Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ VIỆT HẢI

X¢Y DùNG PHáP LUậT
Về PHáT TRIểN NĂNG LƯợNG SạCH
Và NĂNG LƯợNG TáI T¹O ë VIƯT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ VIỆT HẢI

X¢Y DùNG PHáP LUậT
Về PHáT TRIểN NĂNG LƯợNG SạCH
Và NĂNG LƯợNG TáI T¹O ë VIƯT NAM
Chun ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Doãn Hồng Nhung


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và thanh tốn
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem
xét để cho tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Việt Hải


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

8


VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG SẠCH VÀ NĂNG LƯỢNG
TÁI TẠO

1.1.

Những vấn đề chung về năng lượng sạch và năng lượng tái tạo

8

1.1.1. Khái niệm năng lượng sạch và năng lượng tái tạo

8

1.1.2. Các nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo chủ yếu

11

1.1.3. Những lợi ích khi phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo

18

1.2.

22

Những vấn đề lý luận xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng
sạch và năng lượng tái tạo

1.2.1. Khái niệm xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và


22

năng lượng tái tạo
1.2.2. Đặc điểm của xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và

23

năng lượng tái tạo
1.2.3. Mục đích xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và

23

năng lượng tái tạo
1.2.4. Nguyên tắc xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và

24

năng lượng tái tạo
1.3.

Sự cần thiết của việc xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng

25

sạch và năng lượng tái tạo
1.3.1. Xuất phát từ yêu cầu thực thi các cam kết, thỏa thuận quốc tế mà

25


Việt Nam là thành viên
1.3.2. Xuất phát từ giá trị mà nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái
tạo mang lại

27


1.3.3. Nhằm đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong việc mở

28

rộng thị trường, nắm bắt các cơ hội kinh doanh và nâng cao sức
cạnh tranh
1.3.4. Hệ quả tất yếu của xu thế toàn cầu về đầu tư phát triển năng lượng

29

sạch và năng lượng tái tạo
Chương 2: NỘI DUNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN

31

NĂNG LƯỢNG SẠCH, NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO VÀ SỰ
THỂ HIỆN TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

2.1.

Nội dung xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và

31


năng lượng tái tạo
2.1.1. Hiện thực cam kết, thỏa thuận quốc tế có liên quan về phát triển

31

năng lượng sạch và năng lượng tái tạo
2.1.2. Thể chế các chính sách, chủ trương của nhà nước, đảm bảo chiến

32

lược phát triển năng lượng trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
2.1.3. Thực hiện đa dạng hóa phương thức bảo vệ mơi trường

32

2.1.4. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng sạch và năng lượng

33

tái tạo
2.1.5. Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc phát triển năng

36

lượng sạch và năng lượng tái tạo
2.1.6. Các hành vi nghiêm cấm và xử phạt vi phạm trong lĩnh vực năng

37


lượng sạch và năng lượng tái tạo
2.2.

Sự thể hiện trong pháp luật hiện hành về phát triển năng lượng

38

sạch, năng lượng tái tạo và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt
động quản lý nhà nước về sản xuất năng lượng sạch, năng lượng
tái tạo
2.2.1. Quy định của pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng

38

lượng tái tạo
2.2.2. Những kết quả áp dụng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và
năng lượng tái tạo

45


2.2.3. Một số vấn đề tồn tại khi áp dụng pháp luật về phát triển năng

46

lượng sạch và năng lượng tái tạo
2.2.4. Những nguyên nhân cơ bản
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHÁP LUẬT


72
78

VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG SẠCH VÀ NĂNG
LƯỢNG TÁI TẠO Ở VIỆT NAM

3.1.

Định hướng xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và

78

năng lượng tái tạo
3.1.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc xây dựng

78

pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo
3.1.2. Bài học gợi mở cho Việt Nam xây dựng pháp luật về phát triển

84

năng lượng sạch và năng lượng tái tạo
3.1.3. Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phát triển năng

86

lượng sạch và năng lượng tái tạo
3.2.


Giải pháp xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và

88

năng lượng tái tạo ở Việt Nam
3.2.1. Xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về phát triển năng lượng sạch

88

và năng lượng tái tạo
3.2.2. Giải pháp ban hành Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành

90

3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân, của doanh nghiệp về phát triển

91

năng lượng sạch và năng lượng tái tạo
3.2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư và thu hút nguồn vốn

92

3.2.5. Giải pháp hoàn thiện thủ tục cho các dự án phát triển sạch

93

3.2.6. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu theo Thỏa thuận Paris

94


3.2.7. Giải pháp phát triển thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam

95

3.2.8. Giải pháp phát triển công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

96

3.2.9. Các yếu tố đảm bảo xây dựng pháp luật một cách có hiệu quả

98

KẾT LUẬN

100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

102


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa
dạng, việc khai thác nguồn tài nguyên này đã và đang góp phần quan trọng cho tiến
trình phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, sự thiếu đồng bộ trong quy hoạch,
việc buông lỏng quản lý và khai thác thiếu kiểm sốt trên nền tảng cơng nghệ lạc
hậu, không tận dụng triệt để các nguồn nguyên liệu, do đó giá trị, hiệu quả sử dụng
thấp, gây lãng phí, làm ô nhiễm môi trường và đang dần bị cạn kiệt. Đồng thời, việc

chuyển hóa năng lượng thơng qua đốt nhiên liệu hóa thạch đã thải ra mơi trường
một lượng lớn khí thải, làm gia tăng khí nhà kính, đẩy mạnh sự ấm lên toàn cầu và
là nguyên nhân trực tiếp gây biến đổi khí hậu. Như một kết quả tất yếu, Nhà nước
và người dân đang ý thức rõ hơn tầm quan trọng của các nguồn năng lượng thay thế
hay còn gọi là năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Các nguồn năng lượng này có
ý nghĩa quan trọng cả về mặt chính trị, kinh tế và xã hội. Phát triển năng lượng sạch
và năng lượng tái tạo có hiệu quả góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, phịng
ngừa, giảm ơ nhiễm mơi trường và chống biến đổi khí hậu.
Với đường bờ biển trải dài, vùng biển rộng lớn và địa hình đồi dốc đã đem
lại cho chúng ta nhiều tiềm năng về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái
tạo, nhưng hiện nay việc khai thác, đầu tư chưa tương xứng với khả năng và lợi thế
sẵn có. Một phần do tính kinh tế của nguồn năng lượng này còn chưa hấp dẫn, phần
khác bắt nguồn từ khuôn khổ pháp lý, môi trường đầu tư chưa thực sự thơng thống,
cơng bằng và minh bạch. Các biện pháp thúc đẩy phát triển mới dừng lại ở chính
sách, biện pháp hỗ trợ, khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Pháp luật của Việt Nam xung quanh về vấn đề này chưa đầy đủ và được quy định
tản mạn ở nhiều Luật khác nhau mà chưa được thể chế hóa thành Luật riêng biệt,
thống nhất một hành lang pháp luật đồng bộ để phát triển năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo. Đặc biệt, hiện nay biến đổi khí hậu đang diễn ra mang tính toàn cầu,

1


làm thay đổi môi trường, hệ sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã
hội. Xuất phát từ yêu cầu trên đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương, quyết
sách phù hợp nhằm ứng phó có hiệu quả đối với các tác động tiêu cực, thúc đẩy bảo
vệ môi trường, hướng tới phát triển nền kinh tế xanh, sạch và bền vững. Do đó hệ
thống hóa các quy định của pháp luật; xây dựng khung pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình phát triển năng lượng sạch và năng lượng
tái tạo; ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức, áp dụng và thực thi pháp luật

về phát triển nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo nhằm đa dạng hóa
phương thức bảo vệ mơi trường; phát triển công nghệ ứng dụng và triển khai phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; hiện thực các cam kết, thỏa thuận quốc
tế mà Việt Nam tham gia là rất cần thiết.
Bắt nguồn từ nhận thức trên, với mong muốn góp phần xây dựng và hoàn
thiện các quy định của pháp luật hiện nay, tạo hành lang pháp luật ổn định, môi
trường đầu tư thông thống, cơng bằng và minh bạch, phát huy hiệu quả chính sách
của Đảng và Nhà nước về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, tác giả
chọn đề tài "Xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái
tạo ở Việt Nam" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học .
2. Tình hình nghiên cứu về lĩnh vực có liên quan
Trước thực trạng mơi trường và an ninh năng lượng địi hỏi phải có quy
định sử dụng và phát triển nguồn năng lượng mới, nguồn năng lượng sạch, có khả
năng tái tạo, thân thiện với môi trường. Trong giai đầu phát triển năng lượng sạch
và năng lượng tái tạo đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, ứng dụng và được đề cập ở
nhiều sách, báo, tạp chí trong và ngồi nước. Có thể kể đến:
Sách "Biến đổi khí hậu và năng lượng" của tác giả Nguyễn Thọ Nhân, Nhà
xuất bản Tri thức, năm 2008; Sách "Năng lượng xanh" của tác giả Ngô Đăng Nghĩa,
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2011; Sách chuyên khảo "Năng lượng và
môi trường ở Việt Nam" của Tiến sĩ Lý Ngọc Minh, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật, năm 2013; Bài nghiên cứu "Năng lượng tái tạo trên biển và định hướng phát

2


triển tại Việt Nam" của tác giả Dư Văn Toán, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2015. Các tác giả đã đánh giá sơ bộ về tiềm năng năng lượng sạch và
năng lượng tái tạo ở Việt Nam, sự tác động qua lại giữa khai thác các nguồn năng
lượng và mức độ ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên chưa phân tích và đi sâu về
các quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ này; Báo cáo "Làn gió mới:

Tương lai năng lượng bề n vững của Đông Á

" (winds of change : East Asia’s

subtainable energy future ) trong chương trin
̀ h h ợp ̣ tác giữa Ngân hàng Thế gi ới và
Chính phủ Úc tháng 5/2010, nội dung của báo cáo này chủ yế u đánh giá về mức đ ộ
gây ô nhiễm môi trường của các d ạng năng lượng sơ cấp của các nước Đông Á
trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010, tiề m năng phát triể n năng lư ợng tái tạo
với các cách thức hỗ trợ từ Ngân hàng Thế giới với các chương trình khác nhau; Bài
viết "Năng lượng xanh - Nguồn năng lượng cho sự phát triển bền vững" của tác giả
Đỗ Văn Phú, Tạp chí Khoa học Cơng nghệ và Mơi trường cơng an, năm 2012; Bài
viết "Phát triển năng lượng sạch: Hình thành trụ cột cho tăng trưởng xanh" của tác
giả Hải Nam, Tạp chí Thơng tin Tài chính, số 12 kỳ 2 tháng 6/2015. Bài báo đã
phân tích phát triển năng lượng xanh có quan hệ mật thiết với phát triển bền vững,
gắn liền với q trình chuyển đổi mơ hình tăng trưởng từ bề rộng sang chiều sâu với
nâng cao sức cạnh tranh. Đồng thời đưa ra cảnh báo không tăng trưởng kinh tế bằng
mọi giá mà phải phát triển bền vững và bảo vệ môi trường; Tổng luận "Tiềm năng
phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam" của Cục Thông tin Khoa học và Công
nghệ Quốc gia, năm 2015, nội dung của báo cáo chủ yếu làm rõ các mối tương tác
giữa biến đổi khí hậu và năng lượng cùng những thành tựu của khoa học kỹ thuật
trong việc tác động lên sản xuất và tiêu thụ năng lượng nhằm giảm thiểu các tác
nhân gây ra biến đổi khí hậu; Luận văn thạc sĩ Môi trường năm 2011 "Đánh giá và
dự báo ảnh hưởng của Luật thuế bảo vệ môi trường tới sự phát triển năng lượng tái
tạo ở Việt Nam" của tác giả La Thị Cẩm Vân, khoa Môi trường, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu tác
động của Luật thuế bảo vệ môi trường đến các dạng năng lượng, từ đó dự báo ảnh

3



hưởng của Luật tới năng lượng tái tạo, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của Luật thuế bảo vệ môi trường; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2011 "Pháp
luật về các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam
hiện nay" của tác giả Phan Duy An, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ cơng
trình nghiên cứu này, tác giả đã khái quát tình hình phát triển năng lượng tái tạo trên
thế giới, từ đó phân tích, làm rõ thực trạng và hậu quả của việc khai thác nguồn tài
nguyên năng lượng sơ cấp ở Việt Nam. Đánh giá tiềm năng phát triển năng lượng
tái tạo ở Việt Nam hiện nay và bước đầu xây dựng pháp luật về khuyến khích phát
triển nguồn năng lượng tái tạo thân thiện với môi trường; Luận văn thạc sĩ Môi
trường năm 2013 "Đánh giá tiềm năng năng lượng gió vùng biển ven bờ Việt Nam"
của tác giả Trần Thị Bé, khoa Môi trường, Trường đại học tự nhiên, Đại học Quốc
gia Hà Nội. Tác giả đã phân tích đánh giá tiềm năng nguồn năng lượng sạch chủ
yếu ở Việt Nam, từ đó xác định khu vực phù hợp để xây dựng phát triển năng lượng
sạch và có một số giải pháp để phát triển nguồn năng lượng này; Luận văn thạc sĩ
Luật học năm 2014 "Pháp luật phát triển năng lượng xanh ở Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Thị Tuyền, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Làm rõ được những vấn
đề lý luận về năng lượng xanh, phát triển năng lượng xanh và đặt những nội dung
trên trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, xã hội. Xác định những nội dung cơ
bản của pháp luật về phát triển năng lượng xanh thơng qua hai nhóm quan hệ xã
hội: Quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong quá trình quản lý nhà
nước về phát triển năng lượng xanh. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp
lý về năng lượng xanh ở Việt Nam. Đối với từng loại năng lượng, gồm năng lượng
gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, chỉ rõ những điểm mạnh, điểm yếu
của các quy định pháp luật về phát triển nguồn năng lượng đó, phát hiện những
điểm mạnh, yếu khác nhau trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định
về phát triển từng nguồn năng lượng xanh; Đồng thời đề xuất được một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về phát triển năng lượng xanh trên cơ sở những phân tích, phát
hiện về những khoảng trống trong pháp luật về phát triển năng lượng xanh.


4


Các nghiên cứu công bố đã đề cập đến nhiều khía cạnh, với mức độ ảnh
hưởng khác nhau của các nguồn năng lượng, đánh giá thực trạng pháp luật và đưa ra
các giải pháp mang tính chất khuyến khích, hỗ trợ phát triển nguồn năng lượng mới
hoặc xây dựng pháp luật theo hướng đảm bảo an ninh năng lượng. Khác với những
nghiên cứu trên, trong luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu theo hướng xây
dựng pháp luật của Việt Nam về năng lượng sạch và năng lượng tái tạo ở góc độ
khái qt, tổng thể, khơng nặng về các yếu tố kỹ thuật văn bản. Bắt đầu từ khái
niệm; sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo; nội dung của pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng
tái tạo và các giải pháp xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo trong giải đoạn hiện nay.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu, tác giả muốn làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau:
Khái niệm xây dựng pháp luật về năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; sự cần
thiết phải xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo;
cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về phát triển năng lượng sạch
và năng lượng tái tạo; nội dung của pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo; phân tích một số nội dung cơ bản các quy định pháp luật hiện hành ở
Việt Nam; tìm hiểu kinh nghiệm của một nước trên thế giới xây dựng pháp luật về
phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải
pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện những quy định pháp luật về phát triển năng lượng
sạch và năng lượng tái tạo trong giải đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về hoạt
động xây dựng pháp luật năng lượng sạch và năng lượng tái tạo như một bộ phận
của pháp luật môi trường và giới hạn các nguồn năng lượng phù hợp với đặc thù thổ
nhưỡng, khí hậu và kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
mà trực tiếp là các quan điểm về quản lý, chủ trương phát triển năng lượng sạch

5


và năng lượng tái tạo qua các thời kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII
đến nay.
Bên cạnh đó, luận văn cịn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của khoa học
pháp lý hiện đại. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm có phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh. Tác giả sử dụng phương pháp
phân tích và tổng hợp các quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam về phát
triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo cũng như văn bản pháp luật có liên
quan để đánh giá hiện trạng, rút ra những hạn chế trong các quy định pháp luật hiện
hành. Sử dụng phương pháp so sánh để so sánh các quy định của pháp luật về phát
triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo của một số nước trên thế giới từ đó tìm
ra những mơ hình pháp lý điển hình làm cơ sở xây dựng pháp luật ở Việt Nam.
Đồng thời trên cơ sở tập hợp các sách, báo, bài viết, bài nghiên cứu về năng
lượng sạch và năng lượng tái tạo, các quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam.
Từ các tài liệu thu thập, hoạt động thực tế và tham khảo ý kiến của các chun
gia, cơng trình nghiên cứu của tác giả sẽ có những ý kiến, đóng góp riêng trong xây
dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Khi nghiên cứu đề tài này, người viết trước hết kế thừa các đề tài đã nghiên
cứu trước đó về phát triển năng lượng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo.
Đồng thời muốn phát huy và góp một phần nhỏ bé vào tiếng nói chung của giới luật
học nhằm xây dựng, hồn thiện pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo ở Việt Nam. Về cơ bản, luận văn có những đóng góp mới sau:
Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo.

Luận văn phân tích và chứng minh xây dựng khung pháp luật về phát triển
năng lượng sạch và năng lượng tái tạo ở Việt Nam như một đòi hỏi tất yếu khách
quan, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, chống biến đổi khí hậu và phù hợp với
các cam kết, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trên cơ sở đó đưa ra các

6


giải pháp mang tính xây dựng, hồn thiện khung pháp luật về phát triển năng lượng
sạch và năng lượng tái tạo trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xây dựng pháp luật về phát triển năng
lượng sạch và năng lượng tái tạo.
Chương 2: Nội dung xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo và sự thể hiện trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Định hướng và giải pháp xây dựng pháp luật về phát triển năng
lượng sạch và năng lượng tái tạo ở Việt Nam.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG SẠCH VÀ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO

1.1. Những vấn đề chung về năng lượng sạch và năng lượng tái tạo
1.1.1. Khái niệm năng lượng sạch và năng lượng tái tạo
Thời gian qua, trên thế giới hay ở Việt Nam đề cập nhiều về nguồn năng lượng

mới, năng lượng tái tạo, năng lượng xanh hay năng lượng bền vững. Ưu điểm của
các nguồn năng lượng là sạch, có sẵn trong thiên nhiên, khơng gây ơ nhiễm, khơng
bị cạn kiệt và là giải pháp tốt nhất nhằm tiết kiệm năng lượng và thay thế cho năng
lượng hóa thạch trong tương lai. Năng lượng sạch mang tính khoa học và được quan
niệm theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các tên gọi khác như năng lượng tái tạo,
năng lượng xanh, năng lượng mới, năng lượng bền vững đều có chung một cách
hiểu như vậy. Trong cơng trình này các cụm từ năng lượng sạch, năng lượng tái tạo,
năng lượng xanh đều được sử dụng và cần được hiểu là có cùng nội hàm như nhau.
Trong cách nói thơng thường, năng lượng tái tạo được hiểu là những nguồn
năng lượng hay những phương pháp khai thác năng lượng mà nếu đo bằng các
chuẩn mực của con người thì vơ hạn. Vơ hạn ở đây có hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất: năng lượng tồn tại nhiều đến mức mà không thể trở thành
cạn kiệt vì sự sử dụng của con người (ví dụ như năng lượng Mặt trời).
Nghĩa thứ hai: là năng lượng tự trong thời gian ngắn và liên tục (ví dụ năng
lượng sinh khối) trong các quy trình cịn diễn tiến trong một thời gian dài trên Trái đất.
Theo ý nghĩa về vật lý, năng lượng không tự nhiên sinh ra mà trước tiên là
do mặt trời mang lại và được biển đổi thành các dạng năng lượng hay các vật mang
năng lượng khác nhau. Tùy theo từng trường hợp mà năng lượng này được sử dụng
ngay tức khắc hay được tạm thời dự trữ dưới một dạng nào đó.
Việc sử dụng khái niệm tái tạo theo cách nói thơng thường là dùng để chi
các chu kỳ tái tạo mà đối với con người là ngắn đi rất nhiều (thí dụ như khí sinh học

8


so với năng lượng hóa thạch). Trong cảm giác về thời gian của con người thì Mặt
trời sẽ cịn là một nguồn cung cấp năng lượng trong một thời gian gần như là vô tận.
Mặt trời cũng là nguồn cung cấp năng lượng liên tục cho nhiều quy trình diễn tiến
trong bầu sinh quyển Trái đất. Những quy trình này có thể cung cấp năng lượng cho
con người và cũng mang lại những cái gọi là nguyên liệu tái tăng trưởng. Luồng gió

thổi, dịng nước chảy và nhiệt lượng cùa mặt trời đã được con người sử dụng từ rất
lâu trong quá khứ cho đến khi phát hiện ra than đá, dầu mỏ, khí đốt thì những nguồn
năng lượng nói trên ít được đề cập đến nữa.
Ở Việt Nam, khái niệm năng lượng sạch (hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả
năng lượng tái tạo, năng lượng xanh, năng lượng bền vững) được quy định ở nhiều
văn bản, tài liệu. Đứng ở nhiều góc độ mà cách tiếp cận có thể khác nhau nhưng
không sai lệch về bản chất của cùng một đối tượng. Trong khoa học pháp lý:
Khoản 1, Điều 43 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 được hiểu: "Năng
lượng tái tạo là năng lượng được khai thác từ nước, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt,
sóng biển, nhiên liệu sinh học và các nguồn tài nguyên năng lượng có khả năng tái
tạo khác" [47].
Khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 3 Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả năm 2010 được hiểu:
1. Năng lượng bao gồm nhiên liệu, điện năng, nhiệt năng thu
được trực tiếp hoặc thông qua chế biến từ các nguồn tài nguyên năng
lượng không tái tạo và tái tạo.
2. Tài nguyên năng lượng khơng tái tạo gồm than đá, khí than,
dầu mỏ, khí thiên nhiên, quặng urani và các tài nguyên năng lượng khác
khơng có khả năng tái tạo.
3. Tài ngun năng lượng tái tạo gồm sức nước, sức gió, ánh
sáng mặt trời, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học và các tài nguyên năng lượng
khác có khả năng tái tạo [43].
Khoản 13, Điều 2 Quyết định số 18/2008/QĐ-BCT ngày 18/07/2008 của Bộ
trưởng Bộ Cơng Thương quy định về biểu giá chi phí tránh được cho các nhà máy

9


điện nhỏ sử dụng năng lượng tái tạo, được hiểu: "Năng lượng tái tạo là năng lượng
được sản xuất từ các nguồn thủy điện nhỏ, gió, mặt trời, địa nhiệt, thủy triều, sinh

khối, khí chơn lấp rác thải, khí của các nhà máy xử lý rác thải và khí sinh học" [3].
Khoản 2, Điều 3 Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/01/2009 của Chính
phủ về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường, được hiểu:
Sản xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo là việc sản xuất
năng lượng từ sử dụng sức gió, ánh sáng mặt trời, thủy triều, địa nhiệt.
Năng lượng sạch là năng lượng được sản xuất trên cơ sở chuyển
hóa từ các nguồn năng lượng sơ cấp tái tạo, ít tác động tiêu cực đến mơi
trường như thủy năng, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng
địa nhiệt, năng lượng thủy triều, nhiên liệu sinh học... Năng lượng sạch
cũng là năng lượng được sản xuất, cung cấp từ các nguồn năng lượng sơ
cấp hóa thạch (than đá, sản phẩm dầu, khí đốt) và hạt nhân trên cơ sở sử
dụng cơng nghệ chuyển hóa năng lượng là công nghệ sạch, công nghệ
thân thiện môi trường hay bảo vệ mơi trường; đồng thời, q trình sản
xuất, cung cấp năng lượng được tiến hành trong điều kiện đảm bảo thực
hiện nghiêm ngặt công tác quản lý tác động mơi trường, tổ chức hoạt
động có hiệu quả cao hệ thống giám sát, kiểm sốt, phịng ngừa, giảm
thiểu ơ nhiễm và các tác động tiêu cực khác đến môi trường [11].
Các định nghĩa trên mang tính nguồn gốc vì việc xác định xét theo nguồn
của năng lượng (như gió, mặt trời...), điều này khó điều chỉnh khi phát sinh thêm
dạng năng lượng mới trong tương lai. Cùng một đối tượng nhưng khái niệm về năng
lượng sạch của nhiều quốc gia còn khác nhau. Một số nước xác định năng lượng
sạch theo căn cứ vào kết quả sử dụng. Ví dụ, Luật số 2005-781 ngày 13/01/2005 về
năng lượng của Pháp xác định, năng lượng là năng lượng sạch nếu nó cho phép hạn
chế tiếng ồn, không gây nhiễu loạn thủy năng, phá hỏng cảnh quan, gây ra bức xạ
và làm giảm thải khí nhà kính...
Như vậy có thể hiểu, ngay trong cùng một hệ thống điều chỉnh pháp lý các
khái niệm đưa rất khác nhau và chưa hoàn toàn đầy đủ nghĩa theo nội hàm "Năng

10



lượng sạch". Từ việc đưa ra khái niệm khơng chính xác, không bao quát nên việc
xây dựng văn bản pháp luật của Nhà nước do vậy chưa thống nhất, có nhiều mâu
thuẫn, cần phải được hệ thống lại và thống nhất trong áp dụng để đảm bảo pháp luật
đi vào thực tế có hiệu quả.
Theo quan điểm của tác giả, dù tiếp cận bằng cách này hay cách khác
nguồn năng lượng đó khơng gây ơ nhiễm khơng khí, ơ nhiễm nguồn nước, không
ảnh hưởng đến môi trường sống, bảo vệ môi trường, cảnh quan và hệ sinh thái được
coi là năng lượng sạch và năng lượng tái tạo.
1.1.2. Các nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo chủ yếu
Cho đến ngày nay, con người đã tìm ra được rất nhiều các nguồn năng
lượng thay thế cho nguồn năng lượng hóa thạch. Xét về lợi ích mà chúng đem lại ta
có thể chia ra các nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo chủ yếu sau đây.
1.1.2.1. Pin nhiêu liệu
Pin nhiên liệu là một thiết bị điện hóa mà trong đó biến đổi hóa năng thành
điện năng nhờ quá trình oxy hóa nhiên liệu, mà nhiên liệu thường dùng ở đây là khí
H2 và khí O2 hoặc khơng khí. Quá trình biến đổi năng lượng trong pin nhiên liệu ở đây
là trực tiếp từ hóa năng sang điện năng theo phản ứng H2 + O2 = H2O + dòng điện, nhờ
có tác dụng của chất xúc tác, thường là các màng platin nguyên chất hoặc hỗn hợp
platin, hoặc các chất điện phân như kiềm, muối Cacbonat, Oxit rắn... thực chất nó là
một loại pin điện hóa. Người ta phân loại các pin nhiên liệu theo chất điện phân,
điện cực và các chất xúc tác trong pin nhưng nguồn nguyên liệu vẫn chỉ là H2 và O2
trên khơng khí. Trước đây người ta dùng khí H2 để biến đổi thành nhiệt năng dưới
dạng đốt cháy, sau đó từ nhiệt năng sẽ biến đổi thành cơ năng qua các tua bin khí và
các tua bin đó dẫn động các máy phát điện để biến đổi thành dòng điện, với biến đổi
gián tiếp như vậy thì hiệu suất của quá trình sẽ thấp. Từ đó ta dễ dàng so sánh q
trình biến đổi trực tiếp trong pin nhiên liệu là có hiệu suất rất cao.
Pin nhiên liệu sẽ có thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong viễn cảnh nguồn năng
lượng của thế giới trong tương lai. Những đặc điểm ưu việt của nó như hiệu suất
cao, ổn định lớn, độ phát xạ thấp, không gây ồn, không gây ô nhiễm môi trường.


11


1.1.2.2. Năng lượng mặt trời
Năng lượng Mặt trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ
Mặt trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt hạ ngun tử khác phóng
ra từ ngơi sao này. Dòng năng lượng này sẽ tiếp tục phát ra cho đến khi phản ứng
hạt nhân trên Mặt trời hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa [31].
Năng lượng Mặt trời có những ưu điểm như: Sạch, chi phí nhiên liệu và bảo
dưỡng thấp, an toàn cho người sử dụng… Đồng thời, phát triển ngành công nghiệp
sản xuất pin mặt trời sẽ góp phần thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch, giảm
phát khí thải nhà kính, bảo vệ mơi trường. Vì thế, đây được coi là nguồn năng lượng
quý giá, có thể thay thế những dạng năng lượng cũ đang ngày càng cạn kiệt.
Đối với cuộc sống của loài người, năng lượng Mặt trời là một nguồn năng
lượng tái tạo quý báu. Tuy nhiên hiện nay, ứng dụng năng lượng Mặt trời cịn gặp
một số khó khăn như: Đầu tư chi phí lớn, cần nhiều khơng gian để đặt tấm năng
lượng mặt trời, phụ thuộc vào vị trí của mặt trời, bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của
các đám mây.
1.1.2.3. Năng lượng gió
Năng lượng gió là động năng của khơng khí di chuyển trong bầu khí quyển
Trái đất. Tài nguyên năng lượng gió là nguồn năng lượng mới và phát triển mạnh
nhất trên thế giới trong thời đại ngày nay. Năng lượng gió được chuyển đổi thành
điện năng nhờ các tuốc bin gió và được chế tạo với tuổi thọ cao hơn phù hợp với
điều kiện khắc nghiệt. Loại năng lượng này không tạo ra chất thải ô nhiễm mơi
trường, vì vậy việc tận dụng lợi thế tại những khu vực có lưu lượng gió ổn định để
phát triển các nhà máy phong điện sẽ là lời giải cho bài tốn năng lượng và mơi
trường trong thời gian tới. Vì vậy, phát triển năng lượng gió biển Việt Nam hướng
tới mục tiêu giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu, là một trong những giải pháp
được đánh giá là khả thi hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác gây ra tiếng

ồn, đồng thời yêu cầu chi phí khá cao, lệ thuộc vào tự nhiên, nên nhiều nhà đầu tư
vẫn còn băn khoăn khi đầu tư vào dạng năng lượng này.

12


Ở nước ta, lĩnh vực điện gió cịn khá mới mẻ với các nhà đầu tư. Tuy nhiên,
tính tới thời điểm hiện tại có một số dự án điện gió đăng kí trên tồn bộ lãnh thổ
Việt Nam, tập trung chủ yếu ở miền Trung. Chúng ta có thể kể tới một số dự án
điện gió tiêu biểu: Dự án điện gió ở xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình
Thuận đã hồn thiện giai đoạn 1 và nối lưới quốc gia tháng 3/2011; Trên đảo Phú
Quý, tỉnh Bình Thuận, dự án điện gió lai tạo với máy phát điện diesel của Tổng
Cơng ty Điện lực Dầu khí (thuộc Tập đồn Dầu khí Việt Nam); Tại Cơn Đảo, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu có dự án điên gió do Cơng ty EAB Cộng hòa Liên bang Đức
làm chủ đầu tư; tại tỉnh Bạc Liêu có dự án điện gió thuộc Công ty trách nhiệm hữu
hạn Thương mại và Dịch vụ Công Lý [42].
1.1.2.4. Năng lượng sinh khối
Sinh khối bao gồm cây cối tự nhiên, cây trồng công nghiệp, tảo và các lồi
thực vật khác hoặc là những bã nơng nghiệp và lâm nghiệp. Sinh khối cũng bao
gồm cả những vật chất được xem như chất thải từ các hoạt động xã hội con người,
chất thải từ quá trình sản xuất thức ăn nước uống, bùn, nước cống, phân bón, sản
phẩm phụ gia (hữu cơ) công nghiệp (industrial by-product) và các thành phần hữu
cơ của chất thải sinh hoạt.
Các nguồn sinh khối được chuyển thành các dạng năng lượng khác như
điện năng, nhiệt năng, hơi nước và nhiên liệu qua các phương pháp chuyển hóa như
đốt trực tiếp và turbin hơi, phân hủy yếm khí (anaerobic digestion), đốt kết hợp (cofiring), khí hóa (gasification) và nhiệt phân (pyrolysis).
Có thể nói, năng lượng sinh khối tiềm năng rất lớn. Có thể phân ra thành ba
dạng chủ yếu:
Một là: Năng lượng sinh khối rắn, bao gồm cây cối, chất sơ gỗ chất thải gỗ
thành thị, chất thải rắn đơ thị có khả năng phân hủy và hóa nhiệt thơng qua đốt.

Hai là: Năng lượng sinh khối khí, nguồn năng lượng này được tạo bởi sự
lên men sinh học các đồ phế thải sinh hoạt. Theo đó, người ta sẽ phân loại và đưa
chúng vào những bể chứa để cho lên men nhằm tạo ra khí sinh học (biogas). Khí

13


sinh học là một hỗn hợp khí, trong đó thành phần chủ yếu là khí Mêtan (CH4), được
sản sinh ra từ sự phân hủy những chất hữu cơ dưới tác động của vi khuẩn trong mơi
trường yếm khí. Sau khi q trình phân hủy hồn tất, phần cịn lại của các chất hữu
cơ được sử dụng để làm phân bón.
Nguyên liệu dùng để sản xuất khí sinh học được chia làm hai loại: Nguyên
liệu có nguồn gốc thực vật: Các nguyên liệu thực vật gồm phụ phẩm cây trồng như
rơm rạ, thân lá ngô, khoai, đậu…và loại cây xanh hoang dại như: bèo, các cây cỏ
sống ở dưới nước. Nguyên liệu có nguồn gốc từ động vật: Các loại phân và phân gia
súc, gia cầm là phổ biến. Vì đã được xử lý trong bộ máy tiêu hóa nên phân dễ phân
hủy và nhanh chóng cho khí sinh học.
Ở quy mơ của một gia đình có thể dùng khí này để đun nấu, ở quy mơn lớn
hơn có thể dùng để sản xuất hơi nước hoặc trộn với khí tự nhiên trong mạng phân
phối khí đốt của thành phố. Phương pháp này cũng là một phương pháp xử lý rác
thải trong khu dân cư.
Ba là: Năng lượng sinh khối lỏng, là sự chuyển hóa năng lượng sinh khối
trong chất bã nông nghiệp. Gồm:
Xăng sinh học (Gasohol): Bao gồm Bio-metanol, Bio-ethanol, Bio-butanol...
Trong số các dạng xăng sinh học này, Bio-ethanol là loại nhiên liệu sinh học thông
dụng nhất hiện nay trên thế giới vì có khả năng sản xuất ở quy mơ cơng nghiệp từ
ngun liệu chứa đường như mía, củ cải đường và nguyên liệu chứa tinh bột như
ngũ cốc, khoai tây, sắn...
Diesel sinh học (BiọDiesel): Diesel sinh học có thể sử dụng thay thế cho
diesel vì nó cỏ tính chất tương đương với nhiên liệu dầu diesel nhưng không phải

được sản xuất từ dầu mỏ mà được sản xuất từ dầu thực vật hay mỡ động vật bằng
phản ứng chuyển hóa este (transestérification). Các chất dấu {cịn gọi là fatty acid
methyl (hay ethyl) ester (FARME)} trộn với sodium hydroxide và methanol (hay
ethanol) tạo ra dấu diesel sinh học và glycerine bằng phản ứng chuyến hóa este.
Ethanol (hoặc là cồn ethyl): Ethanol là nhiên liệu dạng lỏng, không màu,
trong suốt, dễ cháy. Ethanol được dùng như phụ gia cho xăng, với mục đích tăng

14


chỉ số octane và giảm khỉ thải hiệu ứng nhà kính. Ethanol tan trong nước và phân
hủy sinh học được. Ethanol được sản xuất từ sinh khối có thành phần cellulose cao
(như bắp), qua q trình lên men tại lị khơ hoặc lị ướt. Tại cả hai lị này, bã men
được sản xuất và cung cấp cho gia súc tại các nông trại [51].
Năng lượng sinh khối là một nguồn năng lượng hấp dẫn bởi đây là một
nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, nếu chúng ta có thể bảo đảm được tốc
độ trồng cây thay thế, phân bố đồng đều, có thể được khai thác mà khơng cần đòi
hỏi đến các kỹ thuật hiện đại phức tạp và tốn kém. Nó tạo ra cơ hội cho các địa
phương, tự bảo đảm cho mình nguồn cung cấp năng lượng một cách độc lập. Do đó
nó vừa giảm lượng rác thải vừa làm phân bón hữu cơ có ích.
1.1.2.5. Năng lượng từ đại dương
Một là, nguồn năng lượng từ sóng biển
Sóng biển chứa đựng nguồn năng lượng rất lớn. Gió thổi trên mặt biển tạo
ra những con sóng khơng ngừng. Phương pháp tạo ra dịng điện từ sóng biển là
dùng máy phát điện đặt nổi trên mặt biển như một cái bơm đặt nằm ngang, pít-tơng
nối liền với phao, tùy theo sóng biển lên xuống mà píttơng cũng chuyển động lên
xuống, biến động lực của sóng biển thành động lực của khơng khí bị nén. Khơng
khí bị nén dưới áp suất cao phụt qua miệng phun của tuabin làm cho máy phát điện
hoạt động. Khi đó, năng lượng của sóng biển đã chuyển thành điện năng. Phát điện
bằng năng lượng sóng biển khơng tốn một chút năng lượng khởi động nào, lại

khơng gây ơ nhiễm mơi trường, do đó nó là một nguồn năng lượng sạch, hy vọng sẽ
giúp giải quyết nguy cơ thiếu năng lượng của toàn thế giới.
Hai là, nguồn năng lượng từ thủy triều
Năng lượng thủy triều của toàn thế giới theo các nhà khoa học ước chừng
khoảng 3 tỷ kw. Nguyên lý phát điện thủy triều tương tự như nguyên lý phát điện
thủy lực, tức là lợi dụng sự chênh lệch mức nước triều lên xuống để làm quay động
cơ và máy phát điện. Ở những vùng có biên độ triều tương đối lớn, người ta xây để
ngăn nước có nhiều cửa tạo thành một hồ chứa nước và trong đê lắp tổ máy phát

15


điện bánh xe nước. Khi nước triều lên cao bên ngồi một cửa nào đó thì cửa đó mở
ra, nước biển chảy vào hồ chứa, dòng nước vào làm quay bánh xe thủy động, kéo
theo làm quay máy phát điện để phát điện. Khi nước triều rút xuống thì cửa nói trên
đóng lại và cánh cửa khác mở ra, nước từ hồ chứa chảy ra biển và dòng nước lại
làm quay máy tải động. Cứ như thế, trạm điện thủy triều không ngừng phát điện.
Ba là, nguồn năng lượng từ dòng hải lưu
Các dòng chảy lớn trên biển thường chảy theo một hướng tương đối ổn định
và có lưu lượng lớn, do đó ẩn chứa một nguồn năng lượng rất lớn. Hiện nay, trên
thế giới đã có nhiều nước đã áp dụng và sản xuất điện thành công. Ở Việt Nam đang
bước đầu nghiên cứu và dự kiến sẽ xây một nhà máy phát điện hải lưu một chiều ở
khu vực phía Bắ c v ịnh Vân Phong (huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hịa). Đây là tín
hiệu vui để tìm nguồn năng lượng sạch, phát huy tiềm năng lơ ̣i thế biển ở Việt Nam.
Bốn là, nguồn năng lượng từ sự chênh lệch độ mặn
Ở những khu vực có sự chênh lệch độ mặn lớn, đặc biệt như vùng cửa sơng
đổ ra biển, thì từ sự chênh lệch độ mặn này có thể tạo ra một nguồn năng lượng mới
mà hiện nay con người chưa khai thác.
Năm là, nguồn năng lượng từ sự chênh lệch nhiệt độ nước biển
Nhiệt độ lớp bề mặt và lớp sâu ở biển nhiệt đới và cận nhiệt đới chênh lệch

nhau có thể tới 25oC. Đây là nguồn năng lượng cực kỳ to lớn mà con người muốn
khai thác sử dụng. Theo các nhà khoa học thi tiềm năng của loại năng lượng này có
thể khai thác ước tính đến 50 tỷ kw [56].
Như vậy, có thể nói nguồn năng lượng từ biển là rất lớn và nguồn năng
lượng này sẽ không ảnh hưởng đến môi trường. So với các nguồn năng lượng khác
như điện hạt nhân, thủy điện… thì năng lượng biển có mức đầu tư ít hơn, tính an
tồn cao, khơng cần một bộ máy điều hành lớn và phức tạp.
1.1.2.6. Năng lượng thủy năng
Thủy năng hay năng lượng nước là năng lượng nói chung nhận được từ lực
hoặc năng lượng từ dịng nước, dùng để sử dụng vào những mục đích có lợi. Trước

16


khi được mở rộng ra thương mại hóa điện năng, thủy năng đã được sử dụng cho
mục đích thủy lợi, và cung cấp năng lượng cho nhiều máy móc khác nhau, như cối
xay nước, máy dệt, máy cưa, cẩu trục ở cầu tàu, và thang máy dùng trong nhà...
Thủy điện là một trong nhiều ngành khai thác từ sức nước. Đa số năng lượng thủy
điện có được từ thế năng của nước được tích tại các đập nước. Khi nước được rơi tự
do từ độ cao sẽ tạo một khối năng lượng nhất định tương ứng với khối lượng của
nước làm quay một tuốcbin nước và máy phát điện tạo ra điện năng để sử dụng.
Phát triển nguồn năng lượng này có nhiều lợi ích như: ít bảo trì, khơng tạo
ra chất thải hủy hoại mơi trường, có khả năng tái tạo. Điện năng sinh ra từ mơ hình
này ln ổn định và có khả năng tăng, giảm lượng điện tức thì nên được ứng dụng
rộng cũng như chiếm một phần quan trọng nhất trong hệ thống điện của Việt Nam
hiện nay.
Nguồn năng lượng này cũng đòi hỏi phải đầu tư khá lớn. Đồng thời việc
việc đắp đập ngăn nước làm thay đổi môi trường sinh thái vùng thượng nguồn và hạ
lưu. Nó có một số tác dụng khác như điều tiết nước và chống lũ nhưng chính bản
thân nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi do và ảnh hưởng xấu đến điều tiết nước và gây lũ lụt

vùng hạ lưu nếu không được quy hoạch và điều tiết một cách hợp lý. Ngoài ra sự
thiết hụt điện năng trên toàn cầu đầy mạnh việc xây dựng nhà máy thủy điện trong
những năm qua khiến nguồn nước có thể sử dụng bắt đầu trở nên khan hiếm. Nếu
khơng có biện pháp thích hợp để cải thiện thì những ưu điểm của mơ hình này trở
thành tác nhân gây ảnh hưởng xấu đến xã hội [56].
1.1.2.7. Năng lượng khí Hydro
Nguyên tố Hydro gần như có mặt ở khắp mọi nơi xung quanh cuộc sống
chúng ta. Bản thân con người, các loại động thực vật cũng chứa một lượng lớn
nguyên tố này điển hình ở dạng nước. Khí Hydro (hydrogen) là một nhiên liệu sạch,
có khả năng chuyển hóa thành nhiệt năng mà khơng có khí gây hiệu ứng nhà kính.
Hydrogen có thể cung cấp năng lượng cho vận chuyển (dưới dạng các xe chạy điện
dùng hydrogen) cũng như sưởi ấm nhà ở và phát điện. Thực tiễn cho thấy, hiện nay

17


nhiều nước đã thành cơng trong việc khuyến khích, ứng dụng nguồn năng lượng
trên vào tiến trình phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, chi phí đầu tư lớn đang là
bài tốn khó nên việc ứng dụng dạng năng lượng Hydro cịn chưa được phổ biến.
1.1.2.8. Khí Mêtan Hydrate
Khí Mêtan hydrate được coi là nguồn năng lượng tiềm ẩn nằm sâu dưới
lịng đất, có màu trắng dạng như nước đá và được người ta gọi là "băng cháy".
Mêtan hydrate là một chất kết tinh bao gồm phân tử nước và mêtan, nó ổn định ở
điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao, phần lớn được tìm thấy bên dưới lớp băng
vĩnh cửu và những tầng địa chất sâu bên dưới lòng đại dương và là nguồn nguyên
liệu thay thế cho dầu lửa và than đá rất tốt. Mới đây, Nhật Bản đã trở thành quốc gia
đầu tiên trên thế giới thành cơng trong việc chiết xuất khí gas từ băng cháy, đem
đến hy vọng mới cho việc tìm nguồn năng lượng thay thế nhiên liệu hóa thạch [56].
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có trữ lượng băng cháy khá lớn. Từ
năm 2007, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức hội nghị khoa học về băng

cháy. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều quyết định, chương trình nghiên cứu, đánh
giá tài nguyên băng cháy. Ngày 03/6/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 796/2010/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ
bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Theo đó,
sau giai đoạn nghiên cứu (2007- 2015) kết thúc giai đoạn tiếp cận, nghiên cứu công
nghệ, đến giai đoạn 2015-2020 bắt đầu đánh giá, thăm dò băng cháy trên những
vùng biển và thềm lục địa có triển vọng.

1.1.3. Những lợi ích khi phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo
Thứ nhất, góp phần vào việc chống biến đổi khí hậu
Sự biến đổi khí hậu tồn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Biểu
hiện rõ nhất là sự nóng lên của trái đất, băng tan, nước biển dâng cao; các hiện
tượng thời tiết bất thường như bão, lũ, sóng thần, động đất, hạn hán, giá rét kéo dài...
dẫn đến thiếu lương thực, thực phẩm và xuất hiện hàng loạt dịch bệnh trên người và
động vật. Việt Nam là một quốc gia ven biển nên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hiện

18


tượng nước biển dâng, bão, lũ. Sự gia tăng khí CO2 trong khí quyển do khai thác và
sử dụng nhiên liệu hóa thạch là ngun nhân chính gây ra sự biến đổi khí hậu.
Trong khi đó, phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo lại tạo ra rất ít khí
nhà kính so với các nguồn nhiên liệu hóa thạch. Vì vậy, để giảm ảnh hưởng hiện
tượng nóng lên toàn cầu, giảm các nguy cơ tiêu cực mà biến đổi khí hậu đem lại, cơ
cấu năng lượng Việt Nam cần thay đổi và dần chuyển dịch từ dạng không bền vững
sang dạng năng lượng thân thiện với môi trường.
Thứ hai, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn nhiên liệu hóa thạch
Kể từ năm 2015, Việt Nam đã chuyển từ quốc gia xuất khẩu tinh sang nhập
khẩu tinh về năng lượng. Do vậy, sự phát triển của nguồn năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo sẽ góp phần quan trọng trong bảo đảm an năng lượng quốc gia.

Nhu cầu cấp thiết của Việt Nam là đảm bảo sự cung cấp năng lượng bằng
cách giảm thiểu các rủi ro như sự gián đoạn hoặc sự không ổn định của việc cung
cấp năng lượng trong trường hợp phải nhập khẩu năng lượng, sự xung đột các
nguồn năng lượng và sự biến động về giá cả. Do vậy, chúng ta phải có một cách
tiếp cận mới và sáng tạo đối với vấn đề an ninh năng lượng bằng cách đa dạng hóa
các nguồn năng lượng, trong đó có phát triển nguồn năng lượng sạch và năng lượng
tái tạo. Thông qua quản lý nhà nước bằng chính sách pháp luật chúng ta có thể giảm
sự phụ thuộc vào nhập khẩu các nguồn nhiên liệu hóa thạch, tạo ra việc làm và thúc
đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, nâng cao sức khỏe cộng đồng và chất lượng môi trường
Sản xuất điện từ năng lượng hóa thạch gây ra tác hại rất lớn với sức khỏe
cộng đồng. Sự ơ nhiễm khơng khí và nước do các nhà máy nhiệt điện than và nhiệt
điện khí có liên quan đến với các vấn đề về sức khỏe con người như bệnh về đường
hô hấp, thần kinh, tim mạch và ung thư… Việc thay thế các nguồn nhiên liệu hóa
thạch bằng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo sẽ làm giảm bớt các vấn đề trên.
Thứ tư, tạo ra nhiều cơ hội việc làm
So với các ngành cơng nghiệp nhiên liệu hóa thạch đã được cơ khí hóa và
cần nhiều vốn, phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo lại dùng nhiều lao

19


×