Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thực trạng chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại tỉnh hòa bình giai đoạn 2011 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 93 trang )

1
O Ụ V
OT O
Ọ T
N UY N

Y TẾ

TRƢỜN

Ọ Y ƢỢ

N Ô T Ị P ƢỢN

T Ự TR N
P ÒN
ỐN SUY
T TỈN
ỊA ÌN

ƢƠN TRÌN
N
ƢỠN TRẺ EM
A O N 2011-2014

hun ngành: Y tế ông cộng
Mã số: 62 72 76 01

LUẬN VĂN

UY N K OA ẤP



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Đàm Khải Hoàn

THÁI NGUYÊN - NĂM 2015


2
ẶT VẤN Ề
Suy dinh dưỡng đã và đang là vấn đề sức khoẻ cộng đồng đáng được
quan tâm ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Năm 2014, tồn thế giới có khoảng 795 triệu
người bị suy dinh dưỡng [68]. Theo Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (Unicef) thì
suy dinh dưỡng ở trẻ em thực sự đang trong tình trạng khẩn cấp đồng thời kêu
gọi các Chính phủ và tổ chức toàn cầu hỗ trợ cung cấp sản phẩm dinh dưỡng
cho trẻ em [59].
Suy dinh dưỡng cấp tính vẫn đang là “kẻ giết người” chính của trẻ em
dưới 5 tuổi. Suy dinh dưỡng có liên quan mật thiết tới tỷ lệ mắc bệnh và tử
vong ở trẻ em. Suy dinh dưỡng còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển
về thể chất, trí tuệ của trẻ và rơi vào vịng luẩn quẩn của đói nghèo [65],[66].
Theo số liệu thống kê năn 2013, trên thế giới có tới 165 triệu trẻ em dưới 5
tuổi bị SDD thể nhẹ cân, trong đó 10% bị SDD nặng và có khoảng 195 triệu
trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD thể thấp cịi. Bên cạnh đó, trên thế giới mỗi năm có
gần 2,6 triệu trẻ sơ sinh và 8,1 triệu trẻ dưới 1 tuổi tử vong, phần lớn do
không được nuôi dưỡng đủ chất. Có tới 80% số trẻ suy dinh dưỡng toàn cầu
tập trung chủ yếu ở 24 nước đang phát triển trên thế giới [59].
Ở Việt Nam, với những thành tựu trong cơng tác phịng chống SDD trẻ
em vài thập kỷ qua, tỷ lệ SDD trẻ em ở thể nhẹ cân (cân nặng/ tuổi) đã giảm
từ 51,5% (1985) xuống còn 33,8% (2000) và 14,5% (2014) [31], [55], [56],
[58]. Đây là kết quả đạt được rất đáng kể, là thành quả của sự vào cuộc của

cả hệ thống chính trị. Là sự thể hiện sinh động việc thực hiện cam kết của
Chính phủ Việt Nam đối với cơng ước Quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em và
cũng là kết quả của việc thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ về bảo vệ sức khỏe
Bà mẹ trẻ em [11]. Tuy nhiên, việc giảm tỷ lệ SDD trẻ em ở nước ta cịn có


3
sự khác biệt đáng kể giữa các vùng sinh thái. Suy dinh dưỡng trẻ em ở thể
thấp còi (chiều cao/ tuổi) vẫn còn đang ở mức cao 24,9% (2014) [55], [56],
việc giảm tỷ lệ SDD trẻ em ở thể thấp cịi là vấn đề rất khó khăn và cần được
quan tâm đúng mức hơn trong nhiều năm tới nhằm nâng cao tầm vóc người
Việt Nam.
Tại tỉnh Hồ Bình, chương trình phòng chống SDD trẻ em đã được
triển khai từ nhiều năm và đạt được những kết quả đáng kể: Tỷ lệ SDD trẻ em
ở thể nhẹ cân đã giảm từ 43,3% (1999) xuống cịn 17,7% (2014). Trong q
trình triển khai chương trình phịng chống SDD trẻ em đã nhận được sự quan
tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và sự tham gia của
cộng đồng. Tuy nhiên, chương trình phịng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại
Hịa Bình cũng cịn bộc lộ nhiều điểm cần quan tâm, đó là: Tỷ lệ SDD trẻ em
thể nhẹ cân giảm không đồng đều giữa các địa bàn, đặc biệt là ở các xã vùng
sâu, vùng cao tỷ lệ SDD trẻ em vẫn còn cao. Suy dinh dưỡng trẻ em ở thể
thấp còi hiện nay vẫn còn ở mức cao (25,6% năm 2014)... Việc đầu tư các
nguồn lực phục vụ triển khai chương trình cịn nhiều khó khăn. Năng lực đội
ngũ cán bộ tham gia mạng lưới triển khai chương trình cịn hạn chế,... Để tìm
hiểu thực trạng chương trình phịng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại tỉnh Hịa
Bình trong thời gian qua ra sao? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến kết quả
thực hiện chương trình? chúng tơi tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng chương
trình phịng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại tỉnh Hịa Bình giai đoạn
2011-2014" với các mục tiêu nghiên cứu như sau:
1- Đánh giá kết quả thực hiện chương trình phịng chống suy dinh

dưỡng trẻ em tại tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2011-2014.
2- Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chương
trình phịng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại tỉnh Hịa Bình.


4
hƣơng 1
TỔN

QUAN

1.1. Thực trạng suy dinh dƣỡng trẻ em
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Dinh dưỡng: Là tình trạng cơ thể được cung cấp đầy đủ, cân đối các
thành phần dinh dưỡng, đảm bảo cho sự phát triển toàn vẹn, tăng trưởng của
cơ thể để đảm bảo chức năng sinh lý và tham gia tích cực vào các hoạt động
xã hội [28], [33].
1.1.1.2. Tình trạng dinh dưỡng:
Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm về chức phận, cấu trúc
và hoá sinh, phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể.
Tình trạng dinh dưỡng là kết quả (sản phẩm) tác động của một hay
nhiều yếu tố như: Tình trạng an ninh thực phẩm hộ gia đình, thu nhập thấp,
điều kiện vệ sinh môi trường, công tác chăm sóc trẻ em, gánh nặng cơng việc
lao động của bà mẹ...
Tình trạng dinh dưỡng tốt phản ánh sự cân bằng giữa thức ăn ăn vào và
tình trạng sức khoẻ, khi cơ thể có tình trạng dinh dưỡng khơng tốt (thiếu hoặc
thừa dinh dưỡng) là thể hiện có vấn đề sức khoẻ hoặc dinh dưỡng hoặc cả hai
[28], [44].
1.1.1.3. Suy dinh dưỡng:
Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể ngừng phát triển do thiếu dinh

dưỡng, gây giảm năng lượng. Tất cả các chất dinh dưỡng đều có thể thiếu
nhưng phổ biến nhất là thiếu protein và năng lượng. Suy dinh dưỡng biểu hiện
ở nhiều mức độ khác nhau nhưng đều ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và
tinh thần của trẻ em [28], [44].


5
SDD bắt đầu từ biểu hiện chậm lớn cho đến các thể nặng là Marasmus
và Kwashiorkor.
- Marasmus là thể thiếu dinh dưỡng nặng hay gặp nhất. Đó là hậu quả
của một chế độ ăn thiếu cả nhiệt lượng lẫn protein.
- Kwashiorkor ít gặp hơn Marasmus thường là do chế độ ăn quá nghèo
về protein mà gluxit tạm đủ.
- Ngoài ra cịn có thể phối hợp giữa Marasmus - Kwashiorkor [26],[33].
* Định nghĩa thiếu dinh dưỡng Protein - năng lượng: Thiếu dinh dưỡng
protein - năng lượng là loại thiếu dinh dưỡng quan trọng nhất ở trẻ em.
Thường biểu hiện bằng tình trạng chậm lớn hay đi kèm các bệnh nhiễm
khuẩn.
Thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng ở trẻ em thường xảy ra do:
- Chế độ ăn thiếu về chất lượng và số lượng.
- Tình trạng nhiễm khuẩn, đặc biệt là các bệnh đường ruột, sởi và viêm
đường hô hấp cấp [44].
1.1.1.4. Một số phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Để đánh giá tình trạng dinh dưỡng, thời kỳ đầu người ta chỉ dựa vào
các nhận xét đơn giản như gầy, béo, tiếp đó là dựa vào một số chỉ tiêu nhân
trắc như cân nặng, chiều cao, vòng cánh tay... Ngày nay, người ta thấy tình
trạng dinh dưỡng cịn là kết quả tác động qua lại phức tạp giữa các yếu tố với
nhau như yếu tố môi trường, kinh tế, văn hố... cho nên tính chất phổ biến và
nghiêm trọng của tình trạng SDD có thể coi như một số chỉ số hữu ích để
đánh giá trình độ phát triển kinh tế - xã hội [28], [44].

Trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em hiện nay người ta
thường kết hợp sử dụng các phương pháp:


6
- Nhân trắc học;
- Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống;
- Khám lâm sàng;
- Các xét nghiệm chủ yếu là hóa sinh (máu, nước tiểu,...);
- Các kiểm nghiệm chức phận để xác định các rối loạn chức phận do
thiếu hụt dinh dưỡng;
- Điều tra tỷ lệ bệnh tật và tử vong để tìm hiểu mối liên quan giữa bệnh
tật và tình trạng dinh dưỡng;
- Đánh giá các yếu tố sinh thái liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và
sức khỏe.
Trong đó hai phương pháp thường được sử dụng nhiều nhất là nhân
trắc và điều tra nhân khẩu, mà các số đo nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực
tiếp tình trạng dinh dưỡng [13], [28].
Sử dụng các số đo nhân trắc trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng là
phương pháp làm thông dụng và được áp dụng rộng rãi, các số đo nhân trắc
của cơ thể cung cấp sơ lược sự phát triển hay là kích thước có thể đạt được
hoặc là sự thay đổi của các kích thước này. Chúng được dùng để mơ tả tình
trạng dinh dưỡng của cá thể hay cộng đồng, phản ánh kết quả cuối cùng của
việc cung cấp thực phẩm ăn vào, hấp thu, chuyển hoá các chất dinh dưỡng
của cơ thể [13], [28].
Sự lựa chọn các số đo nhân trắc tuỳ thuộc vào mục đích của nghiên cứu,
cỡ mẫu, lứa tuổi,... mặc dù có nhiều số đo nhân trắc khác nhau nhưng theo đề
nghị của WHO để đánh giá tình trạng dinh dưỡng nên dùng các số đo cân nặng,
chiều cao [28], [33].



7
Khi đánh giá các chỉ số nhân trắc, từng số đo riêng lẻ về chiều cao hay cân
nặng sẽ không nói lên được điều gì, chúng chỉ có ý nghĩa khi kết hợp với tuổi,
giới hoặc kết hợp tiêu nhân trắc để phân loại tình trạng SDD.
- Phân loại theo Gomez (1956): Đây là phương pháp phân loại được
dùng sớm nhất và hiện nay vẫn còn được dùng rộng rãi, so sánh giữa các số đo
của đứa trẻ với nhau và phải được so sánh với giá trị của quần thể tham chiếu.
Hiện nay, WHO đã khuyến cáo nên sử dụng quần thể tham khảo mới của WHO
và có 3 chỉ số thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi là
cân nặng theo tuổi, cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi [28], [33].
+ Cân nặng theo tuổi (CN/T): Là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng
được dùng sớm nhất và phổ biến nhất. Chỉ số này được dùng để đánh giá tình
trạng dinh dưỡng của cá thể hay cộng đồng. Cân nặng theo tuổi thấp là hậu quả
của thiếu dinh dưỡng nhưng không biết rõ là hiện tại hay đã từ lâu [28], [33].
+ Chiều cao theo tuổi (CC/T): Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh ảnh hưởng
của thiếu dinh dưỡng kéo dài trong quá khứ. Tuy nhiên, chỉ số này khơng nhạy vì
thế khi thấy trẻ bị cịi thì có nghĩa là trước đó trẻ đã bị thiếu dinh dưỡng từ lâu [28],
[33].
+ Cân nặng theo chiều cao (CN/CC): Là chỉ số đánh giá tình trạng dinh
dưỡng cấp. Chỉ số này khơng cần biết tuổi của trẻ và cũng ít phụ thuộc vào yếu
tố dân tộc vì nhìn chung trẻ dưới 5 tuổi có thể phát triển như nhau trên tồn thế
giới [28], [33].
*Các cách phân loại tình trạng dinh dưỡng: Trong điều kiện thực địa,
người ta chủ yếu dựa vào các chỉ rãi, dựa trên chỉ số cân nặng theo tuổi quy ra
phần trăm của cân nặng chuẩn (quần thể tham khảo Harvard).


8


% cân nặng/ tuổi so với chuẩn

Phân loại dinh
dƣỡng

ộ suy dinh
dƣỡng

> 90%

Bình thường

Bình thường

75 - 90%

SDD nhẹ

SDD độ I

60 - 75%

SDD trung bình

SDD độ II

< 60%

SDD nặng


SDD độ III

Cách phân loại này không phân biệt giữa Marasmus và Kwashiorkor
cũng như SDD cấp hay mãn bởi vì cách phân loại này không để ý tới chiều
cao.
- Phân loại theo Wellcome (1970): Cách phân loại này cũng tương tự
như Gomez nhưng chú ý thêm trẻ có bị phù hay khơng để hỗ trợ thêm trong
sự phân biệt giữa Marasmus và Kwashiorkor.
% cân nặng theo tuổi

Phù

so với chuẩn



Khơng

80 - 60%

Kwashiorkor

Thiếu cân

< 60%

Marasmus - Kwashiorkor

Marasmus


- Phân loại theo Waterlow
ân nặng theo chiều cao (80% hay -2SD)
Trên
hiều cao theo tuổi Trên
(90% hay -2SD)

ƣới

Bình thường

Dưới
Thiếu DD gầy còm

Thiếu DD còi cọc Thiếu DD nặng, kéo dài


9
- Cách phân loại dựa vào độ lệch chuẩn (hoặc Z-Score): Lấy điểm
ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) so với quần thể tham khảo NCHS để coi
là trẻ SDD trong đó:
+ Đối với chỉ tiêu CN/T (xác định tỷ lệ trẻ em SDD thể nhẹ cân)
Từ dưới -2SD đến -3SD là SDD vừa (độ I),
Từ dưới -3SD đến -4SD là SDD nặng (độ II),
Dưới -4SD là SDD rất nặng (độ III).
+ Đối với chỉ tiêu CC/T (xác định tỷ lệ trẻ em SDD thể thấp còi)
Từ -2SD đến -3SD là SDD độ I,
Từ dưới -3SD là SDD độ II.
+ Đối với chỉ tiêu CN/CC (xác định tỷ lệ trẻ em bị SDD thể gầy còm)
Từ dưới -2SD là SDD,
Từ trên +2SD là thừa cân.

- Phân loại dựa vào độ lệch chuẩn (hoặc Z-Score) của WHO:
Lấy điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) so với quần thể tham
khảo mới của WHO để coi là trẻ SDD trong đó:
+ Đối với chỉ tiêu CN/T (xác định tỷ lệ trẻ em SDD thể nhẹ cân)
Từ dưới -2SD đến -3SD là SDD nhẹ cân;
Từ dưới -3SD là SDD nặng.
+ Đối với chỉ tiêu CC/T (xác định tỷ lệ trẻ em SDD thể thấp còi)
Từ -2SD đến -3SD là thấp còi độ I;
Từ dưới -3SD là thấp còi độ II.


10
+ Đối với chỉ tiêu CN/CC (xác định tỷ lệ trẻ em bị SDD thể gầy còm)
Từ dưới -2SD là SDD;
Từ trên +2SD là thừa cân.
- Phân loại mức độ thiếu dinh dưỡng ở cộng đồng trẻ em dưới 5 tuổi
ác thể S

Mức độ thiếu dinh dƣỡng
Thấp

Trung bình

Cao

Rất cao

Tỷ lệ % SDD thể nhẹ cân

< 20


20-29

30-39

≥ 40

Tỷ lệ % SDD thể thấp còi

< 10

10-19

20-29

≥ 30

Tỷ lệ % SDD thể gầy còm

<5

5-9

10-14

≥ 15

WHO đã đưa ra bảng phân loại trên để nhận định ý nghĩa sức khoẻ
cộng đồng của vấn đề thiếu dinh dưỡng trẻ em [28], [33].
1.1.2. Thực trạng suy dinh dưỡng trẻ em

1.1.2.1. Trên thế giới
Suy dinh dưỡng khá phổ biến ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt ở các nước đang
phát triển. Theo UNICEF (2006), hơn 1/4 trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang
phát triển bị thiếu cân và cuộc sống đang bị đe dọa. Dinh dưỡng khơng đầy đủ
vẫn là đại dịch tồn cầu dẫn đến một nửa số ca tử vong là trẻ em, khoảng 5,6
triệu trẻ em mỗi năm. So với năm 1990, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thiếu cân chỉ
giảm nhẹ, đây là bằng chứng cho thấy thế giới đã khơng làm trịn nhiệm vụ
với trẻ em. Mặc dù đã có tiến bộ ở một số quốc gia, trong 15 năm vừa qua các
quốc gia đang phát triển trung bình mới chỉ giảm được 1,5% trẻ em thiếu cân;
27% trẻ em ở các nước đang phát triển bị thiếu cân. Gần 3/4 trẻ em thiếu cân
trên toàn thế giới đang sống ở 10 quốc gia và hơn một nửa số đó sống ở 3


11
nước: Bănglađét, Ấn Độ, Pakixtan. Năm 2004, tỷ lệ trẻ từ 0-59 tháng tuổi bị
thiếu cân ở Bănglađet là 48%, Ấn Độ là 47%, Pakixtan là 38% [37].
Theo số liệu thống kê năn 2013, trên thế giới có tới 165 triệu trẻ em dưới 5
tuổi bị SDD thể nhẹ cân, trong đó 10% bị SDD nặng và có khoảng 195 triệu trẻ em
dưới 5 tuổi bị SDD thể thấp còi, trong đó 90% trẻ em sống ở khu vực châu Phi và
châu Á. Có tới 24 quốc gia có số lượng lớn trẻ bị SDD thấp còi vừa và nặng (chiếm
80% tổng số 195 triệu trẻ thấp còi) [67]. Suy dinh dưỡng cấp tính vẫn đang là “kẻ
giết người” chính của trẻ em dưới 5 tuổi. Suy dinh dưỡng có liên quan mật thiết tới
tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ em. Suy dinh dưỡng còn ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sự phát triển về thể chất, trí tuệ của trẻ và rơi vào vịng luẩn quẩn của đói nghèo
[65],[66]. Hội nghị Quốc tế về dinh dưỡng tại Đan Mạch tháng 10/2011, UNICEF
nhận định trên thế giới mỗi năm có gần 2,6 triệu trẻ sơ sinh và 8,1 triệu trẻ dưới 1
tuổi tử vong, phần lớn do không được nuôi dưỡng đủ chất [59].
Các cuộc điều tra của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy tỷ lệ suy
dinh dưỡng có sự chênh lệch nhiều giữa các khu vực. Kết quả cuộc khảo sát
về tình hình kinh tế xã hội quốc gia ở Indonesia cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng

trẻ em dưới 5 tuổi ở vùng thành thị là 25%, trong khi đó ở nơng thơn là 30%.
Tại Kenya, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở thành thị là 13% cịn ở nơng thơn là 21%
Dẫn từ nghiên cứu của Nguyễn Thị Vũ Thành (2005)[36]. Báo cáo của
UNICEF năm 2012 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại Hy
Lạp là 26% [67].
Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách dinh dưỡng Quốc tế
(IFPRI) trên cơ sở phân tích và tổng hợp các yếu tố, các khu vực đưa ra một
tính tốn dự báo tỷ lệ SDD (%) đến năm 2020 ở các nước đang phát triển.


12
Bảng 1.1. Dự báo tỷ lệ SDD (%) đến 2020 ở các nước đang phát triển [36]
Khu vực

2020

2020

2020

Bi quan

Trung bình

Lạc quan

1995

Nam Á


49,3

40,3

37,4

34,5

Cận sa mạc Châu Phi

31,1

32,4

28,8

25,7

Khu vực Đông Nam á

22,9

13,1

12,8

12,6

Đông và Nam Phi


14,6

7,4

5,0

3,7

Mỹ La Tinh/ Caribê

9,5

4,0

1,9

-

Chung các nước đang

31,0

21,8

18,4

15,1

phát triển


1.1.2.2. Ở Việt Nam
Cũng như ở các quốc gia đang phát triển khác trên thế giới, tỷ lệ SDD ở
nước ta vẫn còn ở mức cao so với một số nước trong khu vực. Tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam năm 1985 là 51,5%, năm 1995 là
44,9%, năm 2005 là 25,5% và năm 2014 tỷ lệ này là 14,5% [31], [49], [50],
[55], [56]. Nguyên nhân chính là do khẩu phần ăn chưa đáp ứng được nhu cầu
dinh dưỡng của trẻ, do thiếu kiến thức nuôi dưỡng trẻ và còn do bệnh tật gây
nên [25].
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân so với tuổi ở trẻ dưới 5 tuổi nước ta
giảm trung bình 2%/năm và Việt Nam trở thành một trong những nước có
mức giảm SDD nhanh nhất trên thế giới [49], [50].


13
Bảng 1.2. Tỷ lệ SDD cả nước qua các năm (1985- 2000), [31]
Tỷ lệ suy dinh dưỡng (%)
Năm điều tra

Cân nặng/tuổi

Chiều cao/tuổi

Cân nặng/chiều cao

(CN/T)

(CC/T)

(CN/CC)


1985

51,5

59,7

7,0

1995

44,9

46,9

11,6

1996

43,9

44,2

14,8

1997

40,6

44,1


14,3

1998

39,8

35,9

10,3

1999

36,7

38,9

-

2000

33,8

36,5

-

Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ (%) suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam [58]


14

Sở dĩ có kết quả như vậy là do chúng ta đã khơng ngừng triển khai
Chương trình phịng chống SDD trẻ em một cách sâu rộng trên phạm vi toàn
quốc trong nhiều năm qua. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong công cuộc đổi
mới và tăng trưởng kinh tế cũng góp phần tạo nên nhiều cải thiện về tình hình
cung cấp thực phẩm trên bình diện vĩ mơ. Khẩu phần ăn của người Việt Nam
đã có những thay đổi rõ rệt, cân đối hơn về mặt chất lượng, nhiều thức ăn
động vật, dầu mỡ, quả chín hơn trước đây [13], [48].
Trong suốt thập kỷ qua, mặc dù tốc độ giảm suy dinh dưỡng của nước
ta là khá nhanh và liên tục, song hiện nay SDD trẻ em vẫn còn ở mức cao, số
lượng trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thể nhẹ cân vẫn còn gần 1,3 triệu trẻ và số trẻ
dưới 5 tuổi SDD thể thấp còi vẫn còn hơn 2,1 triệu trẻ [57]. Chính vì vậy, cho
tới thời điểm này, SDD trẻ em vẫn còn là một thách thức lớn đối với nước ta.
Tỷ lệ này cũng khác nhau giữa các vùng sinh thái. Điều tra của Viện
Dinh dưỡng năm 2014 cho thấy những vùng có tỷ lệ SDD cao là Tây Nguyên
(22,6%), tiếp đến là Trung du và miền núi phía Bắc (19,8%). Nhìn chung ở
vùng đồng bằng tỷ lệ SDD trẻ em thấp hơn ở các vùng khác. Như vậy, tỷ lệ
SDD trẻ em miền núi ở cả 3 thể luôn cao nhất. Sự khác biệt khá lớn về tỷ lệ
SDD trẻ em ở các vùng sinh thái khác nhau, nhất là giữa nông thôn và thành
thị ở nước ta một lần nữa khẳng định nguyên nhân gây ra SDD trẻ em ở các
vùng các tỉnh có sự khác biệt (bảng 1.3).
Nghiên cứu của Nguyễn Công Khẩn và cộng sự tại một số địa
phương vùng đồng bằng sông Hồng cho thấy trẻ ăn bổ sung sớm và dùng
bột gạo là điểm đặc trưng của các bà mẹ nông dân. Nguyên nhân dẫn đến
quyết định hành động của bà mẹ là niềm tin mạnh mẽ của họ vào tính ưu
việt của gạo, dấu ấn truyền thống của vùng văn hoá lúa nước kết hợp với
áp lực lao động ở nông thôn khiến bà mẹ phải đi làm sau kỳ nghỉ đẻ ngắn
ngủi [31].


15

Bảng 1.3. Tỷ lệ SDD của trẻ em dưới 5 tuổi của Việt Nam
phân bố theo vùng sinh thái - Năm 2014 [58]
Tên vùng

CN/T (%)

CC/T (%)

CN/CC (%)

Tồn quốc

14,,5

24,9

6,8

Đồng bằng sơng Hồng

10,2

20,3

5,2

Trung du và miền núi phía Bắc

19,8


30,7

8,2

17,0

28,1

6,7

Tây Ngun

22,6

34,9

7,8

Đơng Nam Bộ

8,4

18,3

5,4

Đồng bằng sông cửu long

13,0


24,0

6,8

Bắc Trung bộ và duyên hải miền
Trung

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Anh, Lê Thị Hợp và cộng sự tại
Lào Cai năm 2005 cho thấy tỷ lệ SDD ở trẻ dưới 5 tuổi vẫn ở mức cao và
rất cao ở các thể nhẹ cân (35,7%) và thấp cịi (44,3%), cịn thể gầy cịm ở
mức trung bình (9,4%). Khơng có sự khác biệt về tỷ lệ SDD ở trẻ trai và
trẻ gái. Các yếu tố như mẹ là người dân tộc thiểu số, thực hành cho trẻ ăn
bổ sung không hợp lý, trẻ bị mắc tiêu chảy trong 2 tuần trước,... có liên
quan đến tình trạng SDD của trẻ [1]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hoan,
Vũ Quang Huy và Erika Lutz về thực hành nuôi dưỡng trẻ dưới 24 tháng
tuổi tại một số xã thuộc tỉnh Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng
Ngãi, Lai Châu, Điện Biên 2005 và Hà Tây 2006 cho thấy: Tỷ lệ bà mẹ
cho con bú sớm trong vòng một giờ đầu sau khi sinh là 45,6%, tỷ lệ trẻ
được bú mẹ hoàn toàn là 45,5% và tỷ lệ bà mẹ thực hành nuôi dưỡng trẻ
tốt chỉ đạt 45,5%. Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở trẻ dưới 24 tháng tuổi tại các
địa bàn nghiên cứu là 21,8% cao hơn so với số liệu chung toàn quốc năm
2005 - 2006 [24]. Nghiên cứu của Nguyễn Công Khẩn, Lê Danh Tuyên,


16
Hà Huy Khơi, Trần Xn Ngọc và Phan Hồi Dương về tiến triển SDD ở
trẻ em dưới 5 tuổi từ năm 1990 đến 2005 cho thấy tỷ lệ SDD ở trẻ em đã
giảm nhanh: Thể nhẹ cân giảm từ 45% (năm 1990) xuống cịn 25,2%
(năm 2005), mức giảm trung bình là 1,3% mỗi năm. Tỷ lệ SDD thể thấp
còi giảm từ 56,5% (năm 1990) xuống còn 29,6% (năm 2005), mức giảm

trung bình là 1,8% mỗi năm. Mức giảm SDD khơng đều giữa các vùng
sinh thái khác nhau và có sự liên quan về mức giảm SDD với mức giảm
hộ nghèo lương thực, thực phẩm [31].
Nghiên cứu của tác giả vào năm 2011 tại xã Định Cư, huyện Lạc
Sơn, tỉnh Hòa Bình cho thấy: Tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân là 23,7%; Tỷ lệ trẻ SDD
thể thấp còi ở mức rất cao (40,2%). Tỷ lệ trẻ SDD thể gầy còm ở mức cao (10,7%);
Có 40% bà mẹ khơng đạt u cầu về kiến thức chăm sóc trẻ và có 60% bà mẹ
khơng đạt u cầu về thực hành chăm sóc trẻ. Một số yếu tố như: Cân nặng sơ
sinh thấp, trẻ bị tiêu chảy/ viêm phổi, gia đình có thu nhập thấp, gia đình đơng con,
bà mẹ thiếu kiến thức và thực hành chăm sóc trẻ khơng đúng có liên quan đến tình
trạng SDD của trẻ.
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng SDD trẻ em
Theo UNICEFF mơ hình hóa các yếu tố liên quan đến SDD của trẻ em
dưới 5 tuổi như sơ đồ 1.1. Trong các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng hay
một vấn đề sức khỏe người ta nói nhiều đến nguyên nhân hành vi sức khỏe
[21].
1.1.3.1. Cung cấp thức ăn cho trẻ chưa hợp lý
Vấn đề sản xuất ra lương thực, thực phẩm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
việc tiêu thụ lương thực, thực phẩm. Ở đâu tỷ lệ suy dinh dưỡng cao đồng
nghĩa là ở đó sản xuất ra lương thực cịn thiếu. Ở những vùng có tỷ lệ SDD
cao thì thường số hộ thiếu ăn chiếm tỷ lệ cao [16], [18],[21]. Nghiên cứu của


17
nhiều tác giả đều cho thấy khẩu phần thực tế của trẻ em Việt Nam thiếu cả về
số lượng, mất cân đối về chất lượng (khẩu phần chủ yếu là gạo, rau và gần
như rất ít thịt, trứng, cá). Hàm lượng protit và năng lượng khẩu phần nhóm trẻ
SDD thấp hơn nhóm trẻ bình thường, khẩu phần khơng cân đối [25], [32].
S


iểu hiện

Nguyên
nhân
Trực
tiếp

và tử
vong

ệnh tật

Thiếu ăn

An ninh thực
phẩm hộ gia
đình khơng
đảm bảo

hăm sóc bà
mẹ, trẻ em
chƣa tốt

Thiếu dịch vụ
ytế, vệ sinh
môi trƣờng
kém

ơ quan nhà nƣớc
và tổ chức xã hội


Nguyên
nhân gián
tiếp

Thƣợng tầng tƣ tƣởng và chính trị
ơ cấu kinh tế
Nguồn tiềm năng

Sơ đồ 1.1. Mơ hình ngun nhân SDD và tử vong- Unicef [21]


18
Ni con hồn tồn bằng sữa mẹ trong 4-6 tháng tuổi và tiếp tục cho trẻ
bú ít nhất đến 2 tuổi làm giảm bệnh tật trẻ [30]. Phần lớn các nghiên cứu cho
thấy trẻ dưới 1 tuổi không được bú sữa mẹ đầy đủ sẽ nguy cơ mắc bệnh ỉa
chảy lớn hơn so với trẻ được bú mẹ hoàn toàn [36], [40].
1.1.3.2. Học vấn, kiến thức, thái độ và thực hành ni dạy con, phịng chống
SDD của mẹ hoặc người nuôi trẻ
Học vấn, kiến thức, thái độ, thực hành nuôi dạy con, PCSDD của mẹ
hoặc người nuôi trẻ trong chăm sóc trẻ có ảnh hưởng rất lớn tới tình trạng
dinh dưỡng của trẻ. Những nghiên cứu ở cộng đồng cũng thấy trong số trẻ em
SDD, có 71% là con thứ nhất, 60% các bà mẹ không biết cách cho con ăn bổ
sung và không biết “Tô màu bát bột” cho trẻ [16]. Đối với trẻ còn đang bú
mẹ, yếu tố nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung đã được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu và thấy có sự khác biệt rõ rệt về trình độ văn hố cũng như
kiến thức dinh dưỡng giữa nhóm bà mẹ có con SDD và nhóm bà mẹ có con
khoẻ mạnh [36]. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng năm 2002, tỷ lệ trẻ ăn bổ
sung ngay ở tháng tuổi thứ 2 đã là 12,5%, trước 4 tháng tuổi là 32,7% [48].
1.1.3.3. Các bệnh nhiễm trùng nhiễm trùng thường gặp

SDD và nhiễm trùng đã được nhiều nghiên cứu đề cập đến trong nhiều
năm qua. Bệnh nhiễm khuẩn là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến tăng tỷ lệ trẻ em SDD, đặc biệt là bệnh tiêu chảy và viêm đường hô hấp
cấp [15], [22], [23]. Các bệnh này gây tăng nhu cầu, giảm ngon miệng, và
kém hấp thụ ở trẻ em. Nghiên cứu trên 2 lô trẻ dinh dưỡng tốt và dinh dưỡng
kém cho thấy, ở lô dinh dưỡng kém trước khi mắc SDD trẻ thường rất lười ăn,
ăn ít hay bị ốm vặt, tỷ lệ mắc bệnh ỉa chảy kéo dài và viêm phế quản phổi
thường bị tái đi tái lại nhiều lần. Như vậy trẻ lười ăn và hay ốm vặt sẽ là hai
yếu tố đe dọa dẫn đến SDD nặng [36].


19
1.1.3.4. Thiếu vi chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn
Vi chất dinh dưỡng là những chất mà cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ,
miligram hoặc microgram. Chúng có vai trò rất quan trọng giúp cơ thể sản
xuất các enzim, hooc môn và các chất thiết yếu khác cho cơ thể phát triển,
tăng trưởng, hoạt động một cách bình thường. Thiếu vi chất dinh dưỡng sẽ
gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với sức khoẻ. Thiếu vitamin A gây
bệnh khơ mắt, qng gà thậm chí mù lồ. Trẻ thiếu vitamin A có nguy cơ tăng
mắc các bệnh nhiễm trùng như tiêu chảy, sởi. Thiếu iốt gây bệnh bướu cổ,
ảnh hưởng đến phát triển trí tuệ, phụ nữ mang thai thiếu iốt trầm trọng có thể
bị sẩy thai, đẻ non … Thiếu sắt, iốt, vitamin A hiện đang là vấn đề sức khoẻ
cộng đồng toàn cầu, đối tượng bị ảnh hưởng nhiều là trẻ em và phụ nữ, nhất là
ở các nước đang phát triển [20]. Hiện nay, trên thế giới nói chung và các
nước đang phát triển nói riêng, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt đang ở mức cao,
trong đó đối tượng nguy cơ cao nhất là trẻ em dưới 5 tuổi. Ở Việt Nam, thiếu
máu thiếu sắt trẻ em < 5 tuổi là 45,6%, nông thôn đồng bằng là 45,8%, thành
thị là 22,9%, miền núi là 53,2%. Tỷ lệ thiếu máu khác nhau ở vùng sinh thái,
thành phố là 38%, nông thôn là 49,4% [20], [27]. Thiếu máu làm giảm phát
triển trí tuệ, giảm khả năng tập trung trong học tập, kết quả học tập của học

sinh bị thiếu máu thấp hơn hẳn so với trẻ bình thường; làm tăng nguy cơ đẻ
non, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con. Hiện nay, trẻ em dưới 5
tuổi là nhóm nguy cơ cao nhất ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ thiếu máu ở
trẻ cao hơn cả tỷ lệ thiếu máu ở bà mẹ mang thai. Nhất là giai đoạn 6-18
tháng tuổi, vì nhu cầu trong giai đoạn này là cao nhất, cao hơn khoảng gấp 10
lần, tính theo trọng lượng cơ thể, so với người đàn ông trưởng thành [20],
[27],


20
1.1.3.5. Một số yếu tố ảnh hưởng, nguyên nhân khác
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi còn chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi cân nặng sơ sinh của trẻ, kinh tế hộ gia đình, sức khỏe của người mẹ…
[35]. Qua nghiên cứu trên 2 lơ trẻ, 1 lơ có tình trạng dinh dưỡng tốt và 1 lơ
SDD với cùng điều kiện kinh tế xã hội cho thấy trẻ có tình trạng dinh dưỡng
tốt hơn có cân nặng sơ sinh cao hơn, chịu ăn hơn và ít mắc bệnh hơn [16].
Cơng tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ em, vì sức khoẻ của trẻ em phụ thuộc vào sức khoẻ
và thể lực của mẹ. Nếu mẹ gầy còm, ốm yếu, thiếu máu khi có thai thì đứa trẻ
sinh ra sẽ thiếu cân. Các tác giả nhận thấy: tình trạng dinh dưỡng của nhóm
trẻ ở bà mẹ chỉ số BMI < 18,5 (mẹ gầy) thấp hơn ở nhóm bà mẹ mà chỉ số
BMI > 18,5 [16], [18].
Quy mô hộ gia đình cũng được cho là liên quan đến tỷ lệ SDD trẻ em.
Những gia đình có nhiều con ( ≥ 3 con) có tỷ lệ SDD trẻ em cao hơn hẳn. Lý
do có thể là đơng con dẫn đến hậu quả kinh tế gia đình càng kém và điều kiện
chăm sóc trẻ em cũng kém hơn [18].
Thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp, hạn hán, thiếu nước trồng trọt nên
năng suất cây trồng giảm, mất mùa, sản lượng lương thực giảm, ảnh hưởng
đến an ninh lương thực, dẫn đến số hộ đói nghèo nguy cơ tăng. Đồng thời
thiếu nước sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh ăn uống cũng dễ làm bệnh dịch

phát sinh. Các yếu tố này đều dẫn đến nguy cơ làm tăng số trẻ SDD [16].
Trẻ đẻ thấp cân: Những trẻ sơ sinh có cân nặng khi đẻ thấp (dưới 2500g)
thường là do đẻ non hoặc suy dinh dưỡng bào thai. Chức năng của các bộ máy
chưa hồn thiện, khả năng tiêu hố và hấp thu thức ăn kém, hệ thống miễn
dịch suy giảm, do đó trẻ dễ bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn và SDD, nguy cơ tử
vong cao [16], [18], [35].


21
Gia đình đơng con, kinh tế khó khăn: Gia đình đơng con thường đi kèm
với kinh tế khó khăn, cha mẹ khơng có đủ điều kiện và thời gian để chăm sóc
và ni dưỡng trẻ.
Hà Xn Sơn và CS (2012), nghiên cứu thực trạng SDD trẻ em dưới 5
tuổi tại xã Đồng Việt- Yên Dũng- Bắc Giang và các yếu tố liên quan cho thấy
trình độ văn hố của người mẹ cịn thấp, dịch vụ chăm sóc y tế chưa đầy đủ
liên quan đến tỷ lệ SDD [35].
Một số nghiên cứu cho thấy trẻ bị tật bẩm sinh (sứt môi, hở hàm ếch, tim
bẩm sinh...): Dị tật bẩm sinh ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng dinh dưỡng
của trẻ. Tỷ lệ SDD nặng ở những trẻ có dị tật bẩm sinh (34,6%) cao hơn so
với nhóm trẻ khơng có dị tật bẩm sinh (10,2%) [19], [36].
1.2 Thực trạng công tác phòng chống S

trẻ em tại Việt Nam

1.2.1. Mục tiêu của chương trình giai đoạn 2011- 2015
- Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn
quốc xuống dưới 15% (năm 2015) [6], [39].
- Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc
xuống dưới 26% (năm 2015) [6], [39].
1.2.2. Tình hình thực hiện chương trình phịng chống SDD trẻ em

Công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện chương trình: Tại
Trung ương đã thành lập Ban điều hành chương trình, 100% các địa phương
thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chương trình phịng chống suy dinh dưỡng trẻ
em ở các cấp tỉnh, huyện, xã. Viện Dinh dưỡng là cơ quan thường trực Ban
chỉ đạo Trung ương đã phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng các chỉ
tiêu, chỉ số phòng chống SDD cho các địa phương, hỗ trợ các tỉnh xây dựng
kế hoạch và chỉ đạo triển khai theo định hướng được phê duyệt. Tại tỉnh Sở Y


22
tế giao Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản là đơn vị thường trực triển
khai thực hiện chương trình trên phạm vi tồn tỉnh.Hàng năm Bộ Y tế luoonm
có các quyết định phê duyệt kế hoạch và văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển
khai các hoạt động cho các đơn vị tại trung ương và các địa phương, các văn
bản này được triển khai thực hiện tại các tuyến. Các quy định về giám sát,
kiểm tra, đánh giá được thực hiện theo đúng quy trình, các số liệu thống kê
được sử dụng cho việc xây dựng, điều chỉnh kế hoạch giúp cho chương trình
được thực hiện hiệu quả hơn [56].
Các giải pháp triển khai chương trình: Chương trình phịng chống SDD
trẻ em tập trung vào một số giải pháp như: Chiến lược dự phòng sớm, phòng
chống thiếu vi chất dinh dưỡng cho trẻ em, phụ nữ mang thai và phụ nữ tuổi
sinh đẻ; Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục dinh dưỡng; Kiện toàn
mạng lưới, tập huấn nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác dinh dưỡng;
Phục hồi dinh dưỡng cho trẻ SDD nặng bằng các sản phẩm giàu dinh dưỡng
và vi chất dinh dưỡng; Hỗ trợ sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ có nguy cơ bị
SDD tại vùng thiên tai, bão lụt, hạn hán; Phòng chống thiếu vitaminA và vi
chất dinh dưỡng cho trẻ em, phụ nữ mang thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ tại vùng
khó khăn, vùng có nguy cơ cao; Triển khai các can thiệp đặc hiệu, xây dựng
mơ hình dinh dưỡng đặc thù cho từng địa phương; Xây dựng chế độ ăn hợp lý
trong các trường mầm non; Đẩy mạnh công tác phối hợp liên ngành; Xây

dựng mơi trường, chính sách phục vụ cơng tác phịng chống SDD[56].
Các nội dung chăm sóc dinh dưỡng tại cộng đồng: Chăm sóc sức khỏe
và dinh dưỡng cho phụ nữ có thai, theo dõi tăng cân cho bà mẹ trong thời kỳ
mang thai để đảm bảo trẻ sinh ra khỏe mạnh không bị SDD bào thai. Xây
dựng mạng lưới cộng tác viên dinh dưỡng làm nhiệm vụ theo dõi tăng trưởng
của trẻ, tăng cân của bà mẹ trong quá trình mang thai. Hướng dẫn thực hành
chế biến thức ăn bổ sung kết hợp với truyền thông giáo dục dinh dưỡng bằng


23
nhiều hình thức khác nhau cũng là một nội dung hoạt động quan trọng của
mạng lưới cộng tác viên tuyến cơ sở. Phịng chống các bệnh nhiễm khuẩn và
chăm sóc trẻ tốt hơn trong và sau khi mắc bệnh; Phục hồi dinh dưỡng cho trẻ
em bị SDD nặng và bà mẹ mang thai có mức tăng cân thấp, Điều trị SDD cấp
tính cho trẻ ốm tại Bệnh viện và cộng đồng; Bổ sung vi chất như thiếu
vitaminA, sắt, i ốt, kẽm, canxi,... vào thực phẩm; Tẩy giun định kỳ cho trẻ
trên 2 tuổi. Gắn các hoạt động phòng chống SDD trẻ em với các hoạt động hỗ
trợ xây dựng, phát triển kinh tế hộ gia đình như vay vốn kamf kinh tế, tín
dụng tiết kiệm,... Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng hệ
sinh thái V.A.C, trực tiếp cải thiện cơ cấu bữa ăn gia đình, bữa ăn của các
cháu trường mầm non. Một số nghiên cứu đánh giá chương trình cho thấy kết
quả thu được rất tốt nhất là ở miền núi khi gắn với chăm sóc sức khỏe ban đầu
[14],[49],[50].
Kết quả đạt được: Trong giai đoạn 2011-2014, chương trình đạt được
triển khai thường xuyên và mang lại nhiều kết quả đáng kể. Hàng năm,
Ban điều hành chương trình trung ương tổ chức hội nghị tổng kết, rút kinh
nghiệm trên toàn quốc, đồng thời hỗ trợ xây dựng kế hoạch và tổ chức
huấn luyện, hỗ trợ kỹ thuật cho tuyến dưới. Công tác truyền thông được
thực hiện thường xuyên và đẩy mạnh trong các dịp chiến dịch như ngày vi
chất (từ ngày 1-2 tháng 6); Tuần lễ thế giới nuôi con bằng sữa mẹ (từ

ngày 1-7 tháng 8) và tuần lễ dinh dưỡng và phát triển (từ ngày 16-23
tháng 10) hàng năm. Kết quả là trên 50% số phụ nữ có thai và phụ nữ có
con dưới 2 tuổi được tham dự các buổi thực hành dinh dưỡng. Trên 90%
trẻ em dưới 2 tuổi được theo dõi biểu đồ tăng trưởng thường xuyên. Trên
98% trẻ 6-60 tháng tuổi tại 22 tỉnh có tỷ lệ SDD thấp còi cao được bổ
sung vitaminA liều cao 2 lần/ năm; trên 90% trẻ 24-60 tháng tuổi tại các
tỉnh này được tẩy giun và trên 98% trẻ 6-36 tháng tuổi tại các tỉnh còn lại


24
được bổ sung vitaminA liều cao 2 lần/ năm. Trên 100.000 phụ nữ có thai
và phụ nữ tuổi sinh đẻ được nhận viên sắt/ đa vi chất từ chương trình.
Hơn 4.000 trẻ bị SDD cấp tính năng tại cồng đồng được nhận các sản
phẩm phục hồi dinh dưỡng,...[56].
1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chương trình phịng
chống SDD trẻ em
Để triển khai thực hiện chương trình phòng chống SDD trẻ em đạt hiệu
quả cao cần huy động sự tham gia của nhiều lực lượng trong xã hội, đó là sự
quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; sự vào cuộc của các
ban, ngành, đoàn thể; sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ mạng lưới và sự tham
gia ủng hộ của cộng đồng. Bên cạnh đó cũng rất cần có sự đầu tư thỏa đáng
về vật chất cho việc thực hiện chương trình như: Trang bị các dụng cụ,
phương tiện, tài liệu, hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động,...[49]. Bên cạnh các
yếu tố về nguồn lực thì việc tổ chức, quản lý, điều hành chương trình ở các
tuyến và triển khai thực hiện các hoạt động cũng góp phần đáng kể quyết
định sự thành bại của chương trình [45],[50].
1.2.3.1. Nguồn lực
*Nhân lực: Con người luôn là yếu tố vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động
nói chung và trong việc triển khai thực hiện các chương trình nói riêng. Ảnh
hưởng từ yếu tố nhân lực tới việc thực hiện chương trình phịng chống suy

dinh dưỡng trẻ em có thể từ nhiều khía cạnh như: Việc thành lập Ban chỉ đạo,
phân công trách nhiệm trong quản lý; thiết lập hệ thống mạng lưới tham gia
thực hiện chương trình ở các cấp; Năng lực về quản lý chương trình, chun
mơn nghiệp vụ và kỹ năng truyền thông của cán bộ các tuyến,... [45], [49].
*Vật lực: Bao gồm các trang thiết bị, phương tiện phục vụ triển khai dự án
như: cân, thước đo, phương tiện, tài liệu truyền thông, sổ sách theo dõi, biểu


25
đồ tăng trưởng,... các trang thiết bị, dụng cụ này giúp cho việc triển khai hoạt
động của chương được thực hiện đúng yêu cầu, kỹ thuật và đảm bảo hiệu quả
của chương trình [49].
*Tài lực: Kinh phí hỗ trợ cho việc triển khai thực hiện chương trình ảnh
hưởng đến kết quả đạt được của chương trình. Kinh phí bao gồm cả nguồn
ngân sách nhà nước cấp và các nguồn kinh phí hỗ trợ khác. Một số hoạt động
được thực hiện khơng bị phụ thuộc vào kinh phí nhưng cũng có khơng ít hoạt
động chỉ được thực hiện khi có kinh phí đầu tư và rất nhiều hoạt động sẽ kém
hiệu quả khi khơng có nguồn kinh phí đầu tư thỏa đáng [49], [50].
1.2.3.2. Tổ chức hoạt động
Việc tổ chức các hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả triển
khai thực hiện chương trình. Tổ chức hoạt động bao gồm: Lập kế hoạch hoạt
động; tổ chức đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ mạng
lưới; Tổ chức hoạt động truyền thông; Theo dõi tăng trưởng cho trẻ em;
Chăm sóc thai sản và các hoạt động chăm sóc dinh dưỡng tại cộng đồng [32],
[48]. Vai trò quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện các hoạt động của Ban chỉ
đạo các cấp là đặc biệt quan trọng và khơng thể thiếu vai trị của giám sát hỗ
trợ việc thực hiện các hoạt động triển khai chương trình [32], [45], [49].
1.3. Một số nét về tỉnh

ịa ình


Hồ Bình là một tỉnh miền núi phía Bắc có dân số hơn 830 nghìn
người, phân bố ở 10 huyện, 01 thành phố, 210 xã và 2.084 thơn, xóm. Trong
số 7 dân tộc anh em thì chủ yếu là dân tộc Mường (63%), dân tộc Kinh
(27%), các dân tộc khác như Thái, H’Mông, Tày, Dao, Hoa (10%). Là một
trong số những Tỉnh nghèo, kinh tế chủ yếu là nông - lâm nghiệp, tỷ lệ hộ
nghèo là 15,46% (năm 2014), tập quán sinh hoạt và canh tác còn nhiều lạc
hậu. Tồn tỉnh vẫn cịn 95 xã đặc biệt khó khăn (theo quyết định số


×