiệu quả của
cơng nghệ. Một số tác giả cho rằng đây là thành tố thứ tư của công nghệ [16,
tr. 26], nhưng theo người viết, đây chỉ là một phần cấu thành nên thành tố thứ

hai, vì những kinh nghiệm tổ chức cũng nằm trong tổng thể những kinh
nghiệm nhằm áp dụng công nghệ đạt hiệu quả cao, rất có ý nghĩa đối với hoạt
động chuyển giao công nghệ.
Ba là, tài liệu kỹ thuật bao gồm các thiết kế, bản vẽ, hướng dẫn nghiệp
vụ, bí quyết kỹ thuật… Thành tố này được coi là phần thông tin của công
nghệ, thể hiện những tri thức công nghệ được tư liệu hóa.
- Tính ứng dụng của cơng nghệ
Cơng nghệ phải có tính ứng dụng trên thực tế nhằm giải quyết những
vấn đề nhất định nhằm phục vụ lợi ích của con người. Tính ứng dụng của
công nghệ thể hiện ở chỗ, việc tuân theo công nghệ sẽ làm cho hoạt động sản
xuất đạt hiệu quả cao hơn như tăng năng suất, giảm chi phí, gia tăng tính năng
của sản phẩm hoặc để phát triển những công nghệ mới, sản phẩm mới. Chính

10


khả năng ứng dụng của công nghệ là động lực để phát triển cơng nghệ,
chuyển giao cơng nghệ và hình thành thị trường cơng nghệ.
- Tính trao đổi của cơng nghệ
Đặc trưng này cho thấy bản thân cơng nghệ có thể được tiếp nhận,
dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác và giữa các cá nhân, tổ chức khác nhau.
Sự trao đổi công nghệ là vô cùng quan trọng nhằm đạt hiệu quả cao trong việc
biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Mặc dù tính trao đổi của cơng nghệ
chỉ thể hiện dưới dạng khả năng, còn phụ thuộc rất nhiều các yếu tố khác như
khuôn khổ pháp lý, sự bảo hộ, khả năng tiếp nhận… nhưng đó đảm bảo rằng
cơng nghệ có thể được ứng dụng rộng rãi để phục vụ lợi ích của con người.
Tính trao đổi của cơng nghệ là thuộc tính gắn liền với tính ứng dụng của cơng
nghệ. Cơng nghệ có khả năng ứng dụng thì mới nảy sinh nhu cầu tiếp nhận
cũng như chuyển giao. Việc trao đổi công nghệ sẽ cho phép bên chuyển giao
có thể tiếp tục phát triển cơng nghệ mới, cịn bên nhận chuyển giao sẽ được

ứng dụng cơng nghệ tiên tiến với chi phí thấp hơn (thay vì phải nghiên cứu để
sáng tạo ra cơng nghệ đó).
- Tính giới hạn của cơng nghệ
Tính giới hạn của cơng nghệ được hiểu là bản thân công nghệ đang áp
dụng hoặc chưa áp dụng cũng có thể sẽ nhanh chóng bị lạc hậu và được thay
thế bởi những công nghệ mới tiên tiến hơn. Tính giới hạn của cơng nghệ địi
hỏi công nghệ phải luôn được đổi mới, bắt kịp sự địi hỏi của nền kinh tế xã
hội. Chính vì cơng nghệ có tính giới hạn, mà việc áp dụng cơng nghệ càng
phải được triển khai nhanh chóng để đạt được hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó,
cơng nghệ cũng cần được phổ biến rộng rãi nhằm tăng cường khả năng ứng
dụng của công nghệ trong cuộc sống, đồng thời đảm bảo lợi ích cho chủ sở
hữu cơng nghệ. Điều này địi hỏi cần có những chính sách và pháp luật phù
hợp để có thể khuyến khích nghiên cứu, phát triển hoặc tiếp nhận những cơng
nghệ mới và nhanh chóng ứng dụng cơng nghệ để tạo ra những sản phẩm
hàng hóa có giá trị cao.

11


Từ việc xem xét, phân tích những đặc trưng của cơng nghệ, có thể
nhận thấy rằng, việc đưa ra khái niệm mẫu mực về công nghệ là một thách
thức không đơn giản. Bản thân cơng nghệ ln có sự biến đổi, phát triển,
chuyển hóa dưới nhiều hình thức khác nhau nên càng không dễ dàng đưa ra
được khái niệm chuẩn xác. Mỗi một cách tiếp cận khái niệm công nghệ đều
có những ưu điểm và hạn chế nhất định, phù hợp với mục tiêu của việc sử
dụng khái niệm ấy mà thôi.
Để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm công nghệ, thiết nghĩa cần phải
phân biệt khái niệm công nghệ với một vài khái niệm dễ gây nhầm lẫn như là
khoa học và kỹ thuật.
Khoa học là "hệ thống tri thức về thế giới khách quan" [32, tr. 269].

Khoa học để chỉ những hiểu biết của con người về thế giới được định hình
bằng các khái niệm, các phạm trù và quy luật. Giữa khoa học và công nghệ có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Khoa học đóng vai trị là nhân tố quyết định sự
hình thành và phát triển của cơng nghệ. Ngược lại, cơng nghệ có ảnh hưởng
đáng kể đến xu hướng nghiên cứu và là động lực của khoa học. Tuy cùng là
sản phẩm trí tuệ của con người, nhưng giữa khoa học và công nghệ có những
sự khác biệt nhất định. Thứ nhất, nếu như khoa học chỉ hướng tới việc tìm
hiểu bản chất của thế giới thì cơng nghệ lại chú trọng đến việc áp dụng những
hiểu biết ấy để tạo ra những sản phẩm phục vụ lợi ích của con người. Thứ hai,
nghiên cứu khoa học là hoạt động ít hoặc thậm chí khơng bị hạn chế về thời
gian và khơng gian, thì ngược lại, những yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến
công nghệ. Một công nghệ dễ dàng bị thay thế bởi một công nghệ khác tiên
tiến hơn, và nó có thể được bảo hộ ở những chừng mực khác nhau nhằm hạn
chế khả năng ứng dụng rộng rãi. Thứ ba, kết quả của khoa học là việc phong
phú thêm những hiểu biết về thế giới, còn kết quả của công nghệ là việc sản
xuất ra một sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm đang có hoặc chí ít là tăng
cường hiệu suất trong việc sản xuất sản phẩm sẵn có.
Cơng nghệ cũng khác với kỹ thuật. Kỹ thuật được hiểu là một kỹ năng

12


để thực hiện một số nhiệm vụ đặc thù [28, tr. 14]. Như vậy khái niệm kỹ thuật
khá gần với khái niệm công nghệ. Tuy nhiên, giữa công nghệ và kỹ thuật có
những điểm khác nhau cơ bản. Ở giác độ thứ nhất, công nghệ là sự phát triển
cao của kỹ thuật, hay nói khác đi, cơng nghệ hàm chứa kỹ thuật tiên tiến, có
thể đem lại hiệu quả cao trong sản xuất. Một kỹ thuật là một kỹ năng, thơng
thường là một kỹ năng cụ thể. Ví dụ, một người làm gốm thủ cơng có kinh
nghiệm pha trộn ngun liệu đất sét như thế nào, cách thức tạo hình các sản
phẩm, nhiệt độ nung nóng như thế nào. Cịn một công nghệ được coi là một

hệ thống thông tin trọn gói và các bí quyết cần thiết để sản xuất một sản phẩm
hoặc thực hiện một số nhiệm vụ. Ví dụ, cơng nghệ dây chuyền sản xuất hàng
loạt các sản phẩm gốm kỹ thuật cao sẽ bao gồm các kiến thức khoa học cụ thể
về nguyên liệu tạo sản phẩm, các chất phụ gia, cách thức kiểm tra độ cứng,
bóng của sản phẩm... Ở giác độ thứ hai, cơng nghệ bao hàm cả kỹ thuật.
Trong bốn thành tố của công nghệ, kỹ thuật chỉ hàm chứa trong hai thành tố
đầu tiên (máy móc và những kỹ năng, kinh nghiệm của con người).
1.1.1.2. Vai trị của cơng nghệ
Cơng nghệ có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của từng quốc gia và của cả thế giới. Một cách khái qt, cơng nghệ có
những vai trị sau đây:
- Cơng nghệ góp phần làm giảm nguồn lực tiêu hao
Áp dụng công nghệ vào sản xuất, nguồn lực sẽ được sử dụng một cách
hợp lý, tránh lãng phí khơng cần thiết. Trước những thách thức to lớn về
nguồn nhân lực, năng lượng và yêu cầu bảo vệ mơi trường để phát triển bền
vững, thì cơng nghệ tiên tiến chính là giải pháp tốt nhất để đạt được hiệu quả
sản xuất nhưng vẫn giải quyết được những vấn đề đặt ra. Ví dụ, việc áp dụng
phần mềm Ship Constructor trong công đoạn lấy dấu, hạ liệu, triển khai tôn
vỏ tàu các size 12.500 DWT, 11.500 DWT và 6.500 DWT tại các nhà máy
đóng tầu của Tập đồn kinh tế Vinashin đã góp phần rút ngắn thời gian triển
khai tôn vỏ tàu xuống rất đáng kể (thời gian triển khai tôn vỏ tàu 11.500 DWT

13


rút ngắn từ 8 xuống cịn 2 tháng).
- Cơng nghệ giúp doanh nghiệp hợp lý hóa các khâu sản xuất, tăng
cường hiệu quả kinh doanh
Công nghệ không chỉ giải quyết những vấn đề kỹ thuật, mà nó cịn
giúp cho các khâu sản xuất, khâu quản lý được gắn kết với nhau hợp lý hơn,

do đó hiệu quả sản xuất sẽ tốt hơn. Những chi phí gián tiếp sẽ giảm xuống,
các khâu kiểm tra, giám định chất lượng được hiệu quả hơn, do đó khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cũng sẽ tốt hơn.
Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vai trị của
cơng nghệ là cực kỳ to lớn. Nắm bắt và làm chủ cơng nghệ, "đi tắt đón đầu"
trong lĩnh vực cơng nghệ là những chính sách được ưu tiên hàng đầu nhằm
đẩy nhanh tốc độ phát triển, giảm khoảng cách phát triển đối với các nước
trong khu vực và những quốc gia tiên tiến trên thế giới. Cụ thể với Việt Nam,
công nghệ cịn có những vai trị sau đây:
- Cơng nghệ góp phần làm giảm khoảng cách phát triển giữa nước ta
với các nước tiên tiến trên thế giới
Trình độ nắm bắt và phát triển công nghệ là một phần thước đo của sự
phát triển. Nếu công nghệ lạc hậu, tiêu hao nguồn lực nhiều, là rào cản lớn
trong phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế, cần thiết phải tiếp thu và làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, "bỏ qua"
sự phát triển cơng nghệ trung gian, những cơng nghệ có thể vẫn là "tiên tiến"
đối với Việt Nam, những đã lạc hậu so với thế giới. Có như vậy, Việt Nam
mới có cơ hội bắt kịp tốc độ phát triển của các nước tiên tiến.
Trong những năm qua, nhờ có chính sách khuyến khích phát triển
cơng nghệ, mà hiện nay, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất, chúng ta đã có
những cơng nghệ hàng đầu thế giới, tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh
cao, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà. Điều này
có thể thấy rõ trong lĩnh vực đóng mới và sửa chữa tàu thủy, công nghệ thông
tin và bưu chính viễn thơng... Với chiến lược đi tắt đón đầu, Tập đoàn kinh tế

14


Vinashin đã tập trung đầu tư nhiều trang thiết bị và dây chuyền công nghệ
mới như các thiết bị cắt CNC, gia cơng cơ khí, hàn tự động, nâng hạ với công

suất lớn; đo lường - kiểm định phục vụ gia công vỏ tàu, lắp ráp thân tàu...
cũng như nhận chuyển giao các công nghệ tiên tiến phục vụ việc tự động hóa
q trình gia cơng chế tạo, lắp ráp tàu thủy Vinasin đã thực hiện thành công
việc chuyển giao cơng nghệ với Ba Lan để đóng tàu 1.016 TEU và tàu 1.800
TEU; hợp tác chuyển giao cơng nghệ đóng tàu hút bùn với hãng Krupp Vosta
(Hà Lan)... Với vai trị là một trong những động lực vơ cùng quan trọng, hoạt
động chuyển giao cơng nghệ đã đưa Vinashin có được những bước tiến vượt
bậc, trở thành một trong những tập đồn đóng tàu lớn nhất thế giới (top 5 tập
đồn đóng tàu lớn nhất thế giới).
- Bản thân cơng nghệ là một ngành sản xuất tiềm năng, rất phù hợp
với tố chất của người Việt Nam
Người Việt Nam được đánh giá là có tố chất thơng minh sáng tạo, học
hỏi nhanh, lại cần cù nhẫn nại, do đó rất phù hợp với việc sáng tạo công nghệ.
Nhiều quốc gia ở Châu Á nhờ nắm bắt nhanh những công nghệ mới khi được
chuyển giao, lại biết cải tiến, phát triển thêm nên đã trở thành những cường
quốc công nghệ như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc… Do vậy,
việc phát triển công nghệ được xem như là một hướng đi đầy hứa hẹn cho nền
kinh tế Việt Nam trong công cuộc hội nhập và phát triển.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ
1.1.2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ
"Chuyển giao công nghệ" hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là việc đưa
công nghệ từ nơi có cơng nghệ đến nơi có nhu cầu nhận cơng nghệ, từ nơi có
trình độ cơng nghệ cao đến nơi có trình độ cơng nghệ thấp hơn một cách hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia hoặc là sự dịch chuyển tồn bộ
hoặc một phần cơng nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác [21, tr.
11]. Chuyển giao công nghệ được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đã xuất hiện
từ rất lâu, nhưng chính xác từ khi nào thì chưa có bằng chứng để khẳng định.

15



Tuy nhiên, từ khoảng thế kỷ XIII trở đi, cùng với sự phát triển của giai cấp tư
sản thì hoạt động chuyển giao công nghệ trở nên nhộn nhịp và đóng vai trị
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Đến nay, việc chuyển giao công nghệ
hết sức phát triển và phổ biến, được thực hiện trong tất cả các ngành sản xuất
vật chất. Chuyển giao công nghệ không còn diễn ra một chiều, từ những nước
phát triển đến những nước đang phát triển mà ngược lại, các nước đang phát
triển cũng hồn tồn có khả năng chuyển giao công nghệ cho các nước phát
triển ở một số lĩnh vực có thế mạnh.
Hiểu theo nghĩa rộng, chuyển giao cơng nghệ xảy ra khi một hoặc
nhiều thành tố của công nghệ được mở rộng phạm vi áp dụng (chuyển dịch về
địa lý hoặc chủ thể sở hữu, sử dụng…). Theo nghĩa hẹp, chuyển giao công
nghệ được hiểu là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng (một phần
hoặc toàn bộ) cơng nghệ từ bên có quyền giao cơng nghệ sang bên nhận công
nghệ [10, Điều 3].
Cần phân biệt thuật ngữ "chuyển giao công nghệ" và thuật ngữ "mua
bán công nghệ". Mặc dù cùng là cơ chế hợp đồng và có sự trao đổi ngang giá,
nhưng khái niệm chuyển giao cơng nghệ có nội hàm rộng hơn thuật ngữ mua
bán cơng nghệ. Thứ nhất, việc chuyển giao cơng nghệ có thể chỉ là chuyển
giao quyền sử dụng công nghệ trong một thời gian nhất định, chứ không phải
là "bán đứt" công nghệ cho bên nhận chuyển giao. Bên nhận chuyển giao chỉ
được quyền sử dụng công nghệ trong thời gian mà các bên thỏa thuận. Thứ
hai, việc chuyển giao công nghệ có thể khơng làm mất đi quyền sử dụng công
nghệ của bên chuyển giao. Bên chuyển giao vẫn tiếp tục áp dụng cơng nghệ
trong hoạt động của mình hoặc tiếp tục chuyển giao cho chủ thể khác. Thứ ba,
trong chuyển giao cơng nghệ, việc hồn trả lại đối tượng chuyển giao trong
nhiều trường hợp là không thể, bởi phần quan trọng trong công nghệ là kiến
thức và một khi đã được chuyển giao thì khơng thể thu hồi lại được. Những
đặc trưng này của hoạt động chuyển giao công nghệ làm cho nó khơng giống
với hoạt động mua bán thơng thường và có những ảnh hưởng đáng kể đến nội

dung pháp luật điều chỉnh về chuyển giao công nghệ. Như vậy, giao dịch mua

16


bán công nghệ chỉ là một dạng đặc thù của chuyển giao cơng nghệ mà thơi.
Xét dưới khía cạnh pháp lý, chuyển giao công nghệ là một giao dịch
dân sự, và do tính đặc thù của nó, nên Bộ luật Dân sự 2005 đã có hẳn một
phần riêng để điều chỉnh giao dịch này. Chuyển giao công nghệ được thực
hiện trên nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận và được xác lập thông qua cơ chế
hợp đồng, gọi là hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Như vậy, một cách khái quát, khái niệm chuyển giao công nghệ được
hiểu như sau:
Chuyển giao công nghệ là một giao dịch dân sự, được thực hiện qua
cơ chế hợp đồng mà theo đó, bên có quyền chuyển giao công nghệ sẽ chuyển
giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ cho bên tiếp nhận theo
phương thức và các điều kiện do các bên thỏa thuận.
1.1.2.2. Phân loại chuyển giao công nghệ
Việc phân loại chuyển giao cơng nghệ có thể được tiến hành dựa trên
nhiều tiêu chí khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại phổ biến hiện
nay.
Phân loại theo giới hạn địa lý
- Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam được hiểu là việc chuyển giao
công nghệ giữa các cá nhân, tổ chức hoạt động tại Việt Nam. Việc chuyển
giao này không làm cho công nghệ ra khỏi Việt Nam mà bên nhận chuyển
giao vẫn sử dụng công nghệ trong lãnh thổ Việt Nam.
- Chuyển giao công nghệ từ nước ngồi vào Việt Nam.
Chuyển giao cơng nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được hiểu là việc
tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài chuyển giao công nghệ cho tổ chức,

cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam.
- Chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài

17


Chuyển giao cơng nghệ từ Việt Nam ra nước ngồi được hiểu là việc
tổ chức, cá nhân hoạt động ở Việt Nam chuyển giao công nghệ cho tổ chức,
cá nhân hoạt động ở nước ngoài.
Phân loại theo bản chất quyền đối với công nghệ được chuyển giao
- Chuyển giao giản đơn
Chuyển giao giản đơn là hình thức bên chuyển giao công nghệ cho
phép bên nhận chuyển giao quyền được sử dụng công nghệ trong một thời
gian và không gian nhất định. Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ là việc
chuyển giao mà bên sử dụng chỉ có quyền sử dụng cơng nghệ để phục vụ hoạt
động sản xuất, khơng có quyền sở hữu đối với công nghệ. Sự phân biệt
chuyển giao quyền sử dụng công nghệ hay quyền sở hữu công nghệ không chỉ
ở phạm vi khái niệm sử dụng (với nghĩa là khơng được định đoạt) mà cịn ở
chỗ, việc chuyển giao quyền sử dụng thường có giới hạn về thời gian cũng
như không gian. Bên nhận chuyển giao chỉ được sử dụng công nghệ trong
một khoảng thời gian nhất định và có thể, trong một phạm vi khơng gian nhất
định (như chỉ tại Việt Nam chẳng hạn).
Hình thức này diễn ra khá phổ biến hiện nay với giá cả chuyển giao
tương đối thấp. Ví dụ, trong cơng nghiệp sản xuất sản phẩm thép tiền chế, các
hoạt động chuyển giao công nghệ thiết kế, chế tạo sản phẩm thông qua các
hoạt động chuyển giao quyền sử dụng các giao phẩm này trong những khoảng
thời gian nhất định và thông thường bị giới hạn trong các nhà máy của bên
nhận chuyển giao. Giá cả chuyển giao của hình thức này thơng thường thấp
hơn nhiều so với các hình thức chuyển giao khác dưới đây.
- Chuyển giao công nghệ không độc quyền

Chuyển giao cơng nghệ khơng độc quyền là hình thức bên chuyển
giao cơng nghệ đồng ý chuyển giao tồn bộ quyền sử dụng công nghệ cho bên
nhận chuyển giao vô thời hạn, trong phạm vi một không gian nhất định,
nhưng không cho phép bên nhận chuyển giao quyền chuyển nhượng lại cho
bên thứ ba. Hình thức này được thể hiện rất phổ biến trong ngành kinh doanh

18


×