Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Pháp luật về mua bán công ty cổ phần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.7 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------

NGUYỄN THI ̣NGỌC GIAO

PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN
CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 603850

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Phan Thi Thanh
Thủy
̣

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
Trang phu ̣ bià
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mu ̣c các từ viế t tắ t
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MUA BÁN CÔNG TY
CỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN CÔNG TY CỔ PHẦN ...................... 5
1.1

Lược sử về hoạt động mua bán công ty cổ phần ........................................... 5



1.1.1 Hoạt động mua bán Công ty cổ phần trên thế giới ........................................ 5
1.2.2 Hoạt động mua bán Công ty cổ phần ở Việt Nam ........................................ 7
1.2

Khái niệm mua bán công ty cổ phần và bản chất pháp lý của hoạt
viê ̣c mua bán công ty cổ phần .................................................................... 11

1.2.1 Khái niệm mua bán công ty cổ phần .......................................................... 11
1.2.2. Đặc trưng pháp lý của mua bán công ty cổ phần ........................................ 16
1.2.3. Mối quan hệ giữa mua bán công ty cổ phần với hợp nhất, sáp nhập công
ty, chuyển nhượng cổ phần và vấn đề kiểm sốt tập trung kinh tế .................... 20
1.3

Vai trị, ý nghĩa của hoạt động mua bán công ty cổ phần ............................ 24

1.3.1 Đối với các nhà đầu tư ............................................................................... 25
1.3.2 Đối với Nhà nước ...................................................................................... 26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN CƠNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM ......... 27
2.1.

Tở ng quan về hê ̣ thố ng văn bản pháp luâ ̣t về mua bán công
ty cổ phầ n.............. 27

2.2

Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về mua bán CTCP
khơng có yếu tố nước ngồi và thực tiễn thi hành ...................................... 31


2.2.1 Các quy định pháp luật về phương thức, quy trình thủ tục mua bán cơng
ty cổ phần, các trường hợp hạn chế mua bán công ty cổ phần ........................... 31
2.2.2. Các quy định pháp luật về kiểm sốt tài chính trong hoạt động mua
bán cơng ty cổ phần ................................................................................... 45
2.2.3. Hợp đồng mua bán công ty cổ phần ........................................................... 53


2.2.4 Số phận pháp lý của người lao động trong hoạt động mua bán công
ty cổ phần .................................................................................................. 61
2.3

Các quy định của pháp luật Việt Nam về mua bán CTCP có yếu tố
nước ngồi và thực tiễn thi hành ................................................................ 65

2.3.1 Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến M&A ............................ 65
2.3.2 Quy trình, thủ tục thực hiện việc mua bán CTCP có yếu tố nước ngồi .................. 72
2.4

Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới xây dựng pháp luật điều
chỉnh hoạt động mua bán công ty cổ phần .................................................. 77

2.4.1. Pháp luật Trung Quốc ................................................................................ 78
2.4.2. Pháp luật Singapore ................................................................................... 80
2.4.3. Pháp luật Hoa Kỳ ....................................................................................... 81
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN CÔNG TY CỔ PHẦN Ở
VIỆT NAM ............................................................................................... 85
3.1

Sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mua bán

CTCP ở Việt Nam hiện nay ....................................................................... 85

3.2

Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam đối với hoạt động
mua bán Công ty cổ phần............................................................................ 86

3.2.1. Đảm bảo tính phù hợp với điều kiện kinh tế và thực trạng hệ thống
pháp luật .................................................................................................... 86
3.2.2. Hồn thiện pháp luật mua bán cơng ty ở Việt Nam nhằm đảm bảo
quyền tự do kinh doanh của chủ đầu tư ...................................................... 87
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật mua bán công ty ở Việt Nam nhằm đảm bảo quyền
lợi của các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động mua bán công ty ............. 89
3.3

Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật mua
bán CTCP ở Việt Nam hiện nay .................................................................. 90

3.3.1. Ban hành các quy đinh
nh hoạt động mua bán công ty ......... 90
̣ thống nhất điều chỉ
3.3.2 Mô ̣t số kiế n nghi ̣nhằ m tăng cường hiê ̣u quả của hoa ̣t đô ̣ng M &A và
kiể m soát viê ̣c thực hiê ̣n pháp luâ ̣t M&A ................................................... 96
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 101


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2005 :


Bộ luật Dân sự 2005

CĐT

:

Chủ đầu tư

CTCP

:

Công ty cổ phầ n

ĐHCĐ

:

Đại hội đồ ng cổ đông

HĐQT

:

Hội đồng quản trị

NLĐ

:


Người lao đô ̣ng

LCT 2004 :

Luật Cạnh tranh 2004

LCK 2006 :

Luật Chứng khoán 2006

LDN 2005 :

Luật Doanh nghiệp 2005

LĐT 2005 :

Luật Đầu tư 2005

LTM 2005 :

Luật Thương mại 2005

M&A

Sáp nhập và mua bán doanh nghiệp

:


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp - Mergers and Acquisitions – (viế t tắt là
M&A) là một phần tất yếu của bất cứ nền kinh tế lành mạnh nào. Quan trọng hơn, đó
là cách thức chủ yếu để các doanh nghiệp cơ cấu lại, mở rộng và phát triển hoạt động
kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và đem lại thu nhập cho chủ sở
hữu và các nhà đầu tư . Hoạt động M &A đã diễn ra khá lâu trên thế giới . Tại Viê ̣t
Nam M&A đã được quan tâm kể từ khi chúng ta ban hành Luật Doanh nghiệp 1999,
nhưng phải sau khi có Luật doanh nghiệp năm 2005, hoạt động M&A mới thực sự có
những bước phát triển. Khoảng 3 năm gầ n đây , hoạt động M &A Doanh nghiệp trở
nên đươ ̣c quan tâm nhiề u ở Viê ̣t Nam . Có thể nói những khó khăn của nền kinh tế
trong nửa đầu năm 2008 như lạm phát tăng cao, nhập siêu tăng mạnh, cuộc chạy đua
lãi suất huy động, nhiều dự án bất động sản và phát triển hạ tầng bị đình trệ, hoạt
động IPO (Initial Public Offering – phát hành cổ phiếu lần đầu) tạm gián đoạn... cộng
với lộ trình thực hiện cam kết WTO là những yếu tố thúc đẩy hoạt động M&A Trong
giai đoạn hiện nay, hoạt động M&A ngày càng sôi động bởi do hậu quả cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, nhiều doanh nghiệp đã không thể tồn tại độc lập. Một bộ phận
các doanh nghiệp chọn con đường phá sản. Một bộ phận khác chọn cách tái cơ cấu để
có thể trụ vững qua thời kỳ khủng hoảng nhằm mong muốn phát triển lên . M&A là
một trong những công cụ tái cơ cấu hiệu quả nhất được nhiều doanh nghiệp lựa chọn.
M&A đươ ̣c xem là mô ̣t giải pháp huy đô ̣ng vố n tić h cực cho doanh nghiê ̣p đờ ng thời
nó cũng đươ ̣c xem là chiế n lươ ̣c nhằm phát triển doanh nghiệp lên tầm cao mới. Hiện
tại ở Việt Nam đã có nhiều thương vụ M&A được thực hiện với giá tri ̣giao dich
̣ lên
đến hàng trăm triệu đô la Mỹ, khiế n M&A luôn là tâm điể m chú ý của giới đầ u tư.
Hoạt động M&A tại Viê ̣t NamVN đang trở nên sôi động nhưng trên thực tế
chưa có văn bản pháp lý nào định nghĩa cụ thể về vấn đề này. Hiện nay các doanh
nghiệp Việt Nam khi thực hiện M&A chỉ dựa trên khung pháp lý dành cho cổ phần
hoá, phát hành và niêm yết chứng khoán, Luật Doanh nghiệp 2005 (LDN 2005), Luật

1



đầu tư (LĐT2005), Luật cạnh tranh (LCT 2004) và Luật chứng khốn (LCK 2006),
chưa có sự chun biệt về vấn đề này. Chính vì sự mâu thuẫn giữa việc thiếu hụt các
quy định pháp lý và nhu cầu mạnh mẽ trong việc thực hiện các hoạt động M&A trong
bối cảnh của nền kinh tế nước ta, việc phân tích các quy định của pháp luật kinh
doanh (PLKD) hiện hành về M&A, tìm ra các ưu điểm và hạn chế của pháp luật và
đưa ra các đề xuất và kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về M&A đang
trở thành một vấn đề cấp thiết cần phải quan tâm và điều chỉnh. Từ sự đòi hỏi cấp
thiết này tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật về mua bán CTCP ở Việt
Nam” để làm luận văn Thạc sỹ. Sở dĩ công ty cổ phầ n CTCP được chọn làm đối
tượng nhiên cứu của luận văn bởi đây là mơ hình doanh nghiệp phổ biến và được ưa
chuộng nhất hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà cịn trên tồn thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu của Đề tài
Hoạt động M&A đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, điều đó đã tạo ra sức
hút mạnh mẽ cho các nhà nghiên cứu, những chuyên gia kinh tế pháp lý đã tiến
hành nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra nhiều đề tài khoa học có giá trị. Đó là: Luận
văn Thạc sỹ “Thâu tóm-Hợp nhất doanh nghiệp dưới góc nhìn tài chính” của Thạc
sỹ Huỳnh Thị Cẩm Hà; Luận văn thạc sỹ "Pháp luật về mua bán công ty ở Việt
Nam- Thực trạng và giải pháp” của Thạc sỹ Vũ Phương Đông; Luận văn thạc sỹ
“Hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam” của thạc sỹ Mai Vân
Anh; bài viết “Một số vấn đề về sáp nhập, mua lại doanh nghiệp và tình hình Việt
Nam” của PGS.TS Nguyễn Thường Lạng và Nguyễn Thị Quỳnh Thư; bài viết
“Điều kiện xây dựng, phát triển thị trường mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở
Việt Nam” của ThS. Bùi Thanh Lam đăng trên tạp chí Luật học số 4/2008; bài viết
“ Thực trạng pháp luật về mua bán doanh nghiệp” của ThS. Trần Bảo Ánh đăng
trên tạp chí Luật học tạp chí Luật học số 5/2008; bài viết “Hợp đồng mua bán
doanh nghiệp” trong cuốn Pháp luật về Hợp đồng trong thương mại và đầu tư,
NXB Chính trị Quốc gia do TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên); bài nghiên cứu "Thâu
tóm và hợp nhất từ khía cạnh quản trị công ty: lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực

tiễn tại Việt Nam" của Nguyễn Đình Cung và Lưu Minh Đức và một số tác giả

2


khác. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu về hoạt động mua bán Doanh nghiệp này
chủ yếu xem xét hoạt động mua bán doanh nghiệp trong các yếu tố của tư duy kinh
tế, trên phương diện tài chính cùng và một số nội dung pháp lý liên quan; nghiên
cứu của Thạc sỹ Vũ Phương Đông chỉ dừng lại ở việc mua bán các cơng ty nói
chung, chưa chun biệt cụ thể một loại hình cơng ty nào, Luận văn của thạc sỹ Mai
Vân Anh chỉ tìm hiểu khía cạnh pháp lý về Hợp đồng.
Cho đến nay chưa có một cơng trình nào thực sự đi sâu vào tìm hiểu những
vấn đề pháp lý về việc mua bán Công ty cổ phần một cách tồn diện và mang tính
hệ thống nhằm đưa ra những đề xuất mang tính chất pháp lý nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật M&A ở Việt Nam. Rõ ràng là những khoảng trống pháp lý này cần
phải được bổ sung và hồn chỉnh để tạo ra mơi trường pháp lý phù hợp để bảo hộ
thúc đẩy một các hiểu quả các hoạt động M&A đang và sẽ diễn ra trong nền kinh tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được viết trong thời điểm mà những quan niệm, những quy định về
mua bán công ty ở cổ phần ở Việt Nam vẫn còn rất hạn chế, tản mát và chưa có hệ
thống. Vì vậy, mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn của pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, phân tích vai
trị của hoạt động mua bán CTCP trong hoạt động kinh tế, từ đó đưa ra những giải
pháp về mặt pháp lý nhằm hoàn tiện hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ kinh tế
còn rất mới mẻ này.
Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho Luận văn là:
- Làm rõ bản chất pháp lý của hoạt động mua bán CTCP;
- Phân tích vai trị của hoạt động mua bán CTCP đối với quá trình vận động,
phát triển của nền kinh tế;
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hoạt động mua bán

CTCP trên thế giới và ở Việt Nam;
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động mua bán CTCP
nhằm làm rõ cơ sở lý luận về mua bán công ty ở Việt Nam;
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên, đưa ra những nhận định và giải pháp pháp
lý để hoàn thiện chế định về hoạt động mua bán CTCP ở Việt Nam nói riêng, góp phần

3


hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp
luật hiện hành về mua bán CTCP, thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Nam trong sự
phân tích và so sánh với pháp luật về M&A của một số quốc gia trên thế giới.
+ Phạm vi nghiên cứu: Với đề tài “Pháp luật về mua bán CTCP ở Việt
Nam”, tác giả luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề pháp lý
liên quan đến hoạt động mua bán các loại hình CTCP ở trong và ngồi nước Cụm từ
“công ty” được nhắc đến trong luận văn này là chỉ đến Công ty cổ phần
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong q trình
thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp,
thống kê, khái quát hoá để giải quyết nội dung khoa học của đề tài . Đặc biệt, luận
văn rất chú trọng các phương pháp phân tích và so sánh luật ; kết hợp giữa lý luận
với thực tiễn để rút ra các nhận xét , kết luận, làm sáng tỏ các vấn đề bất cập của
pháp luật hiện hành, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị phù hợp.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và
phạm vi nghiên cứu. Ngồi lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về mua bán CTCP và pháp luật về
mua bán công ty cổ phần
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về mua bán
CTCP ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán CTCP ở
Việt Nam.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MUA BÁN CÔNG TY
CỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN CÔNG TY CỔ PHẦN
Tại chương 1, tác giả tập trung làm rõ các vấn đề lý luận chung về mua bán
công ty cổ phần như lịch sử của hoạt động này trên thế giới và Việt Nam, các khái
niệm cơ bản và vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán công ty cổ phần
1.1 Lược sử về hoạt động mua bán công ty cổ phần
1.1.1 Hoạt động mua bán Công ty cổ phần trên thế giới
Những năm cuối của thế kỉ thứ XIX và đầu thế kỉ XX, khi số lượng công ty
trên thế giới tăng mạnh, cũng là lúc hoạt động cạnh tranh diễn ra khốc liệt. Rất
nhiều công ty phát triển mạnh mẽ trong một thời gian, tạo dựng được thương hiệu,
xây dựng cơ sở kinh doanh hoàn chỉnh, nhưng không kịp đổi mới hoặc do những
thay đổi bất ngờ của tình hình kinh tế dẫn đến tình trạng kiệt quệ về mặt tài chính.
Đúng vào thời điểm này nhu cầu về việc mua bán công ty, nhu cầu về sáp nhập các
cơng ty được hình thành và từ đó đến nay trên thế giới xuất hiện 5 làn sóng về mua
bán cơng ty.[22]
Làn sóng thứ nhất những năm 1897-1904: Làn sóng này được coi là khởi
đầu của hoạt động mua bán công ty trên thế giới, do q trình bùng nổ nhanh
chóng của nền kinh tế, hệ thống giao thông được nâng lên một tầng cao mới, hệ

thống văn bản pháp luật về công ty được quy định đầy đủ. Trong thời gian này chủ
yếu các hoạt động mua bán diễn ra giữa các công ty phát triển cơng nghiệp nặng vì
vậy số lượng các vụ mua bán cịn rất hạn chế. Tuy nhiên đợt sóng này chấm dứt
nhanh chóng do khủng hoảng kinh tế những năm 1903 và sự sụp đổ của thị trường
chứng khoán năm 1904.
Làn sóng thứ hai những năm 1916-1929: Làn sóng này được khởi tạo từ sự
bùng nổ của kinh tế thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhu cầu về các mặt
hàng nhu yếu phẩm tăng mạnh tạo đà thuận lợi cho các công ty phát triển mạnh mẽ
và cạnh tranh trên thị trường, sự phát triển về khoa học công nghệ cũng tạo điều kiện

5


thuận lợi cho các công ty tăng năng suất lao động cải tiến chất lượng hàng hóa. Hàng
loạt các vụ mua bán diễn ra trong các lĩnh vực luyện kim, hóa dầu, thuốc, và phương
tiện vận chuyển, với sự tham gia của một số ngân hàng đầu tư trong những thương vụ
này. Làn sóng thứ hai chấm dứt sau đại khủng hoảng kinh tế khởi nguồn từ sự sụp đổ
của thị trường chứng khốn ngày 29-10-1929.
Làn sóng thứ ba là những năm 60 của thế kỉ XX: Kinh tế thế giới lại trải qua
một thời kì phát triển mạnh sau đại chiến thế giới lần thứ 2, thị trường chứng khốn
trở lại cùng với đó là sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, sự lớn mạnh không ngừng của
các tập đồn tài chính tạo đà cho các cuộc mua bán diễn ra sơi nổi trong thời kì này.
Làn sóng thứ tư là những năm 80 của thế kỉ XX: Thế giới bắt đầu xuất hiện
những nền kinh tế mới bên cạnh Mỹ và các nước Châu Âu như: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore v.v, tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên toàn cầu. Rất nhiều đổi mới
được diễn ra trong các lĩnh vực về tài chính, ngân hàng kèm theo đó là sự sụp đổ
của các tập đồn kinh tế lớn trên thế giới tạo cơ sở cho nhiều hoạt động mua bán
công ty được diễn ra. Tuy nhiên trong giai đoạn này các yếu tố bổ trợ chưa đủ mạnh
để đẩy hoạt động mua bán công ty thực sự phát triển tương xứng với tình hình của
nền kinh tế khi đó.

Làn sóng thứ năm từ năm 1992 đến nay: Đây là thời điểm để các hoạt động
mua bán diễn công ty ra sôi nổi, đa dạng về cách thức cũng như giá trị. Từ năm
1995 trở đi, không năm nào số lượng các vụ giao dịch xuống dưới con số 15.000 vụ,
đặc biệt là năm 2000: số lượng giao dịch là 35.000 vụ với tổng giá trị lên tới 3.500
tỷ USD, và năm 2007 với 30.000 vụ tương ứng giá trị là 4.000 tỷ USD. Trong số đó
có rất nhiều thương vụ có giá trị lớn như: Vodaphone Airtouch PLC mua lại
Mannesmann năm 1999 với trị giá 183 tỷ USD; American Online Inc (AOL) mua
lại Time Warner với trị giá 165 tỷ vào năm 2000.[43]
M&A trên thế giới đã tồn tại từ rất lâu đời, có lịch sử hàng trăm năm và được
biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hiện nay, hoạt động mua bán công ty
đang trở thành một vấn đề nóng hổi trong hoạt động kinh tế của thế giới đặc biệt là
thị trường tài chính. Năm 2008 chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt

6


đầu từ hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ. Sự sụp đổ mang tính chất
dây chuyền của các tập đồn tài chính hàng đầu ở Mỹ đã đẩy nền kinh tế mạnh nhất
thế giới vào một cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng, ngay lập tức lan rộng sang
Châu Âu, Châu Á và giờ đây ảnh hưởng của nó đã bao trùm tồn thế giới. Thời
điể m này rấ t thuâ ̣n l ợi cho các công ty, tập đoàn lớn trên thế giới tiến hành các
thương vụ mua bán công ty để tái cơ cấu lại cấu trúc của cơng ty mình nhằm vượt
qua khó khăn của khủng hoảng kinh tế.
1.2.2 Hoạt động mua bán Công ty cổ phần ở Việt Nam
Theo báo cáo thường niên năm 2009 về hoạt động mua bán công ty tại Việt
Nam của cơng ty kiểm tốn Pricewaterhouse Coopers, hoạt động mua bán công ty
của Việt Nam tuy mới ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành nhưng lại đang nhận
được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngồi nước, bất chấp những khó khăn
về tài chính do cuộc khung hoảng tài chính tồn cầu gây ra.[57] Hoạt động mua bán
cơng ty tiếp tục được duy trì và tăng về số lượng cũng nh ư giá trị giao dịch cũng

nhưng đa dạng về cách thức thực hiện.
Trên thực tế, ở Việt Nam, hoạt động mua bán công ty bắt đầu xuất hiện từ
năm 2000 và tăng dần theo từng năm. Bắt đầu từ việc Công ty Colgate (Mỹ) mua
thương hiệu kem đánh răng Dạ Lan với giá 3 triệu USD. Sau Dạ Lan, Tập đoàn
Unilever của Mỹ mua thương hiệu kem đánh răng P/S của Công ty Hóa mỹ phẩm
Phong Lan với giá 5 triệu đơ. Năm 2003, có 41 thương vụ với giá trị 118 triệu USD
[58]; đến năm 2008 con số là 146 vụ tương ứng với 1.009 triệu USD. Trong đó số
đó có những thương vụ nổi bật như: Savico mua lại khách sạn Furama 16 triệu USD
tháng 11 năm 2005; Kinh Đô mua thương hiệu kem Wall và đang tiến hành mua
hãng nước giải khát Tribeco; Holcim mua lại Cotec Cement với giá 50 triệu USD
tháng 8 năm 2008; Quantas mua lại 18% sau đó là 31% và hiện nay là 49% cổ phần
của hãng hàng không giá rẻ Jetstar Pacific; VRI mua lại Tiberon với giá 230 triệu
USD.[16]. Hoạt động mua bán công ty được tiến hành trên nhiều lĩnh vực trong đó
tập trung vào các liñ h v ực: ngân hàng, chứng khốn, sản xuất hàng tiêu dùng, bn
bán lẻ, dược phẩm; kiểm tốn và cơng nghệ thơng tin

7


(i) Lĩnh vực ngân hàng: Hoạt động mua lại các ngân hàng ở Việt Nam được
thực hiện từ những năm cuối của thế kỉ trước, trong giai đoạn Việt Nam chuẩn bị
những bước đà để hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế thế giới. Hoạt động mua
lại và tiến hành sáp nhập của các Ngân hàng Việt Nam được chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1, trước năm 2006, trong quá trình tiến hành triển khai dự án
“Chấn chỉnh và sắp xếp các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” do Thủ
tướng Chính Phủ phê duyệt (Quyết định số 212/1999/QĐ-TTg ngày 29/10/1999) đã
có nhiều Ngân hàng Thương mại cổ phần nông thôn bị tiến hành mua lại để thành
lập các Ngân hàng Thương mại cổ phần có quy mô vốn và địa bàn hoạt động rộng
lớn hơn. Tiêu biể u là viê ̣c Ngân hàng Th ương mại cổ phần Phương Nam tiến hành
mua lại và sáp nhập với: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đồng Tháp, Ngân hàng

Thương mại cổ phần Đại Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Nông thôn Châu
Phú- An Giang, Ngân hàng Thương mại cổ phần Cái Sắn- Cần Thơ.
Giai đoạn 2, từ năm 2006 đến nay, giai đoạn này chứng kiến làn sóng đầu tư
của các tập đồn tài chính, các ngân hàng quốc tế vào Việt Nam thông qua hoạt
động mua bán. Hiện nay mức sở hữu tối đa của một nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài trong một Ngân hàng thương mại cổ phần là không quá 15% (Nghị định
69/2007/NĐ-CP "Về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của Ngân hàng
thương mại Việt Nam"của Chính phủ ban hành ngày 20/4/2007), trừ trường hợp đặc
biệt vào tháng 8 năm 2008, được sự chấp thuận của Thủ tướng, HSBC đã nắm giữ
20% tổng số vốn điều lệ của Ngân hàng Kỹ Thương (Techcombank). Các tập đoàn
nhà nước Việt Nam hiện nay cũng đang nắm giữ một tỷ lệ vốn khá lớn trong các
Ngân hàng Thương mại, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nắm giữ 30% vốn
điều lệ của Ngân hàng An Bình; Tập đồn Dầu khí Việt Nam (PVN) nắm giữ 20%
vốn điều lệ của Ngân hàng dầu khí tồn cầu (GP bank) và 20% vốn điều lệ của
Ngân hàng Đại Dương (Ocean bank), hay gần đây nhất là việc Eximbank đã mua lại
9,73% vốn điều lệ của Sacombank và là cổ đông đại diện ủy quyền đạt 51%.
Hiện nay số lượng Ngân hàng ở Việt Nam là tương đối nhiều (36 Ngân hàng
thương mại cổ phần và 6 Ngân hàng liên doanh) so với quy mô dân số (khoảng 85

8


triệu người) và GDP là 122 tỷ USD (năm 2011) [69]. Trong khi đó Hàn Quốc với
GDP gấp khoảng 10 lần Việt Nam (857 tỷ USD, năm 2008) chỉ có 20 Ngân hàng.
Vì vậy xu hướng trong tương lai sắp tới, số lượng các Ngân hàng tại Việt Nam phải
giảm xuống cho phù hợp vì vậy nhiều Ngân hàng có quy mơ vốn nhỏ, có khả năng
quản trị yếu, sẽ bị mua lại bởi các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Số lượng ngân
hàng dự định sẽ giảm 30%-40% trong một vài năm tới đây.[16]
(ii) Lĩnh vực phân phối bán lẻ: Từ ngày 01/01/2009, theo cam kết hội nhập
WTO, Việt Nam đã cho phép các nhà đầu tư nước ngồi tiến hành hình thức đầu tư

100% vốn nước ngồi trên thị trường bán lẻ mở ra điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư trong quá trình tiến hành kinh doanh tại Việt Nam. Hãng bán lẻ nổi tiếng
Dairy Farm (Hongkong) mua lại 6 chuỗi siêu thị Citimart của Công ty Đông Hưng.
Lotte mua lại 35,6% vốn điều lệ của Bibica và cử đại diện giữ chức chủ tịch Hơ ̣i
đờ ng quản tri ̣ (HĐQT) và kiểm sốt công ty này. Đối với các nhà phân phối bán lẻ
Việt Nam đi đầu là Kinh Đô, sau khi mua lại dây chuyền sản xuất Kem Wall từ
Unilevers Bestfood. Trong thời gian sắp tới, Việt Nam sẽ đón nhận nhiều nguồn
vốn đầu tư vào hoạt động bán lẻ của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới như Wall
Mart, Bestbuy, H&M, v.vv.. và cách thức mà các nhà đầu tư này sẽ ưu tiên lựa chọn
là thông qua con đường mua bán công ty. Lĩnh vực phân phối bán lẻ là lĩnh vực có
nhiều tiềm năng nhất để đón nhận nguồn vốn đầu tư.[16]
(iii) Trong lĩnh vực chứng khoán: Cùng với sự phát triển nóng của thị trường
chứng khốn Việt Nam trong những năm vừa qua, số lượng các cơng ty chứng
khốn được thành lập với tốc độ nhanh chóng nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà
đầu tư tham gia vào một loại thị trường còn mới mẻ này. Tuy nhiên với 105 cơng ty
chứng khốn đang hoạt động (tính đến thời điểm tháng 9/2009) trong đó số cơng ty
có vốn điều lệ dưới 300 tỷ chiến gần 80% điều này tạo ra rủi ro rất lớn cho các nhà
đầu tư nói riêng và thị trường chứng khốn nói chung. Hiện nay, Việt Nam chỉ cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ 49% vốn điều lệ của các cơng ty
chứng khốn và trong tương lai trung hạn, sẽ diễn q trình mua lại hoặc thơn tính
các cơng ty chứng khốn khơng có tiềm lực tài chính (khơng có các cơng ty tài

9


chính, tập đồn nhà nước hỗ trợ). Và số lượng các cơng ty chứng khốn sẽ giảm
50%-60% sau q trình mua bán và thơn tính cơng ty.[16]
(iv) Trong lĩnh vực dược phẩm và kiểm toán: Đặc điểm trung của hai lĩnh
vực này ở Việt Nam đó là có sự tham gia đông đảo của các công ty, tuy nhiên, hầu
hết các công ty hoạt động trong hai lĩnh vực này đều không đáp ứng được nhu cầu

về vốn và quy mô sản xuất theo tiêu chuẩn mà thế giới và Việt Nam ban hành.
Trong ngành dược phẩm, các công ty sản xuất thuốc tại Việt Nam chủ yếu
sản xuất các loại thuốc thông thường mà chưa sản xuất được các loại thuốc đặc trị,
nhiều công ty chưa đảm bảo được tiêu chuẩn GMP của WHO. Năm 2006, Việt Nam
bắt đầu tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực
dược phẩm và tiếp tục tăng hàng năm.
Trong ngành kiểm tốn, hiện nay có 146 cơng ty kiểm tốn (tính đến hết năm
2008) đang hoạt động trên thị trường kiểm tốn Việt Nam nhưng chỉ có 26 cơng ty
được phép kiểm tốn cho các cơng ty đại chúng (loại hình cơng ty cần kiểm tốn
nhất, và chiếm thị phần chủ yếu về nhu cầu kiểm toán). Hiện nay các cơng ty kiểm
tốn nhỏ đang rất khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội việc làm do thiếu kiểm tốn
viên, thiếu uy tín và thiếu vốn.
Xu hướng của hai lĩnh vực này trong những năm tới đây sẽ xảy ra nhiều vụ
M&A để tiến hành đầu tư vào một thị trường mới (lĩnh vực dược phẩm) hoặc để
thay đổi quy mô và chất lượng dịch vụ (đối với kiểm tốn), q trình diễn ra hoạt
động M&A hứa hẹn sẽ có sự tham gia tích cực của các NĐT nước ngoài.[16]
Tiểu kế t: Từ việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động mua bán công ty tại một số
lĩnh vực ngành nghề quan trọng , tác giả nhận thấy hoạt đô ̣ng M&A ở Viê ̣t Nam có
mô ̣t số tính chấ t chung như sau:
Một là, hoạt động M&A ở Việt Nam vẫn đang ở thời kì đầu của q trình
hình thành, các giao dịch chủ yếu có giá trị thấp, các giao dịch có giá trị lớn diễn ra
với số lượng ít và chủ yếu do các thương nhân, NĐT nước ngoài thực hiện. Hoạt
động M&A trước năm 2005 chỉ diễn ra nhỏ lẻ, tự phát, sau năm 2005 mới tập trung
hơn và có quy mơ hơn nhờ sự ra đời của LDN 2005 và LCK 2006.

10


Hai là, hoạt động M&A vẫn còn ở mức độ đơn giản chỉ đơn thuần là việc
mua lại tài sản của cơng ty, hình thức mua lại chủ yếu là thân thiện (friendly) mà

chưa có nhiều hình thức để các chủ thể kinh doanh lựa chọn, đặc biệt là hình thức
mua lại mang tính chất thơn tính đối thủ rất phổ biến trên thế giới.
Ba là, trong nhiều trường hợp, hoạt động mua bán công ty mới chỉ dừng lại ở
việc mua cổ phần để đầu tư tài chính, trở thành cổ đơng chiến lược do cịn nhiều
ngành nghề mà Việt Nam còn giới hạn cho các nhà đầu tư.
1.2 Khái niệm mua bán công ty cổ phần và bản chất pháp lý của hoạt
viêc̣ mua bán công ty cổ phần
1.2.1 Khái niệm mua bán công ty cổ phần
Theo từ điển bách khoa Việt Nam “Mua bán là hành vi trao đổi giữa người
mua hàng nhận được quyền sở hữu hàng hóa từ người bán bằng cách trả một số
tiền theo sự thỏa thuận về giá cả của hai bên”.[61]
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “mua bán” thường được sử dụng với thuật
ngữ “tài sản” trong dân sự, hoặc “hàng hóa” trong thương mại, thuật ngữ “Mua bán
cơng ty” vẫn còn rất mới mẻ trong hệ thống pháp luật của Việt Nam vì đối tượng
của hoạt động mua bán là "công ty cổ phần" – “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.”.[38], là một pháp nhân
độc lập có quyền nhân danh mình để tham gia các giao dịch.
Pháp luật nước ngoài sử dụng nhiều thuật ngữ liên quan đến hoạt động mua
bán công ty như M&A (Mergers and Acquisitions), Takeovers, Buyout, v.v…Các
thuật ngữ này cho ta những hình dung cơ bản về hoạt động mua bán công ty theo
pháp luật nước ngoài.
Mergers and Acquisitions là thuật ngữ được ghép từ “Mergers” có nghĩa là
sáp nhập và “Acquisitions” là mua lại. Trong đó:
Mergers- Sáp nhập là sự kết hợp của hai hay nhiều công ty với nhau, cùng
nhau thỏa thuận về tài sản, phân chia thị trường, thương hiệu và thành lập một công
ty duy nhất với quy mô lớn hơn. Sáp nhập được chia thành nhiều loại:
(i) Sáp nhập theo chiều ngang (Horizontal Mergers) là cuộc sáp nhập giữa

11



các công ty là đối thủ cạnh tranh của nhau hoặc những công ty trên cùng một thị
trường liên quan hoặc hoạt động cùng nhau trên những khâu trong quá trình sản
xuất. Ví dụ như GM motors của Mỹ sáp nhập vơi Deawoo của Hàn Quốc trở thành
GM Deawoo.
(ii) Sáp nhập theo chiều dọc (Vertical Mergers) là cuộc sáp nhập giữa các
công ty hoạt động trong các khâu khác nhau của cùng một lĩnh vực, trên cùng một
chuỗi giá trị để mở rộng hình thức và khả năng kinh doanh của nhà đầu tư. Ví dụ
như một cơng ty sản xuất hàng may mặc sáp nhập với một công ty có chuỗi cửa
hàng bán quần áo.
(iii) Sáp nhập kết hợp (Conglomerate Mergers) là cuộc sáp nhập giữa các
công ty hoạt động trên những lĩnh vực hồn tồn khác nhau. Hình thức này giúp cho
các NĐT giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh thơng qua việc đa dạng hóa hình thức
và sản phẩm kinh doanh, mở rộng hoạt động kinh doanh về mặt địa lý.
Acquisitions (hay Takeovers)- Mua lại là hoạt động của một doanh nghiệp
khi muốn nắm giữ hoặc tìm cách kiểm sốt hoạt động của một cơng ty khác thông
qua việc mua một phần tài sản hoặc cổ phần chi phối đủ để khống chế toàn bộ hoạt
động của công ty mục tiêu. Hoạt động mua lại cũng được chia thành nhiều loại:
(i) Mua lại “thân thiện”- Friendly Hostile- là hình thức cơng ty mua đưa ra
một đề nghị mua lại công ty bị mua, chủ sở hữu công ty bị mua sau khi nhận đề
nghị tiến hành họp và đưa ra quyết định bán công ty. Hợp đồng được kí kết và hai
bên nhanh chóng thanh lý hợp đồng và tiến hành các thủ tục tiếp theo.
(ii) Mua lại “thơn tính”- Hostile Takeovers- là hình thức cơng ty mua tiến
hành nhiều biện pháp để thực hiện việc mua lại khi công ty bị mua từ chối đề nghị
mua của cơng ty mua lại theo hình thức mua lại “thân thiện”. Các biện pháp đó có
thể là chào mua với giá trị cao hơn giá trị trên thị trường rất nhiều (tender offer); lôi
kéo các cổ đông không hài lòng với cách thức tổ chức quản lý hiện hành của công
ty (proxy fights); thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khốn, mua lại tài sản của
cơng ty v.v.. Việc Công ty Colgate (Mỹ) mua thương hiệu kem đánh răng Dạ Lan

là một ví dụ điển hình cho kiểu mua bán này.

12


(iii) Mua lại "ngược" - Reverse Takeover- là hình thức một cơng ty tư nhân
mua lại tồn bộ một cơng ty đại chúng, hình thức này mang lại cho cơng ty tư nhân
cơ hội trở thành công ty đại chúng mà có thể bỏ qua nhiều giai đoạn phức tạp (thẩm
định, IPO, v.v..). Tuy nhiên, hình thức mua bán này rất phức tạp và thường được
thực hiện thông qua các "Shell corporation" (những công ty được thành lập tại
những "thiên đường" thuế).
Hai thuật ngữ Mergers và Acquisition khi để độc lập mang những ý nghĩa và
cách thức tiến hành hoàn toàn khác nhau tuy nhiên trên thế giới vẫn thường sử dụng
hai thuật ngữ này chung thành cụm từ M&A vì trong nhiều trường hợp mua lại sẽ
dẫn đến kết quả cuối cùng là sự sáp nhập của một công ty vào một công ty khác.
Tại Việt Nam, việc mua bán công ty cổ phần chủ yếu dưới dạng “thân
thiện”- Friendly Hostile, chỉ một số ít là mua lại theo kiểu “thơn tính”- Hostile
Takeovers. Cịn việc mua lại "ngược" - Reverse Takeover thì hầu như chưa diễn ra.
Dưới góc độ pháp lý, ở Việt Nam hiện nay, quan niệm về "Mua bán cơng ty"
chưa có sự thống nhất và được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau, cụ thể:
- Nghị định số 109/2008/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 10/10/2008
về bán, giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước quy định “Bán doanh nghiệp là việc
chuyển sở hữu có thu tiền tồn bộ doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp sang
sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân” (khoản 1 điều 3). Định nghĩa này cho
phép xác định bản chất của quan hệ M&A và chuyển quyền sở hữu có thu tiền và
đối tượng của quan hệ mua bán là một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp
- LDN 2005 không định nghĩa về mua bán doanh nghiệp hay mua bán cơng
ty. Ngồi quy định về bán doanh nghiệp tư nhân, LDN 2005 chỉ quy định về mua
bán, chuyển nhượng cổ phần.

- Theo LCT 2004 “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn
bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm sốt, chi phối tồn bộ
hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại” (Khoản 3, Điều 17). Theo quy
định này, mua bán doanh nghiệp là việc mua tài sản của doanh nghiệp tuy nhiên

13


việc mua này lại mang đến cho bên mua quyền kiểm sốt, chi phối tồn bộ hoặc
một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua. Do mục tiêu của hoạt động M&A là mục
tiêu kiểm sốt hoạt động cơng ty, việc mua bán không chỉ diễn ra đơn thuần với
việc mua bán tài sản thông thường mà phải thỏa thuận mua bán các yếu tố liên quan
đến thương hiệu, tên thương mại, lợi thế kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, hệ thống
nhân sự, hệ thống khách hàng và những vấn đề có liên quan khác [20, tr. 279,280]
Theo quan điểm của LCT 2004, “Mua lại doanh nghiệp” gắn liền với hoạt
động mua tài sản của doanh nghiệp nhằm nắm quyền kiểm sốt chi phối doanh
nghiệp đó. Nhưng trên thực tế, việc mua cổ phần đến một mức nhất định cũng tạo
điều kiện cho người mua kiểm soát và chi phối hoạt động của cơng ty. Việc mua cổ
phần hồn tồn khác với việc mua tài sản của công ty theo Luật Cạnh tranh vì nếu
hoạt động mua tài sản của cơng ty thì bên bán là cơng ty, nhưng chủ thể tham gia ký
kết hợp đồng mua bán cổ phần là cổ đông với bên mua. Bên mua sẽ trở thành cổ
đông của công ty và tham gia hoạt động quản lý công ty. Nhưng việc mua bán cổ
phần, bên mua khơng phải lúc nào cũng nhằm mục đích tham gia vào quản hoạt
động quản trị công ty, hay nhằm kiểm sốt chi phối hoạt động cơng ty mà có thể chỉ
là một hành vi đầu tư thơng thường. Đây chính là điểm vướng mắc trong hệ thống
pháp luật Việt Nam về mua bán công ty.
Rõ ràng, pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có mợt quan điểm thống nhất về
khái niệm mua bán doanh nghiệp, đồng thời cũng chưa đưa ra khái niệm như thế
nào là mua bán công ty cổ phần. Tác giả tiếp cận khái niê ̣m này trên cơ sở nghiên
cứu các khái niệm về hoạt động M&A của pháp luật nước ngoài và các khái niệm về

M&A của pháp luật trong nước. Về cơ bản, quan niệm của pháp luật Việt Nam về
“mua bán công ty cổ phần” được hiểu theo nghĩa hẹp đó là mua bán tài sản của công
ty nhằm nắm quyền chi phối hoạt động của công ty. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam
chỉ có quy định về việc bán các loại hình doanh nghiệp một chủ (doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân), hoạt động bán các doanh nghiệp này khá đơn
giản do yếu tố 1 chủ sở hữu. Việc xây dựng phương án bán, lên kế hoạch và ra quyết
định bán mang yếu tố chủ quan của chủ sở hữu. Xét trên yếu tố tài sản, hầu hết các

14


doanh nghiệp này, giá trị tài sản khơng lớn vì vậy hoạt động mua bán cũng diễn ra dễ
dàng hơn. Quy định về mua bán CTCP vẫn đang được bỏ ngỏ.
Qua những nghiên cứu quan niệm về "mua bán công ty " theo pháp luật thế
giới và Việt Nam, có thể thấy, "mua bán công ty cổ phần " hiện nay được nhìn nhận
dưới hai góc độ (i) từ góc độ pháp luật thế giới, mua bán CTCP là hoạt động mua
bán tồn bộ hoặc một phần tài sản cơng ty, hoặc mua cổ phần để nắm quyền chi
phối đối với hoạt động của cơng ty. (ii) từ góc độ pháp luật Việt Nam, mua bán
CTCP là mua bán toàn bộ hoặc một phần tài sản của công ty nhằm chi phối toàn bộ
hoặc một ngành nghề một lĩnh vực kinh doanh của công ty bị mua lại. Như vậy, đối
tượng của mua bán công ty theo pháp luật Việt Nam chỉ đơn thuần là toàn bộ tài sản
hoặc một phần tài sản của công ty bị mua lại. Mua bán cơng ty theo cách nhìn của
luật pháp thế giới bổ sung thêm một đối tượng của hoạt động mua bán cơng ty đó là
cổ phần. Với cách hiểu này, hoạt động mua lại công ty trở nên rất phức tạp đối với
các công ty tham gia giao dịch và đối với cơ quan quản lý đặc biệt là những hoạt
động mua bán công ty xuyên quốc gia.
Theo quan điểm của tác giả mua bán CTCP đươ ̣c hiể u là quá trình tiến hành
các thủ tục để dẫn tới sự thay đổi về cấu trúc vốn, cấu trúc quản lý của công ty cổ
phần. Hoạt động mua lại CTCP được quy định không chỉ đơn giản là việc mua tồn
bộ cơng ty, mua tài sản cơng ty mà cịn là việc mua cổ phần để nắm quyền chi phối

đối với công ty, hay tranh thủ sự ủng hộ của các cổ đơng để nắm quyền kiểm sốt
cơng ty. Sâu xa hơn nữa, việc mua bán CTCP chính là nhằm mua bán thị trường
tiêu thụ sản phẩm phía sau cơng ty bán để mở rộng thị phần cho công ty mua.
Hiện nay hoạt động mua bán CTCP ở Việt Nam đang có những điều kiện
thuận lợi để phát triển như có nhiề u CTCP quy mô nhỏ và vừa không vươ ̣t qua
đươ ̣c trước cơn đa ̣i khủng hoảng nên có nhu cầ u

bán, nhiề u NĐT trong và ngoài

nước đề u muố n tiế p câ ̣n để mua bởi đây là kênh đầu tư quan trọng và hiệu quả . Tuy
nhiên, cách hiểu về hoạt động M&A theo nghĩa hẹp của pháp luật Việt Nam hiện
hành chưa phổ quát và đáp ứng được yêu cầu của những hoạt động đang diễn ra trên
thực tế. Việc mở rộng khái niệm và thay đổi quan niệm về M&A là một nhu cầu cần

15


phải thực hiện ngay trong thời gian sắp tới. Theo ý kiến của tác giả, cách hiểu về
hoạt động mua bán công ty theo nghĩa rộng của pháp luật trên thế giới hiện nay là
phù hợp và pháp luật Việt Nam có thể hồn thiện theo xu hướng đó.
1.2.2. Đặc trưng pháp lý của mua bán công ty cổ phần
Thứ nhất, mua bán CTCP mang bản chất pháp lý của quan hệ mua bán – có
sự chuyển quyền sở hữu có thu tiền. Đây là một giao dịch mang tính chất dân sự.
Tuy nhiên, đối tượng của giao dịch này lại không phải là “tài sản” đơn thuần như
các giao dịch dân sự thông thường, mà là CTCP, một thực thể pháp lý, là “hàng
hố đặc biệt”. Thơng qua đó, người mua hướng tới quyền kiểm soát đối với doanh
nghiệp. Nói cách khác khách thể của quan hệ mua bán CTCP chính là trái quyền.
Trong mua bán CTCP có sự chuyển giao một phần hoặc toàn bộ sản nghiệp
thương mại của doanh nghiệp cùng các trái quyền. Sản nghiệp thương mại là toàn
bộ tài sản gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vơ hình thuộc quyền sở hữu hoặc

quyền sử dụng hợp pháp của thương nhân phục vụ cho hoạt động thương mại: trụ
sở, cửa hàng, kho tàng, trang thiết bị, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, mạng
lưới tiêu thụ hàng hoá và cung ứng dịch vụ...[41]. Các trái quyền là quyền kiểm soát
doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp đối với người thứ ba,
bao gồm cả quyền và nghĩa vụ đối với chủ nợ về quyền và nghĩa vụ đối với người
lao động...
Đây chính là điểm khác biệt của quan hệ mua bán doanh nghiệp và các quan
hệ mua bán dân sự thông thường và cả quan hệ mua bán thương mại khác như mua
bán tài sản doanh nghiệp. Điều đáng lưu ý là, mua bán tài sản doanh nghiệp chỉ xuất
hiện sự chuyển giao quyền sở hữu đối với khối tài sản đó, có sự chuyển giao một
phần sản nghiệp thương mại - đó là phần tài sản hữu hình, chứ khơng thiết lập bất
cứ quyền gì của người mua đối với hoạt động chi phối doanh nghiệp hay bất kì
quyền gì trong hoạt động của doanh nghiệp.
Ngồi ra, hàng hố "CTCP" trong quan hệ này là "hàng hoá đặc biệt". Khi
mua bán CTCP có sự chuyển giao tài sản hữu hình của CTCP và cả giá trị tiềm
năng của chính công ty cổ phần: tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, hệ thống
khách hàng và các yếu tố khác liên quan đến sản nghiệp kinh doanh. Hơn nữa, hàng

16


hóa “CTCP” là một thực thể pháp lý và hàng ngày hàng giờ có khả năng tự tạo ra
các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho chính nó. Nó là một loại hàng hố phi vật chất,
khơng thể cầm nắm nhưng nó vận hành như một cơ thể sống thơng qua những cá
nhân hoạt động trong cơng ty. Vì thế, giá trị của CTCP từng giờ, từng phút thay đổi.
Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động mua bán CTCP là bên bán hoặc bên mua.
Trước hết, bên bán trong giao dịch mua bán CTCP là chủ sở hữu công ty cổ
phần. Một số ý kiến cho rằng chủ thể của quan hệ mua bán doanh nghiệp cịn có
thể là chính doanh nghiệp đang hoạt động bởi CTCP là một pháp nhân có tư cách
pháp lý độc lập, có quyền nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Quan điểm này là khơng thoả đáng, bởi vì chủ sở hữu CTCP (ĐHĐCĐ) mới là chủ
thể có quyền quyết định tới mọi hoạt động của cơng ty, do đó chỉ có ĐHĐCĐ mới
là chủ thể quyết định bán cơng ty. Hơn nữa, theo nguyên lý của Luật dân sự thì
trong quan hệ mua bán cơng ty cổ phần, bản thân CTCP là đối tượng của quan hệ
đó thì khơng thể trở thành chủ thể của quan hệ này được. CTCP đang hoạt động đó
chỉ có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán CTCP khi diễn ra một số trường
hợp bán một phần cơng ty. Khi đó, bản thân CTCP là chủ thể của hợp đồng với tư
cách đại diện cho ĐHĐCĐ. Vì vậy, ĐHĐCĐ của cơng ty ln ln là người có
quyền quyết định việc bán cơng ty (dù bán tồn bộ hay bán một phần công ty) và
trở thành chủ thể bán công ty.
Bên mua cơng ty cổ phần, có thể là doanh nghiệp, cá nhân hoặc tổ chức.
- Luật cạnh tranh 2004 chỉ điều chỉnh trường hợp bên mua CTCP là doanh
nghiệp. Sở dĩ luật cạnh tranh quy định như vậy là vì Luật cạnh tranh quy định mua
lại doanh nghiệp là một hình thức tập trung kinh tế [35, Đ16]. Luật pháp không cấm
việc mua lại CTCP nhưng kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế nhằm đảm bảo và
khuyến khích cạnh tranh. Chỉ khi bên mua lại CTCP là doanh nghiệp thì tập trung
kinh tế mới xuất hiện.
- LDN 2005 khơng quy định về chủ thể mua công ty cổ phần. Nhiều ý kiến
cho rằng có thể dẫn chiếu khoản 2 Điều 13 LDN 2005 để quy định điều kiện chủ thể
mua CTCP. Do khi mua lại CTCP thì chủ thể đó thực hiện việc quản lý doanh
nghiệp, xuất hiện việc đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp, do đó, dẫn chiếu

17


khoản 2 Điều 13 quy định về quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp để quy định
điều kiện cho chủ thể mua lại doanh nghiệp. Theo đó, một tổ chức cá nhân không
thể là người mua CTCP trong các trường hợp sau:
a, Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan,

đơn vị mình;
b, Cán bộ, cơng chức theo quy định pháp luật về cán bộ, công chức;
c, Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng
trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam;
d, Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở
hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý
phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ, Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị
mất năng lực hành vi dân sự;
e, Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Tồ án cấm hành nghề
kinh doanh;
g, Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, không thể lấy khoản 2 Điều 13 LDN
2005 làm quy định về điều kiện chủ thể mua lại công ty cổ phần. Theo quan điểm
này, ta lại xem xét điều kiện góp vốn của chủ thể đó khi tham gia quan hệ mua bán
CTCP để xem xét điều kiện người mua công ty. Nếu họ mua lại Công ty không phải
để tham gia điều hành quản lý hay thành lập doanh nghiệp, thì những người thuộc
khoản 2 Điều 13 LDN 2005 vẫn có thể mua một cơng ty cổ phần. Khi một cán bộ,
công chức mua lại một CTCP nhưng không để quản lý, điều hành hay đứng tên
đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, mà mang tồn bộ doanh nghiệp đó làm tài
sản góp vốn vào một doanh nghiệp khác, ví dụ như một CTCP, theo quy định của
pháp luật, điều này hồn tồn có thể chấp nhận được. Hoặc người mua dùng công ty
mua được làm tài sản tặng cho một người khác có đủ điều kiện thành lập doanh

18


nghiệp, hoặc dùng làm tài sản thừa kế, điều đó cũng không bị pháp luật cấm.
Như vậy, ý kiến thứ hai thoả đáng hơn. Theo đó, người mua lại doanh nghiệp

phải thoả mãn điều kiện khơng bị cấm góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định tại
khoản 4 Điều 13 LDN 2005.
Thứ ba, mua bán doanh nghiệp có nội dung là sự chuyển giao toàn bộ quyền
và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp mục tiêu. Mua bán CTCP không chỉ là sự
chuyển giao các tài sản của doanh nghiệp mà còn là sự chuyển giao những quyền và
nghĩa vụ pháp lý khác như các nghĩa vụ và quyền lợi về lao động, quyền và nghĩa
vụ đối với khách hàng, hệ thống phân phối của công ty cổ phần...
Thứ tư, về hậu quả pháp lý, mua bán CTCP chỉ có thể dẫn đến việc chấm
dứt hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư mà không chấm dứt hoạt động kinh doanh
của công ty cổ phần. Chủ đầu tư sẽ mất đi tư cách chủ sở công ty hoặc một phần
công ty đã bán. Và người mua phần cơng ty đó sẽ trở thành chủ sở hữu công ty. Nếu
đạt được sự thoả thuận chuyển giao các quyền và nghĩa vụ, chủ sở hữu cũ sẽ chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ đối với khách hàng cũng như các chủ nợ. Chủ sở hữu
mới của công ty sẽ thay thế và tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ này. Cịn
doanh nghiệp khơng bị chấm dứt hoạt động. Nói cách khác, doanh nghiệp vẫn tồn
tại liên tục trước, trong và sau q trình mua bán.
Thứ năm, mua bán cơng ty được thể hiện thông qua hợp đồng mua bán công
ty cổ phần. Hợp đồng mua bán công ty là sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán về
việc chuyển giao quyền sở hữu một phần hoặc tồn bộ cơng ty.
Thứ sáu, mua bán công ty phải thông qua sự thừa nhận của cơ quan có thẩm
quyền thơng qua các thủ tục pháp lý nhất định. Điều này xuất phát từ bản chất của
công ty. Công ty được khai sinh thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh – một thủ tục
để gán cho nó một tư cách pháp lý, gán cho những người thành lập nên nó những
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Do đó, khi cơng ty được mua bán, khi có sự chuyển giao
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các cổ đông sáng lập nên doanh nghiệp, cần một
sự chứng nhận của công quyền về việc chuyển giao này. Đứng ở góc độ này, chúng
ta nhận ra vị trí và vai trị của Nhà nước với tư cách người công nhận các thỏa thuận

19



của các bên. Nhà nước sẽ là người đặt ra các khung pháp lý để các bên liên quan
tuân thủ và cân nhắc hành vi của mình.
1.2.3. Mối quan hệ giữa mua bán công ty cổ phần với hợp nhất, sáp nhập
công ty, chuyển nhượng cổ phần và vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế
* Mối quan hệ giữa mua bán công ty với hợp nhất, sáp nhập công ty
Hợp nhất và sáp nhập là những hình thức tổ chức lại rất hiệu quả và được các
NĐT ưu tiên lựa chọn. Theo đó:
“Hợp nhất là hai hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị hợp
nhất) có thể hợp nhất thành một cơng ty mới (sau đây gọi là công ty hợp nhất) bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp
nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.”(điều 152 LDN 2005)
“Sáp nhập là một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị
sáp nhập) có thể sáp nhập vào một cơng ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp
nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang
công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp
nhập.”(điều 153, LDN 2005)
Như vậy, hợp nhất và sáp nhập đều là những hình thức tổ chức lại nhằm tăng
quy mơ kinh doanh của chủ sở hữu. Thông qua sáp nhập và hợp nhất, doanh nghiệp
hợp nhất và doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ có năng lực tài chính, năng lực kinh
doanh lớn hơn và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong quá trình tiến hành thủ tục hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, chủ sở
hữu công ty sẽ tiến hành họp ĐHCĐ để tiến hành việc xem xét đưa ra quyết định
tiến hành hợp nhất, sáp nhập và cử đại diện theo pháp luật của công ty tham gia ký
kết vào hợp đồng hợp nhất, sáp nhập, như vậy, theo quy định của Pháp luật Việt
Nam hiện hành quá trình hợp nhất, sáp nhập chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý
của chủ sở hữu cơng ty (hình thức hợp nhất, sáp nhập cơng ty mang tính chất “thân
thiện”- Friendly Mergers). Pháp luật Việt Nam chưa cơng nhận hình thức hợp nhất,
sáp nhập thơng qua con đường thơn tính doanh nghiệp (hostile takeover). Vì vậy,
nếu muốn tiến hành hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp để nâng cao khả năng cạnh


20


tranh, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, NĐT có 2 lựa chọn: (i) thỏa thuận với
cơng ty đối tác để tiến hành hợp nhất, sáp nhập như quy định của pháp luật Việt
Nam, (ii) mua lại công ty rồi từ đó tiến hành hợp nhất và sáp nhập công ty như thủ
tục được quy định. Theo cách thức thứ hai, mua bán công ty là một trong những
giai đoạn của quá trình hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp. Một NĐT khi muốn tiến
hành hợp nhất, sáp nhập trước hết anh ta sẽ bỏ tiền để mua lại công ty mục tiêu,
việc mua lại này sẽ được thực hiện thơng qua việc mua tồn bộ cơng ty hoặc mua
một số lượng cổ phần đủ để chi phối toàn bộ hoạt động của công ty hoặc mua số
lượng cổ phần và lôi kéo thêm các cổ đông khác đủ để chi phối hoạt động của công
ty mục tiêu. Sau khi tiến hành hoạt động mua lại, NĐT có 2 giải pháp: một là, công
ty mục tiêu trở thành công ty con và hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ con (nếu
nắm trên 50% vốn điều lệ của công ty mục tiêu); hai là, công ty mục tiêu sẽ bị thực
hiện thủ tục sáp nhập, hợp nhất với công ty của bên mua.
Trong mối quan hệ với hợp nhất, sáp nhập cơng ty, mua bán cơng ty chính là
giai đoạn khởi đầu, tiền đề để tiến hành các thủ tục tiếp theo liên quan đến hợp nhất,
sáp nhập. Vì vậy, nếu NĐT khi không đạt được thỏa thuận (hoặc không muốn thỏa
thuận) với công ty đối tác về việc tiến hành hợp nhất, sáp nhập thì phải tiến hành
quá trình hợp nhất, sáp nhập thành 2 bước. Bước 1: tiến hành mua lại công ty mục
tiêu; bước 2: tiến hành thủ tục hợp nhất, sáp nhập công ty. Pháp luật Việt Nam hiện
nay chỉ quy định tương đối đầy đủ về thủ tục hợp nhất , sáp nhập công ty cở phầ n
(CTCP) mà chưa có quy định cụ thể về hoạt động mua bán công ty cổ phần. Các
chủ thể đầu tư buộc phải tự mình tiến hành các hoạt động này dựa trên những quy
định về hợp đồng. Tuy nhiên, không phải mo ̣i hoa ̣t đô ̣ng mua bán CTCP đề u phải
dẫn đế n viê ̣c hơ ̣p nhấ t , sáp nhập doanh nghiệp (Vì cơng ty mua có thể chỉ giữ quyền
của một cổ đông thông thường trong trường hợp mua một phần cổ phiếu công t


y

bán để điều hành, quản lý) và không phải mọi sự hợp nhất , sáp nhập đều trên cơ sở
hơ ̣p đồ ng mua bán công ty , mà nó có thể là từ việc hai cơng ty tự thỏa thuận để liên
kế t với nhau.
* Mối quan hệ giữa mua bán CTCP với vấn đề chuyển nhượng cổ phần

21


×